Chương 14
Nhiệm vụ của tôi ở xưởng không có gì phức tạp: Sáng sớm, khi tất cả mọi người còn ngủ, tôi chuẩn bị ấm samovar cho anh em thợ; trong khi họ uống trà trong bếp, tôi cùng Pavel thu dọn xưởng và tách lòng đỏ khỏi lòng trắng trứng để pha màu, sau đó ra cửa hiệu. Buổi tối, người ta bắt tôi tán nhỏ thuốc màu và “làm quen” với nghề nghiệp. Lúc đầu tôi “làm quen” rất hứng thú, nhưng chẳng bao lâu tôi hiểu rằng hầu hết những người theo đuổi cái “nghệ thuật” đã bị phân chia làm nhiều mảnh như thế này đều không thích nghề đó và khổ sở đến phát ngấy.
Các buổi tối rỗi rãi, tôi kể cho mọi người nghe về cuộc sống trên tàu thủy, tôi kể cả những câu chuyện khác trong sách vở và vô hình trung tôi đã giữ một vai trò đặc biệt trong xưởng – vai trò người kể chuyện và đọc sách. Chẳng bao lâu tôi hiểu rằng tất cả những người này đều thấy ít và biết ít hơn tôi; hầu hết họ đã bị giam chân trong một cái lồng nghề nghiệp chật hẹp ngay từ khi còn nhỏ. Cả xưởng chỉ có một mình Jikharev là đã đến Moskva, bác nói về thành phố đó với giọng trang nghiêm và khó chịu.
- Moskva không tin ở những giọt nước mắt đâu, ở đấy phải cẩn thận!
Tất cả những người còn lại mới đến có Shuya, Vladimir. Khi nói đến Kazan, họ hỏi tôi:
- Ở đấy có nhiều người Nga không? Có nhà thờ không?
Theo họ thì Perm ở tận Siberia, họ không tin rằng Siberia lại ở phía bên kia dãy Ural.
- Người ta chở cá vược và cá chiên của Ural từ đấy lại, từ biển Caspian lại phải không? Như vậy là Ural thuộc miền biển!
Đôi khi tôi tưởng họ chế giễu tôi, họ nói nước Anh nằm ở phía bên kia đại dương, còn Bonaparte thì vốn xuất thân từ dòng dõi quý tộc ở Kaluga. Khi tôi kể cho họ những điều tai nghe mắt thấy, họ không tin tôi lắm, nhưng mọi người đều thích các chuyện khủng khiếp và rắc rối. Ngay cả những người đứng tuổi cũng rõ ràng thích chuyện bịa hơn chuyện thật. Tôi thấy rõ rằng sự việc càng vô lí bao nhiêu, câu chuyện càng hoang đường bao nhiêu, người ta càng chú ý nghe bấy nhiêu. Nói chung, thực tại không cảm kích được họ, tất cả đều nhìn về tương lai với con mắt mơ màng, không muốn nhìn đến sự nghèo nàn và xấu xa của hiện tại.
Điều đó càng khiến tôi ngạc nhiên hơn, tôi cảm thấy rất rõ những mâu thuẫn giữa thực tế và sách vở. Trước mặt tôi là con người sinh động mà trong sách vở không thấy được: bác Smouri, anh thợ đốt lò Yaakov, ông khách lưu lạc Aleksasha Vassiliep, bác Jikharev, chị thợ giặt Natalya…
Trong hòm của Davidov có tập truyện ngắn của Golitzinski, cuốn Ivan Vuijigin của Bulgarian, cuốn sách nhỏ của Nam tước Brambeus[138]. Tôi đã đọc to tất cả những cuốn sách nhàu nát đó cho mọi người, họ đều rất thích. Bác Larionovich bảo:
- Việc đọc sách dẹp được những cuộc cãi cọ và tán nhảm, cái đó tốt lắm!
Tôi liền lo đi kiếm sách; tôi tìm được và hầu như tối nào cũng đọc. Thật là những buổi tối tuyệt diệu, trong xưởng im lặng như đêm khuya, phía trên bàn có treo những ngọn đèn thủy tinh hình cầu như những ngôi sao vừa trắng vừa lạnh; tia sáng của chúng chiếu vào mấy cái đầu hói hoặc rối bù đang gí sát xuống bàn. Tôi trông thấy những khuôn mặt trầm lặng, đăm chiêu. Thỉnh thoảng lại có người thốt lên một tiếng, khen nhân vật hoặc tác giả cuốn sách. Mọi người chăm chú và dịu dàng, trông khác hẳn trước đây; tôi rất thích họ trong những giờ phút đó, và họ đối xử với tôi cũng rất tốt, tôi thấy thoải mái, dễ chịu.
- Sách vở đối với chúng ta đã trở nên như mùa xuân, khi lần đầu tiên những ô cửa sổ mùa đông được mở toang đón không khí trong sạch tràn vào. – Có lần Sitanov đã nói như vậy.
Kiếm được sách không phải chuyện dễ; chẳng ai nghĩ tới chuyện ghi tên đọc sách ở thư viện cả. Nhưng dù sao tôi cũng dùng mọi mánh khóe, nài xin khắp nơi như xin của bố thí, và kiếm được vài cuốn sách nhỏ. Một hôm ông đội trưởng đội cứu hỏa cho tôi một tập sách của Lermontov[139], và lúc đó tôi mới cảm thấy sức mạnh của thơ ca ảnh hưởng lớn lao tới mọi người như thế nào.
Tôi nhớ là ngay từ khi mới đọc những dòng chữ đầu của bản trường ca Con quỷ, Sitanov liền nhìn vào cuốn sách, sau đó nhìn vào mặt tôi. Anh đặt bút lông trên bàn, nhét hai tay dài ngoằng ngoẵng vào giữa hai đầu gối, người lắc lư, miệng mỉm cười. Cái ghế ở phía dưới anh kêu cọt kẹt.
- Im lặng nào, các cậu. – Bác Larionovich nói rồi cũng bỏ việc đi đến bên bàn của Sitanov, nơi tôi ngồi đọc. Bản trường ca làm tôi xúc động say sưa và nghẹn ngào, giọng tôi thường bị ngắt quãng, tôi nhìn không rõ những câu thơ, nước mắt cứ trào ra. Nhưng cảm động hơn nữa là sự đi lại im lặng và rón rén trong xưởng, mọi người từ từ quay lại, dường như có một miếng nam châm hút họ tới chỗ tôi. Khi tôi đọc xong phần đầu, hầu hết anh em thợ đều đứng quanh bàn, tựa sát vào nhau, ôm nhau, tươi cười hoặc trang nghiêm.
- Đọc đi, đọc đi. – Bác Jikharev vừa nói vừa ấn đầu tôi xuống cuốn sách.
Tôi đọc xong, bác giằng lấy cuốn sách, nhìn tên nó rồi cặp vào nách và tuyên bố:
- Cuốn này cần phải đọc lại một lần nữa! Ngày mai cháu lại đọc. Để bác giấu cuốn sách cho.
Bác đem “Lermontov” cất vào trong ngăn kéo của bác rồi lại bắt tay vào công việc. Trong xưởng im lặng; mọi người rón rén trở về chỗ. Sitanov lại gần cửa sổ, tựa trán vào kính và đờ ra, còn bác Jikharev thì đặt bút lông xuống và nói, giọng nghiêm nghị:
- Thế mới là cuộc sống chứ, ôi những bầy tôi của Chúa Trời!…
Bác khẽ nhún vai, giấu đầu xuống rồi tiếp tục:
- Thậm chí tôi có thể vẽ được con quỷ: Mình đen và đầy lông lá, cánh đỏ như lửa – màu hồng đơn, còn mặt mũi chân tay đều trắng xanh như tuyết trong đêm sáng trăng.
Cho đến tận bữa ăn tối, bác không thể ngồi yên trên ghế đẩu, cựa quậy luôn, khác hẳn mọi ngày, tay gõ gõ, miệng lảm nhảm về ma quỷ, về đàn bà và Eva, về thiên đường và các vị thánh phạm tội như thế nào.
- Tất cả những cái đó đều có thực! – Bác xác nhận. – Nếu các vị thánh đều có thể phạm tội với những người đàn bà có tội thì dĩ nhiên quỷ sứ cũng thích phạm tội với linh hồn trong sạch…
Mọi người im lặng nghe bác nói, có lẽ tất cả cũng giống tôi, không ai muốn nói gì. Họ làm việc một cách miễn cưỡng, luôn luôn nhìn đồng hồ, và khi chuông đồng hồ điểm chín giờ, tất cả nhất loạt bỏ việc.
Sitanov và bác Jikharev bước ra sân, tôi đi theo họ. Đứng ở dưới sân, Sitanov ngắm các vì sao và nói:
Đàn lạc đà đi lang thang đây đó,
Trong không gian lạc lõng những vì sao…[140]
Câu đó không thể bịa ra được!
- Tôi không nhớ câu nào hết. – Bác Jikharev vừa nói vừa rùng mình vì đứng ở ngoài trời lạnh buốt. – Tôi không nhớ gì cả, nhưng nhìn thấy hắn! Cái đó thật kì lạ – con người lại có thể bắt con quỷ phải thương ư? Thật đáng thương cho hắn, phải không?
- Đáng thương. – Sitanov tán thành.
- Đấy, con người là thế đấy! – Bác Jikharev thốt lên một câu thật khó mà quên được.
Vào tới phòng ngoài, bác dặn tôi:
- Maksimovich, cháu không được nói với ai ở cửa hiệu về cuốn sách này nhé: Tất nhiên đây là một cuốn sách cấm!
Tôi rất vui mừng: Thì ra vì những cuốn sách này mà lão cố đạo lúc tôi xưng tội đã hỏi tôi đây!
Mọi người ăn tối một cách uể oải, không ồn ào và nói chuyện như mọi khi, dường như có điều gì quan trọng đã xảy ra khiến họ suy nghĩ miên man. Sau tối, khi tất cả đã nằm ngủ, bác Jikharev rút cuốn sách và bảo tôi:
- Nào, cháu hãy đọc lại một lần nữa! Đọc chậm thôi, đừng có vội vã…
Vài người mặc quần áo lót lặng lẽ nhổm dậy khỏi giường, đi lại gần bàn và ngồi co chân xung quanh.
Khi tôi đọc xong, bác Jikharev lại gõ gõ ngón tay lên mặt bàn và nói:
- Thế mới là cuộc sống chứ! Chà, con quỷ, con quỷ… Thế đấy, anh bạn ạ!
Sitanov chồm qua vai tôi, đọc một câu, và cười nói:
- Tôi sẽ chép lại vào cuốn vở của tôi…
Bác Jikharev đứng dậy và đem cuốn sách tới chỗ bàn bác, nhưng bỗng nhiên bác dừng lại và bắt đầu nói với giọng run run và tức giận:
- Chúng ta sống như những con chó mù, chẳng biết cái quái gì cả, chúng ta không ích gì cho Chúa mà cũng chẳng ích gì cho ma quỷ! Chúng ta thế này mà là bầy tôi của Chúa à? Yod là bầy tôi của Chúa, chính Chúa đã nói chuyện với Yod! Cả với Moses nữa![141] Thậm chí Chúa còn đặt tên cho Moses: Họ đều là người của Chúa. Còn chúng ta là của ai?…
Bác cất cuốn sách, mặc quần áo và hỏi anh Sitanov:
- Có đi ra quán rượu không?
- Tôi phải đi tới chỗ ấy bây giờ. – Sitanov khẽ đáp.
Khi họ đi khỏi, tôi nằm xuống sàn cạnh cửa, bên cạnh Pavel Odintzov. Nó trằn trọc hồi lâu không ngủ được, đột nhiên sụt sịt và thổn thức khóc.
- Cậu làm sao vậy?
- Tớ thương bọn họ quá[142]. – Nó nói. – Tớ đã sống cùng với họ hơn ba năm nay rồi, tớ biết tất cả mọi người…
Tôi cũng thương những người này; chúng tôi nằm nói chuyện thì thầm về họ, mãi không sao ngủ được. Chúng tôi thấy ở mỗi người đều có những đức tính, những nét trung hậu, và ở tất cả mọi người đều có một điểm gì đó khiến chúng tôi càng thêm thương họ với lòng thương trẻ thơ của chúng tôi.
Tôi sống với Pavel Odintzov rất thân ái; sau này nó trở thành một người thợ giỏi, nhưng cũng chẳng được bền lâu; tới năm ba mươi tuổi nó bắt đầu uống rượu tợn; sau đó tôi gặp nó ở chợ Khitrov ở Moskva, lúc này nó đã biến chất thành một tay lưu manh. Gần đây tôi nghe đồn nó chết vì bệnh thương hàn. Tôi rùng mình khi nghĩ đến biết bao nhiêu người trung hậu đã chết một cách vô nghĩa ở thời đại của tôi! Tất cả đều mòn mỏi sống rồi mòn mỏi chết, đó là lẽ tự nhiên, nhưng không nơi nào người ta lại mòn mỏi một cách nhanh chóng, đáng sợ và vô nghĩa như ở nước Nga chúng ta…
Lúc ấy nó còn là một đứa bé đầu tròn, lớn hơn tôi hai tuổi, linh lợi thông minh và ngay thật. Nó rất có tài, vẽ chim, mèo, chó rất giỏi, và vẽ tranh châm biếm anh em thợ rất khéo, lúc nào nó cũng vẽ họ có cánh. Sitanov là con chim mỏ nhát buồn bã đứng một chân, Jikharev là con gà trống có cái mào rách, không có lông ở chóp, Davidov ốm yếu là con chim te te khiếp sợ. Nhưng đạt hơn cả là ông thợ chạm Golovev được vẽ thành một con dơi tai to, mũi rất mỉa mai và đôi chân nhỏ, mỗi chân có sáu móng. Trên khuôn mặt tròn đen hiện lên hai vòng mắt trắng, hai con ngươi giống như hai hột đậu đứng dựng giữa mắt – cái đó khiến khuôn mặt thiếu sức sống và trông rất xấu.
Anh em thợ không bực mình khi Pavel cho họ xem những bức tranh châm biếm, nhưng bức biếm họa về Golovev gây cho tất cả một ấn tượng khó chịu, họ nghiêm khắc khuyên “họa sĩ”:
- Tốt hơn cả mày nên xé đi ngay, không lão già mà nhìn thấy thì lão sẽ đánh mày chết mất!
Lão già vừa bẩn vừa hôi hám, luôn say khướt ấy là một người sùng đạo cuồng tín, độc ác ra mặt và hay đem chuyện của cả xưởng đến hớt lẻo với gã quản lí. Bà chủ định gả đứa cháu gái cho gã, vì vậy gã cảm thấy mình đã là chủ toàn bộ ngôi nhà và mọi người, cả xưởng thù ghét gã, nhưng cũng lại sợ Golovev.
Pavel dùng đủ mọi cách quấy rầy gã thợ chạm giống như nó tự đặt cho mình nhiệm vụ không để cho Golovev được yên tĩnh lấy một giây một phút. Tôi cũng hết sức giúp đỡ nó trong việc này; cả xưởng thích thú trước những trò quấy tếu, thường là thô lỗ một cách tàn nhẫn của chúng tôi, tuy nhiên họ cũng ngăn hai đứa:
- Khéo không bị phạt đấy, các chú ạ! “Kouzka Bọ hung” sẽ đuổi các chú mất!
“Kouzka Bọ hung” là tên lóng mà mấy người ở xưởng đặt cho gã quản lí.
Những lời đe trước ấy không làm chúng tôi sợ hãi, chúng tôi lấy màu bôi vào mặt lão thợ chạm lúc lão ngủ. Một hôm, lão uống rượu say, lăn ra ngủ, chúng tôi mạ vàng mũi lão và suốt ba ngày lão không thể nào tẩy sạch vết vàng trong kẽ cái mũi xốp. Mỗi lần chúng tôi chọc giận lão, tôi lại nhớ tới tàu thủy, nhớ anh lính bé nhỏ người vùng Viatka và lòng tôi trở nên vẩn đục. Mặc dù đã có tuổi, Golovev vẫn khỏe, lão thường xông vào đánh chúng tôi một cách bất ngờ, đánh xong lão còn đi than phiền với bà chủ.
Bà này ngày nào cũng say rượu nên bao giờ cũng hiền hậu vui vẻ. Bà cố làm cho chúng tôi sợ, đấm hai tay béo húp lên bàn và la:
- Lại lũ quỷ sứ, sao chúng mày tinh nghịch thế? Bác ấy già rồi, phải kính trọng bác ấy chứ! Đứa nào đã rót dầu hỏa vào cốc bác ấy giả làm rượu?
- Chúng cháu đấy…
Bà chủ ngạc nhiên:
- Trời đất ơi, chúng nó lại còn thú nhận nữa kia! Chà, lũ đáng nguyền rủa này… Phải kính trọng người già chứ!
Bà đuổi chúng tôi ra và đến tối lại than phiền với gã quản lí; gã này liền nghiêm khắc mắng tôi:
- Sao mày lại làm thế: Mày đọc sách, thậm chí cả Kinh thánh nữa, thế mà mày dám nghịch như vậy ư? Coi chừng đấy, chú mình ạ!
Bà chủ sống độc thân và rất đáng thương; thỉnh thoảng uống rượu ngọt xong bà ngồi bên cạnh cửa sổ hát nghêu ngao:
Có ai để ý đến ta,
Có ai thương đến bà già này đâu,
Có ai thấu được nỗi sầu,
Biết cùng ai trút cạn bầu tâm tư.
Rồi bà khóc nức nở, kéo dài cái giọng run run của người già:
- Hu-u-u-u-u…
Một hôm, tôi trông thấy bà bưng bình sữa hâm nóng đi về phía cầu thang, nhưng bỗng bà khuỵu chân rồi cứ tuột dần theo từng bậc thang, nặng nề, tay vẫn không buông bình sữa. Sữa sánh ra cả áo, còn bà thì duỗi tay, bực tức mắng nhiếc cái bình:
- Mày làm sao thế, hở đồ quỷ? Mày định đi đâu thế này?
Bà không to nhưng thân hình mềm nhẽo, giống một con mèo già không thể bắt chuột được nữa và vì ăn no quá nên chỉ gừ gừ, nhớ lại một cách thú vị những thành công và khoái lạc ngày trước.
- Hừ. – Sitanov vừa nói vừa cau mày, vẻ đăm chiêu. – Đã có thời kì công việc phát đạt, xưởng làm ăn khấm khá, một người thông minh cai quản mọi việc đâu vào đấy, nhưng bây giờ hóa ra vô ích, tất cả đều lọt vào tay “Kouzka Bọ hung” cả! Dù có làm bao nhiêu thì cũng chỉ là làm cho kẻ khác! Cứ nghĩ đến chuyện đó là trong đầu óc như có một cái lò xo bỗng nhiên bị đứt, chẳng muốn làm gì nữa, chỉ muốn bỏ hết mọi việc, leo lên mái nhà và nằm ngắm bầu trời suốt cả mùa hè…
Pavel Odintzov cũng nhiễm những suy nghĩ ấy của Sitanov. Nó vừa phì phèo hút thuốc ra vẻ người lớn vừa triết lí về Chúa, về rượu chè, về đàn bà, và nói rằng công việc gì rồi cũng sẽ hỏng hết, một số người làm ra một cái gì đó, nhưng số khác lại phá hoại cái đã được tạo nên, không hiểu biết và không quý trọng nó.
Trong những giờ phút đó, khuôn mặt sắc sảo dễ thương của nó nhăn lại, như già đi. Nó ngồi lên giường kê trên sàn, ôm hai đầu gối và nhìn rất lâu những ô cửa sổ vuông sơn màu xanh da trời, mái nhà kho bị những tảng tuyết đè lên và những ngôi sao trên bầu trời mùa đông.
Thợ vừa ngủ vừa ngáy khò khò vừa rên rỉ; có người mê sảng, nói những câu ngắt quãng, Davidov nằm trên phản khạc nhổ ra nốt mẩu đời còn lại của mình. Trong góc nhà, những “bầy tôi của Chúa” là Kapendiukhin, Sorokin và Pershin nằm sát vào nhau như bị trói chặt bởi giấc ngủ và cơn say rượu. Những bức tượng thánh không mặt, không chân, không tay dựng ở tường nhìn ra. Mùi dầu gai nồng nặc, mùi trứng thối, bùn chua két lại ở kẽ sàn tỏa ra ngột ngạt.
- Trời ơi! Tớ thương họ quá! – Pavel thì thầm.
Như tôi đã nói, hai đứa tôi cảm thấy tất cả anh em thợ đều là những người tốt, thế mà cuộc sống của họ lại khổ cực, không xứng đáng với họ và buồn chán không thể chịu được. Vào những ngày đông bão tuyết, khi tất cả mọi vật trên mặt đất – nhà cửa, cây cối – đều rung chuyển, gào thét, khóc lóc, khi những tiếng chuông sầu não vang lên báo hiệu tuần chay, nỗi buồn chán tràn vào xưởng tựa một làn sóng nặng như chì đè lên mọi người, hủy hoại tất cả những gì còn sống trong người họ, đẩy họ vào quán rượu, tới đàn bà – một phương tiện để lãng quên, cũng giống như rượu chè.
Vào những tối buồn thảm như vậy, sách vở không có tác dụng gì nữa. Khi ấy tôi cùng với Pavel cố gắng dùng mọi cách giúp anh em thợ vui vẻ: Chúng tôi lấy bồ hóng, thuốc màu bôi mặt, lấy xơ gai hóa trang và đóng những vở hài kịch do chúng tôi soạn; chúng tôi dũng cảm đấu tranh với buồn chán và bắt mọi người phải cười. Tôi nhớ lại Chuyện một anh lính cứu sống Pyotr Đại đế và đem trình bày câu chuyện nhỏ đó dưới hình thức hội thoại; chúng tôi leo lên gác lửng của anh Davidov và diễn ở đó, vui vẻ chặt đầu những người Thuỵ Điển trong tưởng tượng khiến các khán giả cười phá lên.
Họ rất thích truyện Con quỷ Trung Quốc của Trần Hữu Đông; Pashka đóng vai con quỷ bất hạnh muốn làm điều thiện, còn tôi đảm nhiệm tất cả các vai còn lại: Tôi đóng vai nam lẫn vai nữ, vai các đồ vật, vai thần Thiện và thậm chí đóng cả vai hòn đá để con quỷ Trung Quốc ngồi nghỉ trong lúc nó vô cùng chán nản sau mỗi lần định làm điều thiện mà không thành.
Các khán giả cười phá lên, tôi rất ngạc nhiên không hiểu vì sao lại có thể làm cho họ cười một cách dễ dàng đến thế, sự dễ dàng ấy khiến tôi hết sức bực mình.
- Chà, lũ hề! Lũ múa rối! – Họ gọi chúng tôi như vậy.
Nhưng càng về sau tôi càng có ý nghĩ ám ảnh rằng nỗi buồn thường gần với tâm hồn của những người này hơn là niềm vui.
Niềm vui không bao giờ bỗng nhiên xuất hiện, và bản thân sự xuất hiện của nó cũng không đáng kể, nó có được là do người ta cố ý khơi lên từ lãng quên, như một phương tiện để làm giảm bớt nỗi buồn rầu nặng trĩu trong lòng những người Nga. Sức mạnh bên trong của niềm vui thật đáng nghi ngờ, bản thân niềm vui không luôn tồn tại, chẳng phải vì nó muốn thế đâu, mà nó chỉ có cơ hội xuất hiện khi bị những ngày buồn bã khích động.
Niềm vui của người Nga thường đột nhiên biến thành một tấm thảm kịch tàn khốc. Có người đang nhảy múa như cố đập tan xiềng xích trói buộc mình, bỗng đột nhiên thả con thú hung dữ nhất trong người ra, rồi trong cơn buồn chán dữ dội đó, anh ta nhảy xổ vào mọi người, cắn xé, đập phá hết mọi thứ.
Niềm vui giả tạo do những yếu tố bên ngoài tạo ra làm tôi tức giận. Bị khích động đến quên cả bản thân, tôi bắt đầu kể và đóng những chuyện ngông cuồng do tôi đột xuất tưởng tượng ra, vì tôi muốn gây cho mọi người một niềm vui thực sự, tự do và thoải mái! Tôi cũng đạt được đôi chút thành công, người ta khen ngợi tôi, ngạc nhiên về tôi, nhưng nỗi buồn mà tôi tưởng đã lay chuyển được vẫn cứ từ từ đậm đặc thêm, củng cố thêm và đè trĩu lên mọi người.
Bác Larionovich âu yếm bảo tôi:
- Trời ơi, cháu vui tính quá.
- Nó biết cách pha trò đấy! – Jikharev đỡ lời bác. – Maksimovich ạ, cháu phải xin vào một rạp xiếc hay rạp hát nào đó, nhất định cháu sẽ trở thành một tay hề giỏi đấy!
Cả xưởng chỉ có hai người, Kapendiukhin và Sitanov, là đi xem kịch vào lễ Giáng sinh và tuần chay. Những người thợ lớn tuổi hơn nghiêm chỉnh khuyên họ giải tội ấy bằng cách tắm ở hố băng, nơi lấy nước rửa tội. Sitanov thường khuyên tôi:
- Bỏ mẹ nó đấy, đi mà học đóng kịch thôi!
Rồi anh xúc động kể lại Cuộc đời đáng buồn của diễn viên Yakolev[143].
- Có thể như thế đấy!
Anh thích kể về nữ hoàng Marie Stuart[144], gọi bà là “kẻ bịp bợm”, và anh khâm phục nhất Nhà quý tộc Tây Ban Nha[145]
- Don César de Bazan, Maksimovich ạ, là một người vô cùng cao thượng! Một người tuyệt diệu!
Trong chính bản thân anh hình như cũng có cái gì giống với “nhà quý tộc Tây Ban Nha”. Một hôm, tại quảng trường trước chòi canh, có ba tên lính chữa cháy đánh một bần nông để giải trí: Đám đông, khoảng bốn mươi người, đứng xem và khen ngợi bọn lính. Sitanov xông vào đám đánh nhau, vung đôi tay dài, thụi bọn lính túi bụi, nâng người bần nông dậy, đẩy anh ta vào đám đông, quát ầm lên:
- Đưa anh ta đi!
Còn anh thì ở lại, một mình chọi với ba tên lính chữa cháy. Sân của đội cứu hỏa ở cách đó khoảng mười bước, bọn lính có thể gọi người tới giúp và có thể đánh quỵ Sitanov, nhưng may cho anh, bọn này hoảng sợ, chạy biến ngay vào trong sân.
- Lũ chó! – Anh mắng với theo.
Cứ Chủ nhật là bọn thanh niên lại kéo nhau tới khoảng rừng sau nghĩa địa Petropavlovski để đấu quyền. Họ tụ tập để đấu với cánh đổ rác và cánh bần nông ở các làng lân cận. Đội đổ rác cử ra một đấu thủ trứ danh đấu với bọn choai choai ở thành phố tới: Một người Moldova khổng lồ đầu nhỏ, mắt đau và lúc nào cũng nhấp nhổm. Gã lấy vạt áo cánh ngắn và bẩn lau nước mắt rồi đứng trước đồng bọn, dạng chân, hướng về địch thủ, gọi một cách thân mật:
- Ra đi chứ, kẻo cảm lạnh mất!
Phía chúng tôi cử Kapendiukhin; gã Moldova bao giờ cũng thắng. Nhưng anh Cossack luôn luôn bị sứt đầu chảy máu và mệt gần chết ấy vẫn nói:
- Chết sống cũng phải thắng được tên Moldova kia!
Rút cục, điều đó đã trở thành mục đích của đời anh, thậm chí anh bỏ uống rượu, trước khi đi ngủ lấy tuyết xát mình, ăn nhiều thịt, mỗi tối anh đều cử nhiều lần quả tạ nặng hai pood[146] để cho bắp thịt nở nang. Nhưng làm thế vẫn chẳng ăn thua. Anh liền khâu vào trong bao tay những mảnh chì và khoe với Sitanov:
- Lần này thì tên Moldova phải chết!
Sitanov nghiêm khắc cảnh cáo:
- Thôi ngay đi, không có tao sẽ nói ra trước khi đấu cho mà xem!
Kapendiukhin không tin lời anh, nhưng khi đến chỗ đấu, Sitanov đột nhiên bảo gã Moldova:
- Tránh ra, Vassili Ivanovich. Để tôi đấu với Kapendiukhin trước!
Anh Cossack đỏ mặt tía tai gầm lên:
- Mình không đấu với cậu, tránh ra!
- Phải đấu. – Sitanov vừa nói vừa đi về phía anh Cossack, mắt nhìn chằm chằm vào khuôn mặt anh.
Kapendiukhin giậm chân tại chỗ, tháo bao tay nhét vào trong áo rồi vội vàng rời khỏi nơi đấu.
Cả phía chúng tôi lẫn phía địch đều ngạc nhiên một cách khó chịu. Một người có vẻ đứng đắn nói với Sitanov, giọng bực tức:
- Anh bạn ạ, giải quyết việc trong nhà ở ngoài bãi đấu công cộng là hoàn toàn không hợp pháp!
Mọi người từ tứ phía đổ dồn về chỗ Sitanov, chửi rủa anh; anh im lặng hồi lâu, cuối cùng nói với người đứng đắn kia:
- Nếu như tôi muốn ngăn một vụ giết người thì sao?
Người đứng đắn đó lập tức đoán được ngay và thậm chí ngả mũ cát két:
- Thế thì chúng tôi cần phải cảm ơn anh!
- Nhưng xin bác chớ làm ầm lên!
- Làm ầm để làm gì kia chứ? Kapendiukhin là một đấu thủ hiếm có, thất bại làm anh ta cáu, chúng tôi hiểu lắm! Bây giờ trước khi đấu chúng tôi sẽ xem xét bao tay của anh ta.
- Đó là việc của bác!
Khi người đứng đắn đó đi khỏi, phía chúng tôi bắt đầu chửi Sitanov:
- Mày ngứa mồm chõ vào làm gì mới được chứ! Đáng lẽ hôm nay anh chàng Cossack thắng, nhưng từ nay chúng ta sẽ lại thất bại mãi…
Người ta chửi rủa anh hồi lâu, chửi bằng chán, bằng thích mới thôi.
Sitanov thở dài:
- Chao ôi, các người thật đê tiện…
Rồi thật là bất ngờ, anh gọi gã Moldova ra đấu tay đôi. Gã này đứng ngay vào vị trí, vui vẻ vung vẩy nắm đấm và đùa:
- Đấu đi cho nó ấm người lên…
Mấy người nắm tay nhau dùng lưng gạt những người đứng sau, làm thành một vòng tròn rộng lớn.
Hai đấu thủ nhìn nhau chằm chặp, tay phải giơ về phía trước, tay trái để trước ngực. Những người giàu kinh nghiệm nhận thấy ngay tay của Sitanov dài hơn tay gã Moldova. Xung quanh im lặng, tuyết dưới chân hai đấu thủ kêu lạo xạo. Một người nào đó không chịu nổi sự căng thẳng, lắp bắp:
- Bắt đầu đi thôi…
Sitanov vung tay phải lên, gã Moldova khẽ đưa tay trái ra đỡ và bị tay trái Sitanov đấm thẳng một cú vào bụng. Gã đằng hắng một tiếng, lùi lại, khoái chí:
- Trẻ, nhưng không phải là tay ngốc!
Họ bắt đầu xông vào và vung những quả đấm nặng nề vào ngực nhau. Sau mấy phút, những người đứng xem của cả hai bên đều kêu ầm lên:
- Nhanh tay lên, anh thợ họa[147]! Hãy họa hắn ta đi, chạm trổ đi nào!
Gã Moldova khỏe hơn Sitanov nhiều, nhưng thân hình lại khá nặng nề nên không thể đánh nhanh, và cứ mỗi lần đấm được một quả thì lại bị giáng trả hai ba cú. Thân hình bị đấm của gã Moldova có lẽ không đau đớn lắm nên gã vẫn hăng, vẫn cười cợt, rồi bỗng đưa mạnh từ phía dưới lên trúng nách làm sái cánh tay phải của Sitanov.
- Giãn ra, hòa! – Mấy người lập tức kêu lên.
Người ta phá vỡ vòng và bắt các đấu thủ giãn ra.
Gã Moldova nói với vẻ hiền hậu:
- Tay thợ họa ấy không khỏe lắm, nhưng nhanh! Hắn sẽ trở thành một đấu thủ cừ, tôi có thể cam đoan với tất cả mọi người điều ấy.
Bọn thiếu niên bắt đầu một trận đấu chung, còn tôi dẫn anh Sitanov tới chỗ viên y sĩ chữa xương. Hành vi của anh càng đề cao anh trước mặt tôi, làm tăng thêm cảm tình và lòng kính trọng của tôi với anh.
Anh là người rất thẳng thắn, ngay thật và hình như coi đó là nghĩa vụ của mình, nhưng anh Kapendiukhin ngang tàng lại khéo léo nói kháy:
- Chà Genya[148], cậu sống như để bày hàng ấy! Cậu đánh sạch tâm hồn cậu như đánh cái ấm samovar trước ngày lễ để hễ có ai đến thì khoe: Sáng nhoáng đấy chứ! Nhưng tâm hồn cậu bằng đồng nên chơi với cậu chán lắm…
Sitanov thản nhiên, không nói gì cả, anh chăm chỉ làm việc hoặc chép vào vở những bài thơ của Lermontov. Anh bỏ tất cả thì giờ rảnh rỗi để chép thơ, và khi tôi bảo anh: “Anh có tiền sao không đi mua quách một cuốn sách có hơn không?” Anh đáp:
- Không, tự chép tay tốt hơn cả!
Sau khi chép được một trang với nét chữ nhỏ và đẹp, có cả hình vẽ ở cuối, trong khi chờ mực khô, anh khẽ đọc:
Không chút xót thương, dửng dưng xa lạ,
Bạn sẽ nhìn vào cõi trần ai,
Nơi chẳng có hạnh phúc nào chân thật,
Và cũng không có sắc đẹp lâu dài.[149]
Rồi anh lim dim mắt:
- Điều đó rất đúng! Chà, sao ông ta biết rõ sự thật như vậy!
Tôi lấy làm ngạc nhiên về quan hệ giữa Sitanov với Kapendiukhin. Sau khi uống rượu, anh Cossack bao giờ cũng sinh sự với bạn, Sitanov khuyên can bạn hồi lâu:
- Thôi đi! Đừng có mà sinh sự…
Nhưng sau đó, anh đánh cho tên say rượu một trận nên thân, đến nỗi anh em thợ vốn coi những cuộc đánh nhau như cơm bữa[150] cũng phải can thiệp vào và bắt đôi bên giãn ra.
- Không kịp thời ngăn Evgen[151] lại thì cậu ta sẽ giết chết hắn mất và cậu ấy cũng chẳng tiếc thân đâu. – Họ nói.
Khi tỉnh, Kapendiukhin vẫn không ngớt lời nhạo báng Sitanov, chế giễu lòng say mê thơ ca và mối tình bất hạnh của anh, khêu gợi ở anh lòng ghen tuông một cách bỉ ổi, nhưng vô hiệu quả. Sitanov dửng dưng, im lặng nghe những lời nhạo báng ấy, đôi khi chính anh cũng cười với Kapendiukhin.
Họ ngủ cạnh nhau và đêm đêm thì thầm nói chuyện hồi lâu.
Những câu chuyện ấy khiến tôi không thể nào ngủ yên. Tôi muốn biết những con người tính tình bất đồng này có thể tâm sự thân mật được với nhau về chuyện gì? Nhưng khi tôi tới gần họ thì anh Cossack gầm lên:
- Mày đến đây làm gì?
Còn Sitanov coi như không nhìn thấy tôi.
Nhưng có lần họ gọi tôi, anh Cossack hỏi:
- Maksimovich, nếu như mày giàu có, mày sẽ làm gì?
- Sẽ mua sách.
- Gì nữa?
- Không biết.
- Ồ. – Kapendiukhin ngoảnh mặt đi với vẻ bực bội.
Còn Sitanov bình tĩnh nói:
- Thấy chưa, không ai biết, cả người già lẫn trẻ con! Tớ có thể nói với cậu rằng: Bản thân sự giàu có cũng chẳng cần thiết! Tất cả mọi vật đều đòi hỏi tính ứng dụng thực tế…
Tôi hỏi:
- Các anh nói chuyện gì thế?
- Không muốn ngủ, nên tán gẫu đấy thôi. – Anh Cossack đáp.
Sau này, lắng nghe những câu chuyện của họ, tôi mới biết rằng đêm đêm họ nói về những chuyện người ta thích nói cả ban ngày: về Chúa, về chân lí, hạnh phúc, về sự ngu ngốc và mánh khóe của đàn bà, về lòng tham của kẻ giàu, về tất cả những điều rắc rối và khó hiểu của cuộc sống.
Tôi thường nghe những câu chuyện ấy một cách say mê, chúng khiến tôi xúc động. Tôi rất thích khi thấy rằng hầu như tất cả mọi người đều nói giống nhau: Cuộc sống rất tồi, cần phải sống tốt hơn! Nhưng đồng thời tôi thấy ý muốn sống tốt hơn chẳng phát sinh tác dụng gì hết, chẳng làm thay đổi gì trong cuộc sống của xưởng, trong quan hệ giữa anh em thợ với nhau. Tất cả những lời nói ấy soi sáng cuộc sống trước mắt tôi, mở ra đằng sau nó một khoảng không buồn tẻ trong đó người ta bơi ngụp một cách hỗn loạn và bực tức giống như những hạt bụi nước ở ao khi trời gió. Những người đang ngụp lặn đó lại chính là những người nói rằng sự xô đẩy ấy vô nghĩa và làm cho họ tức giận.
Ở xưởng, họ thường bàn luận rất nhiều và thích thú; họ kết tội, chê bai ai đó, họ hối hận, khoe khoang, cãi nhau rất dữ vì những điều không đâu và làm cho nhau khổ nhục đủ điều. Họ cố đoán xem sau khi chết họ sẽ như thế nào. Cạnh cửa xưởng, nơi để thùng nước rác, có một tấm ván mục thối, gió lạnh và mùi đất chua từ dưới sàn lùa qua lỗ hổng ẩm ướt, hôi thối đó vào khiến cho chân họ rét cóng, tôi cùng với Pavel lấy giẻ rách và cỏ khô nhét vào lỗ hổng. Họ thường nói cần phải thay tấm ván đó, nhưng lỗ hổng càng ngày càng to thêm. Vào những ngày bão tuyết, gió lùa qua đấy như lùa qua ống khói, mọi người đều cảm lạnh và ho. Cánh quạt thông gió bằng sắt tây của ô cửa sổ con thông hơi rít lên két két nghe thật đáng ghét; người ta chửi rủa nó thậm tệ, nhưng lúc tôi lấy dầu tra vào đó, bác Jikharev lắng nghe xong lại bảo:
- Cửa sổ không kêu nữa rồi, buồn quá!
Cứ từ nhà tắm về là họ đặt mình xuống mấy tấm phản bẩn thỉu và bụi bặm: Sự bẩn thỉu và hôi thối hoàn toàn không làm cho ai khó chịu. Có nhiều chuyện nhỏ mọn không tốt đã cản trở cuộc sống, người ta có thể dễ dàng trừ bỏ những cái đó, nhưng không ai làm cả.
Họ thường nói:
- Không ai thương người đâu, kể cả Chúa lẫn chính bản thân mình…
Khi chúng tôi – tôi và Pavel – tắm rửa cho Davidov đang hấp hối và bị cáu ghét, rận chấy cắn rứt, họ chế giễu chúng tôi. Họ cởi sơ mi ra, đề nghị chúng tôi bắt rận hộ; họ gọi chúng tôi là “bồi” tắm, và nói chung họ nhạo báng chúng tôi như thể chúng tôi đang làm một việc gì ô nhục và tức cười.
Suốt từ lễ Giáng sinh cho đến tận tuần chay, Davidov nằm liệt trên tấm phản, ho liên miên, khạc ra những cục máu đỏ lòm: Máu nhổ không trúng chậu nước rác, rơi cả ra sàn. Đêm đêm, mê sảng, anh làm cho mọi người mất ngủ.
Hầu như ngày nào người ta cũng nói:
- Cần phải đưa hắn đi nhà thương thôi!
Nhưng đầu tiên thì vì giấy thông hành của Davidov đã quá hạn, sau đó anh có đỡ hơn, và cuối cùng người ta quyết định:
- Dù sao thì hắn cũng sắp chết rồi!
Chính anh cũng bảo:
- Tôi chẳng sống được bao lâu nữa!
Anh là một người rất tếu, hiền lành và bao giờ cũng cố gắng làm tiêu tan nỗi buồn nặng nề bực dọc trong xưởng bằng những câu pha trò hóm hỉnh. Anh cúi khuôn mặt xương xẩu đen sạm xuống và the thé hô:
- Hỡi nhân dân, hãy lắng nghe tiếng nói của người đã được khiêng lên gác lửng…
Rồi anh nói rất mạch lạc những điều nhảm nhí buồn tẻ:
Tôi sống trên gác lửng,
Thức giấc dậy rất sớm,
Lũ gián ăn thịt tôi,
Trong lúc tôi mê sảng…
- Hắn vẫn lạc quan! – Mọi người khâm phục.
Thỉnh thoảng tôi cùng với Pavel leo lên chỗ anh, anh nói đùa với vẻ gượng gạo:
- Quý khách, biết lấy gì để thết đãi các vị đây? Các vị xơi một chú nhện còn tươi nhé!
Anh chết rất chậm, điều đó làm cho anh chán ngán, anh nói với vẻ bực bội thành thực:
- Tôi không thể nào chết được, thật là một điều bất hạnh!
Sự dửng dưng của anh trước cái chết làm cho Pavel rất hoảng sợ: Đêm đêm Pavel thường đánh thức tôi và thì thầm:
- Maksimovich, hình như hắn chết rồi… Hắn mà chết vào ban đêm thì chúng ta sẽ nằm dưới xác hắn. Ôi! Tớ sợ người chết lắm!…
Hoặc nó bảo:
- Ôi, sống như thế thì sống làm gì? Mới chưa đầy hai mươi tuổi đầu mà phải chết…
Một hôm, vào đêm sáng trăng, nó đánh thức tôi dậy, nhìn tôi bằng cặp mắt tròn xoe hoảng sợ và nói:
- Nghe kìa!
Trên gác lửng, Davidov thở khò khè, nói hấp tấp nhưng rất rành mạch:
- Đưa đây nào, đư…ưa…
Sau đó anh bắt đầu nấc lên.
- Hắn đang hấp hối, trời ơi, thấy chưa? – Pavel hốt hoảng.
Suốt ngày tôi phải chở tuyết từ sân ra ngoài đồng nên rất mệt; tôi buồn ngủ quá, nhưng Pavel van nài:
- Đừng ngủ, tao lạy mày, vì Chúa, đừng ngủ!
Rồi bỗng nhiên nó nhổm dậy, hét tướng lên như người hóa dại:
- Tất cả dậy đi thôi, Davidov chết rồi!
Có mấy anh tỉnh dậy, vài bóng người nhổm khỏi giường, những câu hỏi giận dữ thốt lên.
Kapendiukhin leo lên gác lửng và ngạc nhiên:
- Hình như hắn chết thật rồi… Nhưng người vẫn nong nóng…
Bốn bề yên lặng như tờ. Bác Jikharev làm dấu thánh giá rồi vừa trùm chăn vừa nói:
- Thế thì cầu cho anh ta được lên thiên đàng!
Có người đề nghị:
- Đưa hắn ra nhà ngoài thôi…
Kapendiukhin tụt xuống khỏi gác lửng và nhìn ra cửa sổ.
- Thôi để hắn nằm đến sáng, khi sống hắn cũng chẳng quấy rầy ai nữa là…
Pavel rúc đầu xuống dưới gối và khóc nức nở.
Còn Sitanov vẫn không thức dậy.
Chú thích:
138) Các nhà văn viết theo thị hiếu của tiểu thị dân.
139) Nhà thơ Nga (1814 – 1841).
140) Trích trong bản trường ca Con quỷ của Lermontov.
141) Yod và Moses là các nhân vật trong Kinh thánh.
142) Nguyên văn: Thương đến chết.
143) Diễn viên Nga nổi tiếng A. X. Yakolev (1777 – 1817).
144) Marie Stuart (1542 – 1587): Nhân vật nữ hoàng trong vở bi kịch Marie Stuart.
145) “Nhà quý tộc Tây Ban Nha Don Césarde Bazan” là nhân vật trong vở kịch của Victor Hugo Ruy Blas và vở kịch Nhà quý tộc Tây Ban Nha của hai nhà viết kịch người Pháp Dumanoir và Adolphe d’Ennery.
146) 1 pood = 16,38 kg.
147) Nguyên văn: Thợ họa tượng thánh.
148) Tức Sitanov.
149) Trích trong bản trường ca Con quỷ của Lermontov.
150) Nguyên văn: Như ngắm cảnh.
151) Tức Sitanov.