← Quay lại trang sách

Chương 17

Sáng sáng, vào lúc sáu giờ, tôi đến hội chợ làm việc, ở đó có những con người đáng chú ý: bác thợ mộc Osip tóc bạc, nom giống thánh Nikolai, một công nhân giỏi, ăn nói sắc sảo; bác thợ lợp mái gù lưng Efimushka; bác thợ nề Pyotr sùng đạo, một người luôn tư lự nom cũng tựa một vị thánh; bác thợ trát Grigoriy Shishlin đẹp trai có bộ râu màu hạt dẻ nhạt, cặp mắt xanh, nét mặt luôn luôn rạng rỡ bởi một vẻ hiền hậu dịu dàng.

Tôi biết những người này từ dạo tôi quay về nhà người cậu. Thường thường, cứ đến Chủ nhật, họ xuất hiện trong bếp, dáng điệu đường hoàng, trịnh trọng, nói năng nhã nhặn bằng những lời lẽ ngọt ngào, mới lạ với tôi. Hồi ấy tôi cảm thấy các bần nông lực lưỡng này đều là người tốt. Mỗi người có cái hay riêng, khác xa những tiểu thị dân độc ác, trộm cắp và rượu chè ở xóm Kunavino.

Hồi đó tôi ưa bác thợ trát Shishlin hơn cả, thậm chí đã có lần tôi xin vào phường thợ của bác, nhưng bác vừa lấy ngón tay bạc trắng gãi hàng lông mày vàng ánh vừa nhẹ nhàng từ chối:

- Đối với cháu còn sớm quá, công việc của bác không phải là việc nhẹ nhàng đâu, cháu hãy chờ một hai năm nữa…

Rồi bác hất cái đầu đẹp ra phía sau và hỏi tôi:

- Chắc cháu sống khổ lắm phải không? Ồ, không sao, hãy chịu đựng một tí, cứ co mình lại là khắc chịu đựng được tuốt!

Tôi không biết lời khuyên thiện ý ấy đem lại cho tôi những gì, nhưng tôi ghi nhớ nó với một lòng biết ơn.

Và cho đến giờ, tất cả bọn họ vẫn đến gặp cậu chủ tôi vào các buổi sáng Chủ nhật. Họ thường ngồi trên những ghế dài xung quanh bàn bếp, và trong lúc chờ đợi, họ chuyện trò một cách hứng thú. Cậu chủ vui nhộn chào hỏi họ, nắm chặt những bàn tay rắn chắc của họ rồi ra ngồi ở góc ngoài. Bàn tính và những xếp giấy bạc được đem ra; đám bần nông đặt lên bàn các tờ biên lai và sổ tay nhàu nát: Thế là buổi tính tiền công hằng tuần bắt đầu.

Cậu chủ vừa tán gẫu và pha trò, vừa cố ý tính sai cho họ, còn họ thì cũng cố tìm cách ăn gian cậu. Đôi khi hai bên cãi nhau rất kịch liệt, nhưng thường là cười xòa thân mật.

- Hà hà, ông bạn, đúng là ông sinh ra đã là một tay lừa bịp! – Đám bần nông bảo cậu chủ.

Cậu cười ngượng nghịu, trả lời:

- Hừ, còn các anh, đồ quỷ ạ, các anh lừa bịp cũng chẳng kém đâu!

- Thì biết làm thế nào khác được cơ chứ, ông bạn? – Efimushka thú nhận.

Còn bác Pyotr thì nghiêm trang:

- Người ta sống thực ra là nhờ vào những của ăn cắp, chứ còn những gì làm ra được thì đều cúng cho vua với Chúa cả…

- Chính vì thế nên tôi cũng muốn sống chứ! – Cậu chủ cười.

Họ hồn hậu hưởng ứng lời cậu:

- Có nghĩa là ông định thó của chúng tôi chứ gì?

- Ông định úm chúng tôi phải không?

Grigoriy Shishlin lấy hai tay áp chặt bộ râu bồng vào ngực, đề nghị bằng một giọng nghe như hát:

- Anh em ạ, chúng ta hãy làm việc cho tử tế, đừng có lừa dối nhau nữa! Sống ngay thật có phải là sung sướng và yên ổn biết bao không? Chúng ta đều là anh em cả, phải không?

Cặp mắt xanh của bác thẫm lại và ươn ướt. Trong những giây phút đó trông bác đẹp và hiền lành lạ thường. Mọi người dường như đều có phần bối rối trước đề nghị của bác, ngượng ngùng quay mặt đi chỗ khác.

- Dân bần nông không lừa dối quá quắt lắm đâu! – Bác Osip dễ thương vừa thở dài vừa làu bàu, có vẻ như thương hại bần nông.

Bác thợ nề nước da ngăm ngăm đen cúi gập cái lưng gù trên mặt bàn, nói giọng ồ ồ:

- Tội lỗi cũng giống như một bãi lầy vậy; càng ra xa càng nhầy nhụa!

Cậu chủ cũng bắt chước giọng họ, lẩm bẩm:

- Tôi ấy à? Cũng tùy việc tùy người chứ…

Triết lí xong, họ lại tìm cách lừa dối nhau. Tính toán xong, người nhễ nhại mồ hôi và mệt mỏi vì căng thẳng, họ ra quán uống trà, mời cả cậu chủ cùng đi.

Ở hội chợ, tôi phải theo dõi, không cho những người này lấy cắp đinh, gạch và ván. Ngoài phần việc làm cho cậu chủ, người nào cũng có những hợp đồng riêng, thành thử ai cũng cố tìm cách thó thứ gì đó ngay trước mặt tôi để về dùng vào công việc của mình.

Họ đón tiếp tôi với thái độ dịu dàng, nhưng bác Shishlin nói:

- Anh có nhớ hồi trước anh định xin vào phường thợ của tôi không? Bây giờ thì anh đã leo cao lắm rồi, anh sẽ là người cai quản tôi, phải không?

- Ồ… – Bác Osip pha trò. – Cứ việc trông, cứ việc cai quản, cầu Chúa phù trì cho anh!

Bác Pyotr nhận xét một cách ác ý:

- Họ cho một con sếu non đến điều khiển những con chuột già…

Nhiệm vụ của tôi làm tôi bối rối vô cùng: Tôi thấy xấu hổ trước mặt những con người đó; tôi cảm thấy tất cả bọn họ đều hiểu biết một điều gì rất đặc biệt và rất tốt đẹp mà ngoài họ ra không ai biết, vậy mà tôi phải xem họ như quân ăn cắp và lừa đảo. Những ngày đầu tiếp xúc với họ tôi rất khổ tâm, nhưng chẳng bao lâu bác Osip đã nhận thấy điều đó, một hôm bác bảo riêng tôi:

- Này, chú mày, đừng có lên mặt, cái đó chẳng ích lợi gì đâu, hiểu không?

Tất nhiên là tôi chẳng hiểu gì cả, nhưng tôi cảm thấy ông già này hiểu rõ địa vị lố bịch của tôi, giữa tôi với bác ta rất nhanh chóng thiết lập một quan hệ cởi mở.

Bác kéo tôi vào một góc nhà và bảo:

- Nếu anh muốn biết thì tôi nói cho mà biết: Trong bọn tôi, lão thợ nề Petruska[166] là trùm ăn cắp đấy. Gia đình hắn đông người, hắn lại là người tham lam. Cứ theo dõi hắn kĩ mà xem. Hắn ta không từ gì hết, cái gì đối với hắn cũng tốt: Một funt đinh, mươi viên gạch, một bao vôi, hắn cân tất! Hắn chính ra là một người tốt, mộ đạo và suy nghĩ đứng đắn, biết đọc biết viết, ấy thế mà lại thích ăn cắp! Efimushka thì sống vì gái, hắn là người hiền lành, hắn không làm anh phải bực mình đâu. Hắn cũng là người thông minh. Những kẻ gù đều không phải là kẻ ngốc! Còn Grigoriy Shishlin thì hơi đần. Hắn không những không lấy của người, mà còn đem của mình cho người nữa! Hắn làm ăn chẳng ra gì, bất kì ai cũng có thể lừa được hắn, nhưng hắn thì không thể lừa dối được ai! Hắn khờ lắm…

- Bác ấy tốt chứ?

Bác Osip nhìn tôi và nói những lời đáng ghi nhớ:

- Đúng, hắn là người tốt! Đối với kẻ lười biếng thì trở thành người tốt là việc đơn giản nhất. Lòng tốt không đòi hỏi đến trí khôn, chú em ạ…

- Thế còn bác thì thế nào? – Tôi hỏi Osip.

Bác ta mỉm cười, trả lời:

- Tôi giống như cô thiếu nữ. Bao giờ trở thành bà già, tôi sẽ kể về tôi. Anh cứ chờ đấy! Nếu không thì anh hãy dùng trí khôn mà tìm xem tôi là người thế nào[167]. Anh cứ tìm xem tôi ở đâu!

Bác ta làm đảo lộn tất cả quan niệm của tôi về bác và các bạn bè của bác. Tôi thấy khó mà nghi ngờ tính chân thật của những điều bác ta nói. Tôi nhận thấy bác Efimushka, Pyotr, Grigoriy đều coi ông già dễ thương này là người thông minh và hiểu biết sự đời hơn họ. Bất kì việc gì họ cũng hỏi ý kiến bác, chăm chú nghe những lời khuyên của bác và đối xử với bác với thái độ vì nể.

- Bác hãy làm ơn bảo chúng tôi. – Họ thường yêu cầu bác như vậy.

Nhưng có một lần, sau khi hỏi xong và chờ lúc bác Osip đã đi khỏi, bác thợ nề nói khẽ với bác Grigoriy:

- Đồ tà giáo!

Bác Grigoriy mỉm cười, bổ sung:

- Một thằng hề!

Bác thợ trát đe tôi bằng giọng thân mật:

- Anh hãy coi chừng đấy, Maksimovich, sống với lão già này phải cẩn thận, lão có thể trong nháy mắt xoay anh như xoay chong chóng ấy! Những lão già ấy chẳng qua chỉ là đồ ăn hại. Có trời biết được họ tai hại như thế nào!

Tôi chẳng hiểu ra sao.

Tôi có cảm tưởng người ngay thẳng và thật thà nhất là bác thợ nề Pyotr. Nói chuyện gì bác cũng nói ngắn và với giọng trang nghiêm; ý nghĩ của bác thường là xoay quanh Chúa, địa ngục và cái chết.

- Ồ, anh em ơi, dù có cố sức đến đâu, có hi vọng vào cái gì đi nữa thì cũng chẳng ai thoát khỏi chiếc quan tài và khu nghĩa địa đâu!

Bác ta thường xuyên bị đau bụng. Có những hôm bác không ăn uống gì được, thậm chí một mẩu bánh mì con cũng làm bác đau đớn và nôn mửa khổ sở.

Tôi thấy Efimushka gù lưng cũng là người rất tốt và ngay thật, nhưng lúc nào trông bác ta cũng có vẻ khôi hài, đôi khi đần độn, thậm chí ngây dại, giống như một thằng ngốc lầm lì. Bác ta thường xuyên phải lòng đủ hạng đàn bà, và hễ nói đến mụ nào bác cũng dùng độc có mấy lời:

- Tôi xin nói thẳng: Mụ ta không phải là đàn bà đâu, mụ ta là một bông hoa sữa cơ đấy, thật mà…!

Mỗi khi các mụ tiểu thị dân nhanh nhảu ở xóm Kunavino đến rửa sàn tại các cửa hiệu, bác Efimushka tụt từ trên mái nhà xuống, đứng vào một góc, miệng lầm bầm, cặp mắt xám linh hoạt nheo lại, cái mồm rộng toác lên đến tận mang tai.

- Ôi, Chúa mang đến cho tôi một cô ả mũm mĩm làm sao! Thật sung sướng biết chừng nào! Ôi, thật là một bông hoa sữa! Tôi làm sao cảm ơn được số phận đã ban cho tôi món quà như thế này cơ chứ? Tôi đến chết vì người đẹp này mất!

Ban đầu các mụ vừa cười bác vừa chốc chốc lại gọi nhau:

- Trông lão gù đang chảy dãi ra kìa, cha mẹ ơi!

Những lời chế nhạo chẳng làm bác thợ chạnh lòng chút nào. Khuôn mặt có hai gò má nhô cao của bác vẻ như mê ngủ, bác nói năng hệt một người mê sảng, những lời nói ngọt ngào của bác tuôn ra như dòng suối có men say và rõ ràng là đám phụ nữ có ngây ngất. Sau cùng, một mụ nhiều tuổi hơn cả ngạc nhiên nói với đám bạn gái:

- Các bà nghe lão bần nông tán kìa, cứ y như là thanh niên trai trẻ ấy!

- Lão nói như rót vào tai ấy…[168].

- Như một lão ăn mày trước cửa nhà thờ vậy. – Một mụ đàn bà ngang ngạnh không chịu thua thốt lên.

Nhưng Efimushka không giống ăn mày. Bác ta đứng vững vàng hệt một gốc cây lớn, giọng bác vang lên mỗi lúc một thêm hấp dẫn, lời nói trở nên quyến rũ hơn, khiến các bà phải im lặng lắng nghe. Bác quả như tan ra trong những lời nói dịu dàng, ngây ngất đó.

Chuyện đó thường kết thúc vào bữa ăn chiều hoặc sau ngày thứ Bảy[169]. Lúc này bác ta vừa lắc lư cái đầu nặng nề, to xù, vừa nói với bạn bè bằng một giọng kinh ngạc:

- Ôi, cô ả mới dịu dàng và đáng yêu làm sao! Lần đầu tiên trong đời tôi được với tới một cô nàng như vậy đấy!

Khi kể về những thắng lợi của mình, bác Efimushka không hay khoe khoang, không hay nhạo báng người phụ nữ đã bị mình chinh phục như những người khác thường làm. Bác ta bày tỏ lòng xúc động với một vẻ vui sướng và biết ơn, cặp mắt xám của bác mở to.

Bác Osip lắc đầu:

- Ôi, anh thật là một tay bê tha bất trị! Anh bao nhiêu tuổi?

- Bốn chục lẻ tư rồi. Nhưng không sao! Hôm nay tôi trẻ lại đến năm tuổi, như vừa được tắm nước thánh dưới sông. Thân thể khỏe khoắn, trong lòng thanh thản! Ồ, trên đời có những người đàn bà mới tuyệt làm sao chứ, hả?

Bác thợ nề nghiêm khắc đáp:

- Khi nào ngoài năm mươi thì hãy coi chừng, anh sẽ thấy chua xót vì thói phóng đãng cho mà xem!

- Anh là đồ vô liêm sỉ, Efimushka ạ! – Grigoriy Shishlin thở dài.

Tôi thì lại cảm thấy con người đẹp trai ấy ghen tức trước thành công của ông bạn gù.

Bác Osip nhìn mọi người từ dưới cặp lông mày xoăn tít rất đều, trắng như bạc, nói đùa:

- Cô Mashka nào cũng có kiểu cách riêng, cô thì thích ăn, cô thì thích diện[170], nhưng cô Mashka nào cũng sẽ thành bà lão…

Bác Shishlin đã có vợ, vợ bác ở quê, bác thường ngắm nghía những mụ rửa sàn nhà. Những mụ đó đều có thể chài được một cách dễ dàng, mụ nào cũng muốn “kiếm chác thêm”. Trong cái xóm nghèo đói này, người ta cũng xem cách kiếm tiền đó bình thường như bất kì công việc nào khác. Nhưng bác bần nông đẹp trai không động chạm đến các mụ, bác chỉ nhìn họ từ xa bằng cái nhìn đặc biệt, hệt như thương hại mình hay thương họ. Còn khi họ tự ve vãn, quyến rũ bác trước, bác cười ngượng nghịu và bỏ đi…

- Các người thật là…

- Sao lại thế, đồ ngốc! – Efimushka ngạc nhiên. – Làm sao có thể bỏ lỡ cơ hội như thế được?

- Tôi đã có vợ rồi. – Grigoriy nhắc.

- Vợ làm thế nào biết được?

- Vợ anh thế nào cũng biết nếu như anh sống không chung thủy. Không lừa được họ đâu, người anh em ạ!

- Nhưng vợ làm thế nào biết được cơ chứ?

- Điều đó tôi không rõ, nhưng họ nhất định biết nếu như bản thân họ sống chung thủy. Còn nếu tôi sống chung thủy mà vợ tôi lại sai trái thì tôi khắc biết…

- Bằng cách nào? – Efimushka hét lên.

Grigoriy bình tĩnh nhắc lại:

- Cái đó tôi không rõ.

Bác thợ lợp mái dang hai tay ra vẻ bực tức.

- Xem đấy! Nào “chung thủy”, nào “không rõ”… Chà, đầu óc anh mới lạ chứ!

Đám thợ của bác Shishlin tất cả có bảy người, họ đối xử với bác rất tự nhiên, không cảm thấy bác là chủ, sau lưng, họ gọi bác là một con bê. Những khi ra chỗ làm việc mà thấy họ làm biếng, bác liền cầm bay, xẻng và tự bắt tay vào làm một cách khéo léo, vừa làm vừa dịu dàng khích lệ:

- Gắng lên, anh em ơi, gắng lên!

Một hôm, trong lúc thi hành một nhiệm vụ khó chịu do cậu chủ tôi giao cho, tôi bảo bác Grigoriy:

- Thợ của bác tồi lắm…

Bác ngạc nhiên:

- Thật à?

- Việc này đáng lẽ đến buổi trưa hôm qua là phải xong, thế mà hôm nay họ vẫn chưa làm xong…

- Đúng đấy, họ chưa làm xong đâu. – Bác đồng ý, và sau khi im lặng, bác nói một cách dè dặt. – Tất nhiên là tôi cũng thấy, nhưng tôi không nỡ thúc họ, họ là người cùng cánh, cùng làng tôi. Chẳng qua cũng vẫn là sự trừng phạt của Chúa đấy thôi, cứ phải là làm đổ mồ hôi, sôi nước mắt mới ra miếng bánh mì mà ăn, đó là sự trừng phạt đối với tất cả chúng ta, cả anh lẫn cả tôi nữa. Mà tôi với anh lại làm việc ít hơn họ, thành thử không tiện thúc họ…

Bác luôn luôn tư lự. Nhiều khi, đang đi trên những đường phố vắng vẻ của hội chợ, bác bỗng dừng lại trên một cây cầu bắc qua kênh Obvodni, đứng rất lâu bên hàng tay vịn, nhìn nước, nhìn trời, nhìn xa xa bên kia sông Oka. Nếu người nào bắt gặp và hỏi: “Bác làm gì thế?” thì bác như người vừa tỉnh dậy, mỉm cười ngượng nghịu và trả lời: “À, có gì đâu… Tôi đứng nhìn trời đất một chút…”

- Người anh em ạ, mọi thứ Chúa đều sắp đặt thật là khéo. – Bác thường nói. – Nào trời, nào đất, nào sông chảy, nào tàu chạy. Cứ trèo lên tàu thủy là đi đâu cũng được: đi Riazan hoặc Rybinsk, đi Perm hoặc đến Astrakhan! Tôi đã đến Riazan rồi, thành phố ấy cũng không đến nỗi tồi, nhưng buồn lắm, buồn hơn Nizhny. Nizhny của chúng ta, chà, vui lắm! Astrakhan còn buồn hơn nữa. Ở Astrakhan cái chính là có nhiều người Kalmuck, mà tôi thì không ưa họ. Tôi không thích dân Moldova, Ba Tư, Đức hay bất kì dân ngoại lai nào…

Bác nói chậm rãi, những lời của bác như thận trọng dò kiếm một người nào đó đồng tình với mình, và bác luôn luôn tìm thấy bác thợ nề Pyotr.

- Chúng có phải là dân ngoại lai đâu, mà là dân du mục. – Bác Pyotr nói, giọng tin chắc và bực tức. – Chúng sinh ra ngoài ý Chúa, sống ngoài mắt Chúa…

Bác Grigoriy mặt mày tươi tỉnh, rạng rỡ hẳn lên.

- Muốn nói gì thì nói, còn tôi ấy à, anh em ạ, tôi chỉ thích dân thuần khiết, dân Nga chính trực mà thôi! Dân Do Thái tôi cũng không ưa, và thậm chí tôi không hiểu Chúa sinh ra dân ngoại lai để làm gì? Thật là quá sáng suốt…

Bác thợ nề bổ sung bằng giọng buồn rầu:

- Sáng suốt thật, nhưng hình như có nhiều cái vô ích!…

Nghe chuyện của họ, bác Osip xen vào, giọng có vẻ giễu cợt chua cay:

- Những cái vô ích thì có đầy, ngay câu chuyện này của các anh cũng hoàn toàn vô ích! Chao ôi, lúc nào cũng cãi nhau! Đem mà nện tất cả các người một trận.

Bác Osip thường giữ ý kiến mình, nhưng khó mà biết được bác đồng ý cái gì hoặc phản đối cái gì. Đôi lúc tôi ngỡ bác thờ ơ đồng ý với mọi người, mọi ý kiến, nhưng rồi ta nhận thấy bác chán tất cả mọi người, bác xem họ như những đồ ngu xuẩn. Bác bảo Pyotr, Grigoriy và Efimushka:

- Chao ôi, đồ lợn con…

Họ mỉm cười không được vui vẻ và thoải mái lắm, nhưng dù sao vẫn mỉm cười.

Cậu chủ cho tôi năm kopek tiền ăn một ngày. Ngần ấy tiền không đủ, lúc nào tôi cũng hơi đói. Thấy thế, các bác thợ hay mời tôi ăn bữa sáng và bữa chiều với họ, đôi khi cả các chủ thầu cũng rủ tôi ra quán uống trà. Tôi sẵn sàng nhận lời: Tôi thích ngồi với họ, nghe giọng nói chậm rãi và các câu chuyện kì lạ của họ. Sự hiểu biết của tôi về các sách đạo khiến họ rất thích thú.

- Anh nhồi nhét sách no nê lắm rồi, dạ dày của anh đầy ứ những sách là sách. – Bác Osip vừa nói vừa chăm chú nhìn tôi bằng cặp mắt tím màu hoa mua. Khó mà thấy rõ ý nghĩa của cặp mắt đó, hai con ngươi lúc nào cũng như sắp chảy và tan ra thành nước. – Anh nên giữ gìn cái vốn hiểu biết đó, góp nhặt thêm nữa vào, sau này nó sẽ có ích. Lớn lên anh có thể trở thành một tu sĩ, dùng lời nói để an ủi thiên hạ. Hoặc nếu không thì trở thành nhà “triệu đạo”…

- “Truyền đạo”. – Bác thợ nề chữa lại, giọng không hiểu sao nghe có vẻ bực bội.

- Sao? – Bác Osip hỏi lại.

- Tôi bảo: Phải nói là “truyền đạo”, anh còn lạ gì nữa! Anh có điếc đâu…

- Thôi được, trở thành nhà truyền đạo, để rồi tranh cãi với bọn tà giáo. Nếu không được thì gia nhập luôn vào phái tà giáo cũng lợi chán! Khi người ta đã có trí tuệ thì tà giáo cũng vẫn nuôi sống người ta được.

Grigoriy cười ngượng nghịu, còn Pyotr lúng búng:

- Thì ngay bọn phù thủy sống cũng có đến nỗi nào, và mọi kẻ vô thần…

Bác Osip phản đối ngay:

- Bọn phù thủy là bọn vô học, học thức không thích hợp với bọn phù thủy…

Rồi bác kể cho tôi nghe:

- Tôi nói anh nghe: Ngày trước ở xóm tôi có một gã cố cùng sống cầu bơ cầu bất tên là Tuska. Gã là một bần nông ngu ngốc và đói khổ. Gã sống như một cái lông chim, nay đây mai đó, gió thổi đi đâu thì bay đi đấy, chẳng ra người làm lụng, cũng chẳng ra kẻ biếng nhác. Thế rồi một hôm, vì chẳng có việc gì làm, gã bỏ đi hành hương. Gã lang bạt suốt hai năm trời, sau đó bỗng một hôm gã xuất hiện với một dáng vẻ lạ lùng: Tóc dài đến vai, đầu đội mũ chụp nhỏ, mình vận áo thầy tu màu hung đỏ bằng vải thô. Gã nhìn mọi người bằng cặp mắt như mắt cá vược và nói một cách ngang ngạnh: “Hãy sám hối đi, những kẻ đáng nguyền rủa kia!” Ai mà không có chuyện phải sám hối, nhất là các bà? Thế là mọi việc đều đúng như ý muốn: Tuska được chén no nê. Tuska uống rượu say khướt, còn đàn bà thì Tuska muốn mụ nào cũng được…

Bác thợ nề cáu kỉnh ngắt lời:

- Cái chính đâu có phải ở chỗ no với say?

- Thế thì ở cái gì?

- Ở những lời nói ấy!

- Ồ, tôi không đi sâu vào những lời của gã. Ngay tôi đây cũng đã quá nhiều lời rồi.

- Tushinkov Dmitri Vassilich thì chúng tôi biết khá rõ. – Bác Pyotr bực dọc.

Bác Grigoriy cúi đầu im lặng, nhìn vào cốc nước của mình.

- Tôi có định tranh luận đâu. – Bác Osip dàn hòa. – Tôi chỉ muốn nói cho Maksimovich của chúng ta biết những con đường kiếm sống khác nhau…

- Có những con đường dẫn đến nhà tù…

- Chuyện đó chẳng phải hiếm! – Bác Osip tán thành. – Không phải con đường nào cũng dẫn đến chức cố đạo cả. Cần phải biết rẽ ở đâu mới được…

Bác luôn hơi có ý châm chọc hai người mộ đạo là bác thợ trát và bác thợ nề. Có thể bác không ưa họ nhưng bác khéo che giấu thái độ đó. Nói chung khó mà thấy được thái độ của bác với mọi người.

Đối với Efimushka, bác nhìn bằng con mắt có vẻ dịu dàng và hiền từ hơn. Bác thợ lợp mái ấy không hay tham dự vào những câu chuyện bàn về Chúa, về chân lí, về các giáo phái, về nỗi khổ của đời người – những đề tài mà bạn bè bác thường ưa thích. Sau khi đặt cái ghế nghiêng về phía bàn để lưng ghế khỏi làm đau cái lưng gù, bác bình thản ngồi uống trà, hết cốc này đến cốc khác. Đột nhiên bác vểnh tai, nhìn quanh gian phòng mù mịt khói thuốc, lắng nghe những giọng nói ồn ào, rời rạc, rồi đứng phắt dậy, biến mất rất nhanh. Như thế tức là có một chủ nợ nào đó của Efimushka vừa bước vào quán, mà chủ nợ của bác ta có ít nhất cũng đến một chục người. Một số chủ nợ hay đánh bác nên bác phải chuồn ngay.

- Họ cáu đấy, bọn họ thật là kì quặc. – Bác băn khoăn. – Nếu có tiền thì việc gì tôi lại không trả cơ chứ?

- Ôi, thật là xơ xác rạc rài… – Bác Osip nói với theo.

Đôi khi Efimushka ngồi trầm ngâm rất lâu, không nhìn và nghe gì hết. Khuôn mặt với đôi gò má nhô cao dịu lại, cặp mắt hiền từ nhìn càng hiền từ hơn.

- Nghĩ ngợi gì thế, ông bạn? – Mọi người hỏi bác.

- Tôi đang nghĩ giá như tôi trở thành một người giàu có, thì chao ôi, tôi sẽ lấy ngay một bà quý phái thật sự, một bà quý tộc ấy, con gái một ông đại tá chẳng hạn. Trời, khi đó tôi sẽ yêu nàng đến thế nào! Có lẽ tôi sẽ sống bên cạnh nàng cho đến chết… Anh em ạ, vì đã có lần tôi đến để lợp mái biệt thự cho một ông đại tá…

- Và lão ta có một cô con gái góa chồng chứ gì? Chuyện ấy chúng tôi đã nghe rồi! – Bác Pyotr ngắt lời với vẻ thiếu thiện cảm.

Nhưng Efimushka vẫn điềm nhiên lấy tay xoa hai đầu gối và lắc lư người, cái lưng gù như chọc vào không khí, rồi tiếp:

- Cô thường hay ra vườn, mặc toàn đồ trắng lộng lẫy. Tôi ngồi trên mái nhà nhìn cô, nghĩ thầm: Mặt trời có ra gì, thế giới này có nghĩa gì, nếu như không có nàng? Giá tôi có thể biến thành một con chim bồ câu để bay xuống đậu dưới chân nàng! Nàng đúng là một bông hoa xanh trong bình sữa! Được sống với một người như nàng, cả đời chỉ cần một đêm thôi cũng được!

- Thế các người định lấy gì mà chén? – Pyotr hỏi, giọng nghiêm khắc.

Nhưng câu hỏi đó không làm Efimushka bối rối.

- Lạy Chúa! – Bác ta thốt lên. – Chúng tôi có cần nhiều đâu cơ chứ? Nhất là nàng lại là người giàu có…

Bác Osip cười:

- Efimushka, anh hoang phí lắm, khi nào thì anh phung phí hết cái thân anh vào những công việc ấy?

Ngoài chuyện đàn bà, Efimushka không nói chuyện gì khác. Bác làm việc cũng thất thường: Khi thì làm rất tốt, rất nhanh, khi thì trì trệ, cái búa gỗ đóng xuống các thanh xà có vẻ uể oải và cẩu thả, thường để lại những khe hở. Người bác luôn bốc mùi dầu mỡ. Nhưng bác cũng có nét riêng, một thứ mùi khỏe khoắn và dễ chịu, tựa như mùi gỗ mới xẻ.

Với bác thợ mộc, có thể nói mọi chuyện một cách hứng thú nhưng không khoan khoái lắm. Những lời nói của bác luôn làm trái tim băn khoăn, và khó mà biết được khi nào bác nói đứng đắn, khi nào bác nói đùa.

Với bác Grigoriy thì tốt hơn hết là nói chuyện về Chúa, bác thích những chuyện đó và thường tỏ ra kiên định trong các cuộc bàn cãi.

- Grisha? – Tôi hỏi. – Bác có biết có những người không tin ở Chúa không?

Bác điềm tĩnh mỉm cười:

- Thế là thế nào?

- Họ bảo không có Chúa!

- À, ra thế! Điều đó tôi biết rồi!

Rồi, vừa phẩy tay xua một con ruồi không nhìn thấy, bác vừa nói:

- Anh có nhớ không, vua David đã từng nói: “Trong trái tim kẻ điên rồ không có Chúa.” Đó, những kẻ điên rồ nói điều đó từ bao giờ ấy rồi! Không có Chúa, không thể nào ổn được…

Bác Osip có vẻ đồng tình:

- Cứ thử cướp Chúa của Petruska xem, hắn sẽ cho anh biết tay!

Khuôn mặt xinh đẹp của Shishlin trở nên nghiêm nghị, bác dùng những ngón tay có vôi khô bám trên móng chải bộ râu và nói với vẻ bí mật:

- Chúa nằm trong từng mạch máu thớ thịt. Lương tâm và mọi thứ bên trong đều do Chúa ban cho cả!

- Thế còn tội lỗi?

- Tội lỗi là do xác thịt, do quỷ Satan. Tội lỗi là cái bên ngoài, giống như những nốt rỗ hoa, không hơn không kém! Kẻ phạm tội nhiều nhất chính là kẻ hay nghĩ đến việc phạm tội. Đừng nghĩ đến nó thì không phạm tội! Những ý nghĩ tội lỗi là do quỷ Satan, chủ nhân của xác thịt, khêu gợi…

Bác thợ nề hoài nghi:

- Hình như không phải như vậy…

- Đúng thế! Chúa không bao giờ phạm tội, còn con người là hình ảnh của Chúa. Thể xác có thể phạm tội, còn cái tương đồng thì không thể phạm tội được. Cái tương đồng đó là linh hồn…

Bác ta mỉm cười một cách đắc thắng, còn bác Pyotr thì càu nhàu:

- Điều đó hình như không đúng…

Bác Osip hỏi bác thợ nề:

- Vậy theo anh, nếu không phạm tội thì không sám hối, mà không sám hối thì không được cứu vớt chứ gì?

- Như thế có lẽ đúng hơn! Đã quên quỷ sứ thì cũng chẳng còn yêu gì Chúa, các cụ ta đã nói như vậy…

Bác Shishlin không biết uống rượu, chỉ uống độ hai ly nhỏ là bác đã say. Những lúc ấy mặt bác đỏ hồng, cặp mắt nom thơ ngây, giọng nói nghe như hát.

- Anh em ơi, mọi việc sao mà tuyệt vậy! Chúng ta sống, làm lụng đôi chút và được no nê. Cảm ơn Chúa! Ôi! Thật là tuyệt!

Bác khóc, những giọt nước mắt nhỏ xuống chòm râu, lấp lánh trên từng sợi râu trông như những chuỗi hạt cườm bằng thủy tinh.

Những lời bác thường xuyên ca ngợi cuộc đời cùng những giọt nước mắt trong như thủy tinh ấy khiến tôi khó chịu. Bà tôi ca ngợi cuộc đời một cách giản dị và có sức thuyết phục hơn, chứ không lải nhải như vậy.

Những buổi trò chuyện ấy đã khiến tôi sống trong trạng thái luôn căng thẳng, chúng gợi lên một nỗi lo lắng vẩn vơ. Tôi từng đọc nhiều truyện ngắn nói về con người bần nông, tôi thấy bần nông trong sách vở khác xa bần nông bằng xương bằng thịt. Trong sách, tất cả bần nông đều bất hạnh, dù họ hiền lành hay dữ tợn, lời nói và ý nghĩ của họ đều nghèo nàn hơn những người bần nông ngoài đời thật.

Bần nông trong sách vở ít nói đến Chúa, đến các giáo phái và nhà thờ: Họ thường nói nhiều về chủ nhân, về ruộng đất, về chân lí và những nỗi cực nhục của cuộc đời. Họ ít nói về phụ nữ và khi nhắc đến phụ nữ họ không mang thái độ thô bỉ mà có phần thân ái. Còn với các bần nông thật thì đàn bà là một trò tiêu khiển nguy hiểm. Với đàn bà, luôn phải ranh mãnh, nếu không họ sẽ áp đảo và làm rối loạn cuộc sống. Các bần nông trong sách vở hoặc là xấu hẳn hoặc là tốt hẳn, không bao giờ vừa xấu vừa tốt. Người thật thì chẳng tốt mà cũng chẳng xấu, họ thú vị một cách kì lạ. Cho dù họ có thổ lộ hết với ta, ta vẫn luôn cảm thấy họ đang còn giữ lại một điều gì rất thầm kín, chỉ dành cho bản thân họ, và rất có thể chính cái không nói ra, cái ngấm ngầm đó lại là cái chủ yếu nhất.

Trong số những người bần nông được miêu tả trong sách vở, tôi thích nhất nhân vật Pyotr của Acten thợ mộc. Tôi muốn đọc truyện ấy cho bạn bè nghe, bèn đem cuốn sách đến hội chợ. Tôi thường hay phải ngủ đêm với phường này hoặc phường kia, đôi khi do tôi không muốn trở về thành phố hoặc vì trời mưa, nhưng thường là vì sau một ngày làm việc tôi rất mệt và không còn đủ sức để cuốc bộ về nhà.

Khi tôi bảo tôi có một cuốn sách nói về thợ mộc, tất cả hết sức chú ý, nhất là bác Osip. Bác cầm lấy cuốn sách, vừa giở từng trang vừa hoài nghi lắc lư cái đầu nom như đầu thánh.

- Mà có lẽ viết về chúng ta thật đấy! Hừ, lũ bịp bợm! Ai viết thế? Một nhà quý tộc à? Hừ, tôi cũng nghĩ như vậy. Các nhà quý tộc và quan trên cái gì họ cũng có thể làm được. Những cái Chúa chưa đoán ra, quan trên đã nghĩ ra rồi. Họ sinh ra để làm chuyện đó mà lại…

- Osip, anh nói về Chúa chẳng thận trọng gì cả. – Bác Pyotr nhận xét.

- Không sao! Đối với Chúa thì lời nói của tôi còn nhẹ hơn một bông tuyết hoặc một giọt nước mưa rơi vào cái đầu hói của tôi cơ đấy! Anh chớ lo, tôi với anh không đụng được đến Chúa đâu…

Bỗng nhiên bác tuôn ra những lời gay gắt như một hòn đá lửa bắn ra những tia lửa. Bác dùng chúng như dùng những cái kéo để cắt đứt tất cả những gì chống đối mình. Suốt ngày hôm đó, mấy lần bác hỏi tôi:

- Đọc sách chứ, Maksimovich? Hừ, tốt lắm, tốt lắm! Nghĩ ra cái đó hay đấy.

Làm xong việc, chúng tôi đến đội của bác ăn tối. Ăn xong thì bác Pyotr cùng mấy người thợ của bác là Ardalion và Shishlin cùng chàng thanh niên trẻ tuổi Foma tới. Trong gian nhà kho, chỗ ngủ của đội, người ta thắp lên một ngọn đèn, và tôi bắt đầu đọc sách. Mọi người yên lặng nghe, không nhúc nhích. Nhưng một lát sau Ardalion cáu kỉnh:

- Thôi, đối với tôi thế là đủ, tôi xin kiếu!

Và anh bỏ ra ngoài. Người thiếp đi đầu tiên là bác Grigoriy, mồm há ra trông thật kì dị. Tiếp theo, cánh thợ mộc cũng ngủ nốt. Các bác Pyotr, Osip và Foma thì xích lại gần tôi và chăm chú nghe.

Tôi đọc xong, bác Osip liền tắt đèn. Nhìn các vì sao, thấy trời đã gần nửa đêm.

Bác Pyotr hỏi trong bóng tối:

- Câu chuyện đó viết ra để làm gì? Phản đối ai?

- Thôi, đi ngủ đi! – Bác Osip vừa nói vừa tháo ủng.

Foma lặng lẽ dịch sang một bên.

Bác Pyotr nhắc lại, giọng yêu sách:

- Tôi hỏi: Cái đó viết để phản đối ai?

- Họ khắc biết! – Bác Osip vừa nằm xuống vừa trả lời.

- Nếu phản đối các mụ dì ghẻ thì đó là một việc hoàn toàn uổng công: Các mụ ấy không vì thế mà tốt hơn. – Bác thợ nề khăng khăng. – Còn nếu để phản đối Pyotr thì cũng vô ích: Tội hắn thì hắn chịu! Giết người thì xin mời đi Siberia, chỉ có thế thôi! Cuốn sách không giúp ích được gì trong trường hợp này… Hình như không giúp ích được gì, có phải không?

Bác Osip im lặng. Bác thợ nề liền nói thêm:

- Họ không có việc gì làm, thành thử cứ đi tán chuyện người khác! Cũng kiểu như các bà rỗi chuyện tào lao với nhau. Thôi, xin chào, tôi phải đi ngủ đây…

Bác dừng lại một phút trong khoang cửa vuông màu xanh để ngỏ:

- Anh nghĩ thế nào, Osip?

- Hử? – Bác thợ mộc đáp bằng giọng ngái ngủ.

- Thôi được, ngủ đi…

Bác Shishlin nằm lăn ngay ra chỗ vừa ngồi. Foma nằm trên đống rơm nát bên cạnh tôi. Thôn xóm đã ngủ cả. Từ xa vẳng lại tiếng còi đầu máy xe lửa, tiếng ầm ầm nặng nề của những bánh xe bằng gang, tiếng ngân vang của đầu đệm giữa các toa xe. Trong gian nhà kho vang lên những tiếng ngáy. Tôi thấy lúng túng: Tôi chờ đợi một cuộc tranh luận, nhưng chẳng có gì hết…

Bỗng bác Osip cất tiếng, nhỏ và rành rọt:

- Các chú này, đừng có tin một tí gì ở những điều ấy cả. Các chú còn trẻ, cuộc đời của các chú còn dài, hãy tích lũy thêm tri thức! Nó đáng giá bằng hai người khác! Ngủ rồi à? Foma?

- Chưa. – Foma đáp lại ngay.

- Thế đấy! Hai chú đều biết chữ, vậy các chú cứ việc đọc, nhưng chớ có tin gì cả. Họ có thể in những gì họ muốn, việc đó nằm trong tay họ!

Bác thả hai chân xuống, hai tay chống vào mép gác lửng, cúi về phía chúng tôi và nói tiếp:

- Sách ấy à? Cần phải quan niệm nó như thế nào? Sách là bản báo cáo về con người. Nó nói: Hãy trông xem thế nào là một con người bình thường, chẳng hạn như một anh thợ mộc hoặc một người nào khác; còn đây là một nhà quý tộc, đó là một hạng người khác! Sách viết ra không phải không có mục đích, sách được viết ra chính là để bảo vệ cho những hạng người nào đó…

Foma nói bằng giọng trầm trầm:

- Pyotr giết lão thầu khoán là đúng!

- Ồ, đâu có phải thế! Giết người thì không bao giờ đúng cả. Tôi biết chú không ưa Grigoriy, nhưng chú phải bỏ những ý nghĩ ấy đi. Tất cả chúng ta đều là những người chẳng giàu có gì. Hôm nay tôi là chủ, nhưng mai tôi sẽ lại là người làm công…

- Cháu có nói bác đâu, bác Osip…

- Nói ai thì cũng vậy…

- Bác thật là một người công bằng.

- Khoan đã, tôi sẽ kể cho chú nghe người ta viết sách để làm gì. – Bác Osip cắt ngang những lời bực dọc của Foma. – Đây là một cuốn sách rất tinh quái! Này nhé: Có địa chủ không có bần nông, và có bần nông không có địa chủ! Bây giờ thử xem sao: Địa chủ cũng khổ mà bần nông cũng chẳng sung sướng gì. Địa chủ trở nên yếu đuối, sa đọa; còn bần nông thì khoác lác, rượu chè, đau ốm, bực tức. Đó, câu chuyện là như thế! Cuốn sách định nói rằng sống dưới chế độ nông nô thì sướng hơn: Địa chủ dựa vào bần nông, bần nông dựa vào địa chủ, và cả hai đều no ấm, yên ổn… Đúng, tôi không phủ nhận rằng dưới thời nông nô người ta sống yên ổn hơn. Địa chủ không được lợi gì nếu bần nông nghèo đói. Họ muốn bần nông giàu có nhưng ngu dốt, như thế có lợi cho họ. Tôi biết rõ điều đó bởi chúng tôi đã từng sống gần bốn mươi năm dưới thời nông nô. Trên da thịt tôi ghi lại nhiều dấu vết lắm.

Tôi nhớ bác đánh xe ngựa Pyotr[171] – người đã cắt cổ tự tử – cũng nói về địa chủ y như thế. Tôi cảm thấy rất khó chịu khi thấy những ý nghĩ của bác Osip lại trùng với suy nghĩ của lão già độc ác đó.

Bác Osip vừa đưa tay sờ chân tôi, vừa nói tiếp:

- Cần phải hiểu được sách vở và đủ các loại tác phẩm! Không ai đi làm chuyện vô ích bao giờ. Nếu thấy vô ích, chẳng qua là bị vẻ bề ngoài đánh lừa mà thôi. Mục đích của sách không gì khác ngoài làm xáo trộn đầu óc người ta. Mọi thứ đều được làm ra bằng trí tuệ, không có trí tuệ thì đẵn gỗ cũng chẳng xong, bện giày gai cũng chẳng nổi…

Trong bóng tối và trong bầu không khí yên lặng, bác nói rất lâu, hết nằm xuống lại nhổm lên, miệng khe khẽ tuôn những câu khôi hài mạch lạc:

- Người ta bảo địa chủ là những kẻ xa lạ với bần nông. Điều đó cũng không đúng. Chúng ta cũng là người, như địa chủ thôi, chỉ có điều chúng ta là hạng cùng đinh. Địa chủ học theo sách vở, còn tôi thì học từ những trận đòn, và mông đít của địa chủ thì trắng hơn, khác nhau chỉ có thế thôi. Không đâu, các anh ạ, đã đến lúc thiên hạ phải sống theo một lối khác rồi, những sách vở đó cần phải vứt bỏ đi thôi, phải xếp nó lại! Hãy để cho mỗi người tự hỏi mình: Tôi là ai? Là con người. Còn họ là ai? Cũng là con người. Vậy thì sao? Chúa có đòi hỏi họ hay tôi phải đóng góp khác nhau một hai kopek nào chăng? Ồ, không, nói về thuế má chúng ta và họ đều bình đẳng trước Chúa…

Cuối cùng, lúc gần sáng, khi bình minh dập tắt tất cả các vì sao, bác Osip bảo tôi:

- Chú đã thấy tài ăn nói của tôi chưa? Nhiều điều tôi nói, chính tôi trước kia cũng chưa bao giờ nghĩ đến! Các chú ạ, các chú chớ có tin tôi. Tôi làm như vậy, chính là vì không ngủ được chứ không phải thật đâu. Nằm cứ trơ ra, thành thử phải nghĩ ra trò gì để giải trí: “Dạo trước có một con quạ khoang, nó bay từ cánh đồng lên núi, từ bờ ruộng này sang bờ ruộng kia. Nó sống hết thời, Chúa bèn trừng phạt nó: Quạ chết và khô đét lại!” Câu chuyện như vậy thì có ý nghĩa gì? Chẳng có ý nghĩa gì hết… Thôi, ta ngủ đi. Sắp đến lúc dậy rồi…

Chú thích:

166) Tức Pyotr.

167) Nguyên văn: Tìm xem tôi ẩn nấp ở đâu.

168) Nguyên văn: Như chim hót

169) Ngày thứ bảy nghỉ việc trong tuần lễ của người Do Thái.

170) Nguyên văn: Cô thì thích tách và thìa, cô thì thích nhẫn và khuyên.

171) Xem chương IX trong cuốn Thời thơ ấu của Gorky.