Chương 18
Cũng giống anh thợ đốt lò Yaakov trước kia, trong mắt tôi bác Osip mỗi ngày một lớn lao, che lấp mọi người, ở bác có điều gì rất gần với anh thợ đốt lò, nhưng đồng thời lại khiến tôi liên tưởng đến ông ngoại, đến lão già thông thái Pyotr Vassilich và bác đầu bếp Smouri. Tuy bác giống những con người mà hình ảnh họ gắn chặt trong tâm trí tôi, bác vẫn để lại ấn tượng như một vết hằn sâu đậm, thâm nhập như oxide gặm nhấm chuông đồng hồ. Có thể nhận thấy ở bác hai lối suy nghĩ: Ban ngày, trong lúc làm việc, trước mặt mọi người, những ý nghĩ linh lợi và giản dị của bác có phần thực tế và dễ hiểu hơn những ý nghĩ hiện ra trong đầu óc bác lúc nghỉ ngơi, vào những buổi chiều tối khi bác cùng tôi đi vào thành phố, về nhà bà cụ mẹ nuôi làm nghề bán bánh rán của bác, hoặc những đêm bác mất ngủ. Những ý nghĩ ban đêm của bác độc đáo, nhiều khía cạnh, như ngọn lửa trong cây đèn lồng vậy. Chúng rất sáng, nhưng không hiểu đâu là mặt chính, đối với bác Osip mặt nào của một ý nghĩ nào đó gần gũi và quý giá hơn?
Đôi lúc tôi cảm thấy bác thông minh hơn tất cả những người tôi đã từng gặp. Tôi quẩn quanh bên cạnh bác với tâm trạng giống như khi quẩn quanh bên anh thợ đốt lò: tôi muốn tìm hiểu con người, nhưng bác cứ trơn tuột và ngoằn ngoèo khiến tôi không tài nào bắt được. Sự thật của bác ẩn khuất ở đâu? Có thể tin những gì ở bác?
Tôi nhớ lại, có lần bác đã từng bảo tôi: “Anh hãy tự tìm kiếm xem tôi là người thế nào. Anh cứ tìm đi!”
Lòng tự ái của tôi bị đụng chạm, nhưng trong tôi còn một điều gì vượt trên cả lòng tự ái. Đối với tôi, hiểu được ông già này là một điều hết sức cần thiết.
Mặc dù ở bác có những điều khó hiểu, bác là một người kiên định. Tôi có cảm tưởng như dù có sống thêm một trăm năm nữa, bác cũng vẫn y nguyên như thế, vẫn đứng vững giữa những con người hay dao động đến lạ kì này. Lão già thông thái cũng từng gây cho tôi ấn tượng về tính cương nghị như vậy, nhưng ấn tượng đó không khiến tôi dễ chịu lắm. Tính cương nghị của bác Osip không giống thế, nó có phần dễ chịu hơn.
Sự thiếu kiên định của mọi người đập vào mắt tôi một cách quá ư rõ rệt, những bước nhảy xảo trá của họ từ vị trí này qua vị trí kia từng làm tôi xáo động. Tôi không còn đủ sức để ngạc nhiên trước những bước nhảy không thể cắt nghĩa nổi ấy nữa, và dần dần chúng đã dập tắt mất lòng quan tâm tha thiết của tôi với mọi người, làm lung lay lòng yêu mến của tôi với họ.
Một hôm, vào đầu tháng Bảy, một cỗ xe ngựa ọc ạch vội vã chạy đến chỗ chúng tôi làm việc. Trên yên của người đánh xe có một bác xà ích say rượu rậm râu, đầu để trần, môi bị rách, vừa ngồi vừa nấc một cách buồn bã. Trong xe, bác Grigoriy Shishlin say xỉn nằm ườn ra. Một cô ả to béo má đỏ đỡ nách bác ta. Cô ả đội mũ rơm tết băng đỏ và đính những quả anh đào bằng thủy tinh, tay cầm một cái ô nhỏ, chân đi giày cao su không bít tất. Cô múa may cái ô, người đung đưa, vừa cười hô hố vừa la hét:
- Ồ, lũ quỷ sứ! Hội chợ chưa khai mạc, chưa có hội chợ thế mà họ lại lôi mình đến hội chợ!
Bác Grigoriy người phờ phạc, ủ rũ, bò từ trên xe xuống, ngồi phệt xuống đất, vừa khóc vừa nói với chúng tôi – những người đứng xem:
- Tôi… Tôi xin quỳ ở đây, tôi đã phạm quá nhiều tội lỗi rồi! Tôi đã suy nghĩ mà vẫn phạm tội, như thế đấy! Efimushka bảo: Grisha, Grisha! Hắn nói… Hắn nói đúng đấy, nhưng xin các người hãy tha thứ cho tôi! Tôi có thể thết đãi tất cả các người. Hắn nói đúng đấy: Chúng ta chỉ sống có một lần… sống quá một lần không thể được…
Cô gái cười ran, giậm chân, văng cả giày cao su. Gã xà ích cau có:
- Mau lên, đi thôi! Không thể dừng ngựa lâu được!
Con ngựa, một con vật già yếu, phờ phạc, mình đầy bụi bặm, đứng như chôn chân xuống đất. Nhìn những cảnh tượng ấy, tôi không tài nào nhịn cười được. Toán thợ của bác Grigoriy nhìn chủ, nhìn người con gái diêm dúa và lão xà ích ngây ngô, rồi cứ thế cười bò ra. Chỉ có Foma là không cười. Anh ta đứng cạnh tôi trong khoang cửa của cửa hàng, lẩm bẩm:
- Đồ lợn ỉ… Trong khi đó thì ở nhà hắn có một mụ vợ khá xinh!
Lão xà ích vẫn cứ giục đi. Cô ả trên xe bước xuống vực Grigoriy lên, đặt bác ta nằm cạnh chân mình rồi vung ô hét:
- Đi thôi!
Theo tiếng gọi của Foma, mọi người bắt tay vào công việc. Họ nhạo báng ông chủ của họ một cách hiền hậu nhưng có phần ghen tức. Foma hình như khó chịu khi thấy bác Grigoriy trở nên lố lăng như vậy.
- Thế mà cũng đòi gọi là ông chủ! – Anh ta lẩm bẩm. – Chỉ còn làm có không đầy một tháng nữa thôi, sau đó chúng ta sẽ trở về làng… Thế mà không sao chịu được…
Tôi cảm thấy giận thay cho bác Grigoriy: Ở bên cạnh bác ta, cô ả đội cái mũ có đính những quả anh đào ấy trông lố bịch đến phát ghét.
Nhiều lúc tôi tự nghĩ: Tại sao Grigoriy Shishlin là chủ, còn Foma Tuskov là người làm công?
Là một thanh niên tráng kiện, trắng trẻo, tóc quăn, mũi nhọn như mỏ kền kền, khuôn mặt tròn với cặp mắt xám thông minh, Foma trông không giống bần nông tí nào. Nếu được ăn mặc bảnh bao, anh ta có thể đóng vai con một gia đình thương nhân khá giả. Anh luôn luôn rầu rĩ, ít nói và thường nói giọng nghiêm trang. Vì biết đọc, biết viết nên anh làm công việc tính toán cho người thầu khoán và lập các bảng dự toán. Anh biết cách buộc các bạn anh phải làm việc đến nơi đến chốn, nhưng bản thân anh lại làm việc một cách miễn cưỡng.
- Già đời cũng không làm hết việc đâu. – Anh thản nhiên nói.
Anh nhận xét về sách vở có vẻ miệt thị:
- Muốn in cái gì mà chẳng được. Tớ có thể bịa ra bất kì chuyện gì mà cậu muốn, cái đó chẳng có gì đáng kể…
Nhưng anh chăm chú lắng nghe mọi chuyện. Và nếu anh thích thú điều gì, anh căn vặn rất tỉ mỉ, anh luôn luôn theo đuổi một suy nghĩ nào đó của riêng anh, luôn ướm đo mọi thứ theo cách riêng của mình.
Một hôm tôi bảo Foma rằng đáng lẽ anh phải làm nghề thầu khoán mới đúng. Anh uể oải đáp:
- Nếu như tớ có ngay được vài nghìn bạc thì còn xoay xở được… Đằng này cứ quẩn quanh bên thiên hạ để kiếm lấy từng xu thì đừng nói chuyện gì hết. Tớ còn xem sao đã, chưa biết chừng tớ sẽ bỏ đến tu viện ở Oranki. Tớ khỏe mạnh, đẹp trai, rất có thể một mụ thương gia góa chồng nào đó cảm tớ cũng nên! Những chuyện như vậy ở đời không phải là không có. Có một anh chàng người ở Sergatz chỉ trong hai năm đã ăn nên làm ra, lại kiếm được vợ, cô ả là người ở thành phố này. Anh chàng hay đem tượng thánh đến các nhà, và thế là cô nàng mê tít anh ta…
Đây là một câu chuyện đã được anh sắp đặt cẩn thận. Anh biết nhiều chuyện về việc nhờ tu hành ngoan ngoãn mà người ta đạt đến một cuộc sống dễ chịu. Tôi không thích các câu chuyện của Foma, cả lối suy nghĩ của anh tôi cũng không thích, nhưng tôi tin nhất định anh sẽ đi tu.
Hội chợ khai mạc, và mọi người đều bất ngờ vì Foma đi làm nghề lau sàn ở quán ăn. Khỏi phải nói việc đó đã khiến các bạn bè của anh ngạc nhiên đến thế nào, họ bắt đầu nhạo báng anh. Cứ đến ngày nghỉ, khi tụ tập để uống trà, họ lại mỉm cười bảo nhau:
- Ta ra chỗ thằng “bồi” của ta đi!
Đến quán ăn, họ lên giọng ông chủ, thét:
- Ê, bồi! Bồi tóc quăn, lại đây!
Foma bước tới, hơi ngẩng đầu, hỏi:
- Các ông sai gì?
- Không nhận ra người quen à?
- Tôi không có thì giờ nhận mặt người quen…
Anh cảm thấy bạn bè khinh miệt, muốn trêu chọc anh, và anh nhìn họ bằng cặp mắt chờ đợi buồn chán. Khuôn mặt anh đanh lại như gỗ, hình như nó muốn nói: “Các người cứ cười đi, nhanh lên, còn chờ gì nữa…”
- Muốn xin tiền chè nước không? – Họ hỏi anh và cố lục lọi ví tiền thật lâu, để rồi chẳng cho anh một kopek nào.
Tôi hỏi Foma tại sao anh đã toan đi tu lại bỏ về làm thằng ở.
- Tớ không định đi tu. – Anh đáp. – Còn chuyện đi ở thì tớ sẽ không làm lâu đâu.
Bốn năm sau, tôi gặp lại anh ở Tzaritzin, lúc này anh vẫn làm bồi bàn ở quán ăn. Sau đó tôi đọc báo thấy nói Foma Tuskov bị bắt vì tội định bẻ khóa ăn trộm.
Chuyện làm tôi kinh ngạc nhất là chuyện bác thợ nề Ardalion, người thợ cả giỏi nhất trong phường của bác Pyotr. Bác bần nông trạc bốn mươi tuổi ấy râu cằm đen, tính tình vui vẻ, cũng thường hay vô tình nêu ra câu hỏi: Tại sao chủ không phải là bác ta, mà là bác Pyotr? Bác ít khi uống rượu vodka và hầu như không bao giờ uống đến say. Bác hiểu biết nghề nghiệp của mình một cách thành thạo. Bác làm việc với lòng ham say. Những viên gạch tung bay trong tay bác hệt như những con chim bồ câu đỏ. Bên cạnh bác, bác Pyotr bệnh hoạn và rầu rĩ trở nên hoàn toàn thừa thãi trong đội. Bác nói về công việc của mình như sau:
- Ta xây nhà gạch cho thiên hạ ở, còn mình thì chỉ dành được một chiếc quan tài bằng gỗ…
Bác Ardalion hăng say vui vẻ đặt gạch, chốc chốc lại la lên:
- Ê, sáng danh Chúa, hãy nhanh tay lên anh em ơi!
Rồi bác kể với mọi người rằng mùa xuân năm sau bác sẽ đi Tomsk. Ở đó người em rể của bác mới nhận thầu một công trình lớn – xây nhà thờ – và mời bác tới làm trưởng kíp.
- Việc này tôi đã quyết rồi. Tôi thích xây cất nhà thờ lắm! – Bác nói và rủ tôi. – Anh đi với tôi! Ở Siberia những người có học dễ làm ăn lắm, người anh em ạ. Ở đó ai có học thức tha hồ mà làm vương làm tướng!
Tôi bằng lòng. Bác Ardalion liền kêu lên, vẻ đắc thắng:
- Có thế chứ! Nói thật đấy, chẳng phải nói chơi đâu…
Bác hay nhạo báng bác Pyotr và Grigoriy với thái độ hiền hậu như người lớn chế nhạo trẻ con. Bác bảo bác Osip:
- Bọn khoác lác! Chúng khoe khoang hiểu biết như những tay cờ bạc ấy. Người này nói: Trông đấy, bài tôi thế này cơ mà! Người khác nói: Còn tôi, tôi có chủ bài đấy!
Bác Osip trả lời lấp lửng:
- Làm sao khác được? Ba hoa là thói của người đời. Có cô gái nào khi đi mà ngực không ưỡn về phía trước.
- Họ cứ kêu trời đất thế, trong khi đó thì tiền bạc vẫn tích cho rõ nhiều! – Bác Ardalion vẫn chưa chịu thua.
- Grisha có tích gì đâu…
- Tôi đang nói về ông chủ của tôi. Hãy cứ đi theo Chúa vào rừng, đến một nơi hoang vu nào đó xem… Ôi, tôi chán chốn này lắm rồi. Đến mùa xuân là tôi đi Siberia thôi…
Đám công nhân ghen tị với bác Ardalion, họ nói:
- Nếu chúng tôi có được một người để nương tựa như em rể ông thì chúng tôi cũng chẳng sợ gì Siberia…
Rồi sau đó, bác Ardalion bỗng biến mất. Chủ nhật bác bỏ đội đi và suốt ba ngày không ai biết bác ở đâu.
Mọi người lo lắng phỏng đoán:
- Có lẽ đứa nào giết hắn ta rồi chăng?
- Hay là đi tắm chết đuối?
Nhưng bác Efimushka trở về, ngượng nghịu tuyên bố:
- Ardalion đi chơi gái rồi!
- Nói láo cái gì thế? – Bác Pyotr hoài nghi hét lên.
- Chơi gái, rượu chè. Chẳng qua cũng như cái lò cháy từ bên trong cháy ra mà thôi. Hình như người vợ đáng yêu của hắn mới chết rồi…
- Hắn góa vợ rồi! Bây giờ hắn ở đâu?
Pyotr bực tức đi tìm Ardalion, nhưng bị bác Ardalion đánh cho một trận.
Thấy vậy, bác Osip cắn chặt môi, thọc sâu hai tay vào túi:
- Để tôi đi xem tại sao lại thế! Hắn là một người tốt…
Tôi đi theo bác ta. Dọc đường, bác Osip bảo tôi:
- Thế đấy, một con người đã sống bao nhiêu năm, mọi việc tưởng như đâu vào đấy cả, thế mà bỗng nhiên cong đuôi lên chạy và sống lăn lóc ở các bãi hoang. Chú hãy trông đấy mà rút lấy bài học, Maksimovich ạ…
Chúng tôi vào tìm tại một “nhà giải muộn phiền” rẻ tiền ở Kunavino. Một mụ già trông có vẻ gian giảo ra tiếp. Bác Osip thì thào với mụ, mụ dẫn chúng tôi vào một căn phòng nhỏ trống rỗng, tối tăm và bẩn thỉu như ngăn chuồng bò. Trên giường, một người đàn bà to béo đang nằm ườn ra ngủ. Mụ già giơ nắm tay thúc vào sườn người đó và bảo:
- Ê, con ếch này, đi ra ngoài kia!
Người đàn bà hoảng hốt nhổm dậy, lấy hai ngón tay lau mắt, hỏi:
- Lạy Chúa! Ai thế? Cái gì thế?
- Mật thám đến! – Bác Osip nghiêm nghị nói.
Người đàn bà kêu lên rồi chuồn mất. Bác Osip nhổ nước bọt theo mụ và giải thích cho tôi:
- Chúng nó sợ mật thám còn hơn sợ cả quỷ sứ nữa…
Mụ già tháo trên tường xuống một tấm gương nhỏ và khẽ nâng mảnh giấy bồi lên.
- Ông nhìn xem, có phải người này không?
Bác Osip nhìn qua khe vách.
- Chính hắn! Hãy đuổi cô ả ra…
Tôi cũng nhòm vào khe vách: Trong một căn phòng cũng chật chội như căn phòng chúng tôi đang đứng, trên bệ cửa sổ có cửa chớp đóng kín thắp một ngọn đèn bằng sắt tây, cạnh đó, một cô gái người Tarta mắt hiếng, cởi trần, đang đứng khâu áo. Phía sau cô ta, gương mặt sưng húp của Ardalion nhô cao lên trên hai chiếc gối. Bộ râu đen rối tung của bác vểnh lên. Cô ả Tarta giật mình, khoác vội áo, đi ngang qua giường và bỗng xuất hiện ở phòng chúng tôi.
Bác Osip nhìn cô ta và lại nhổ nước bọt:
- Hừ, đồ trơ trẽn.
- Chính lão mới là đồ ngốc. – Cô ta cười, trả lời.
Bác Osip cũng bật cười, giơ ngón tay lên dọa cô ta.
Chúng tôi vào phòng cô gái Tarta. Ông già ngồi lên giường, phía chân Ardalion, và lay gọi bác ta rất lâu, nhưng vô hiệu.
Bác ta cứ lẩm bẩm:
- Thôi được… Chờ một lát, chúng ta cùng đi…
Cuối cùng bác tỉnh dậy, nhìn bác Osip và tôi bằng cặp mắt man rợ. Sau đó đôi mắt đỏ ngầu của bác nhắm lại, bác rên rỉ:
- Hừ, hừ…
- Đằng ấy làm sao thế? – Bác Osip hỏi, giọng bình tĩnh, không có vẻ gì trách móc, nhưng không được vui.
- Tôi thấy choáng váng. – Ardalion thở khò khè, vừa ho vừa nói.
- Choáng váng thế nào?
- Chẳng sao cả…
- Chắc có điều gì không hay…
- Còn có gì hay nữa…
Ardalion với lấy một chai rượu vodka đã mở nút sẵn trên mặt bàn và bắt đầu tu, sau đó mời bác Osip:
- Uống không? Hình như có đồ nhắm ở đâu đấy…
Ông già tu rượu, nuốt ừng ực, mặt nhăn lại, sau đó lấy một miếng bánh mì và chăm chú nhai. Ardalion vẻ mặt rầu rĩ, nói uể oải:
- Tôi đi lại với cô ả Tarta ấy đấy. Chỉ tại Efimushka cả thôi. Hắn bảo cô ta trẻ, là một cô gái mồ côi ở Kasimov, sắp đi dự hội chợ.
Từ bên kia tường vọng sang một giọng nói vui vẻ, đứt quãng:
- Con gái Tarta tuyệt nhất trần đời! Cứ y như gà mái tơ ấy. Anh hãy đuổi lão già ấy đi. Lão ta có phải là bố đẻ của anh đâu…
- Chính cô ta đấy. – Ardalion lẩm bẩm, cặp mắt đờ đẫn nhìn lên vách.
- Tôi đã trông thấy rồi. – Bác Osip nói.
Ardalion quay về phía tôi:
- Tôi bây giờ như thế đấy, người anh em ạ…
Tôi cứ tưởng bác Osip sẽ trách móc Ardalion, lên lớp bác ta, khiến bác ta bối rối hối hận. Nhưng chẳng có chuyện gì xảy ra cả. Họ ngồi bên nhau, vai kề vai, trao đổi với nhau những câu ngắn ngủi một cách bình thản. Nhìn họ ngồi trong căn phòng tối tăm, bẩn thỉu, tôi cảm thấy thật buồn. Cô gái Tarta vẫn nói qua kẽ vách những câu khôi hài, nhưng họ không để ý. Bác Osip cầm lấy con cá khô trên bàn, đập vào ủng và thận trọng bóc lớp da. Vừa làm bác vừa hỏi:
- Hết nhẵn tiền rồi phải không?
- Petruska còn nợ tôi một ít…
- Liệu đấy, bây giờ có còn định đi Tomsk nữa không?
- Ôi dào, chuyện đi Tomsk thì…
- Hay lại đổi ý rồi?
- Nếu người ngoài mời thì tôi sẽ đi.
- Thế là thế nào?
- Còn nếu như đứa em gái tôi với chồng nó mời thì…
- Thì sao?
- Chẳng hay ho gì cái chuyện phải quỵ luỵ họ hàng mình…
- Chuyện ấy thì ở đâu cũng thế thôi.
- Nhưng dù sao…
Họ nói chuyện với nhau thân mật và nghiêm trang đến nỗi cô gái Tarta không dám trêu chọc họ nữa. Cô ta vào phòng, lẳng lặng lấy cái áo dài treo trên tường rồi chuồn mất.
- Cô ả trẻ thật! – Bác Osip nói.
Ardalion nhìn bác Osip, thản nhiên:
- Tất cả chỉ tại Efimushka thôi, cái thằng mãnh ấy. Hắn không biết gì ngoài đàn bà sất… Còn cô ả Tarta thì vui tính thật, lúc nào cũng đùa nghịch…
- Cứ liều liệu, kẻo không ra khỏi chốn này đâu. – Bác Osip dặn Ardalion, và sau khi nhai nốt miếng cá cuối cùng, bác ra về.
Dọc đường về nhà, tôi hỏi bác Osip:
- Bác đến chỗ ấy làm gì?
- Để xem thế nào. Hắn là chỗ quen biết. Tôi đã gặp nhiều chuyện như thế này lắm rồi: Sống bao nhiêu năm chẳng sao, bỗng nhiên bỏ đi như trốn tù ấy. – Bác nhắc lại điều trước kia bác đã nói. – Cần phải tránh đừng có rượu chè vào!
Nhưng lát sau bác lại bảo:
- Nhưng không có nó cũng buồn lắm!
- Không có rượu ấy ư?
- Phải! Mỗi khi uống rượu vào tưởng như được sang một thế giới khác…
Bác Ardalion quả không thoát ra được. Mấy hôm sau bác đi làm, nhưng chẳng bao lâu bác lại biến mất. Đến mùa xuân thì tôi gặp bác trong đám người du thủ du thực đang phá lớp băng đóng xung quanh một cái sà lan đậu ở lạch sông. Gặp nhau tay bắt mặt mừng, chúng tôi rủ nhau vào quán trà. Trong lúc uống, bác khoe:
- Anh còn nhớ tôi là một tay thợ như thế nào chứ hả? Phải nói thẳng, trong cái nghề của tôi thì tôi là chúa! Tôi có thể kiếm được hàng trăm rúp…
- Vậy mà bác chẳng kiếm được đồng nào cả.
- Không kiếm được đồng nào, tất nhiên! – Bác kêu lên với vẻ kiêu hãnh. – Tôi không thèm làm đấy chứ!
Bác nói bô bô. Những người trong quán chăm chú lắng nghe mấy lời sôi nổi của bác.
- Anh còn nhớ Petruska, tên ăn cắp ngấm ngầm ấy nói về công việc như thế nào không? Đi xây nhà gạch cho thiên hạ, còn cho mình thì chỉ dành được một chiếc quan tài bằng gỗ. Đó, công việc là thế đấy!
Tôi nói:
- Petruska ốm, bác ấy sợ chết.
Nhưng Ardalion thét lên:
- Tôi cũng ốm, tâm thần tôi hình như không ổn định!
Những ngày nghỉ, tôi thường rời khu trung tâm đi xuống phố “Million”, nơi trú ngụ của những người du thủ du thực. Và tôi đã thấy Ardalion trở thành một tên lính của đội quân “lưu manh” một cách nhanh chóng. Mới năm ngoái bác ta còn vui vẻ và đứng đắn là thế, vậy mà giờ trở thành một kẻ ba hoa, đi đứng khệnh khà khệnh khạng, thường nhìn mọi người bằng cặp mắt ương ngạnh, hệt như muốn thách thức người ta tranh luận và đánh nhau với mình.
Hơn nữa, lúc nào bác ta cũng khoe khoang:
- Anh hãy xem mọi người đối xử với tôi thế nào. Ở đây tôi chẳng khác gì một thủ lĩnh!
Vốn không biết tiếc tiền, kiếm được bao nhiêu bác thường cho mấy người du thủ du thực chè chén. Mỗi khi đánh nhau bác hay đứng về phe yếu và kêu gọi:
- Anh em ơi, sai rồi! Cần phải hành động cho đúng đắn!
Do thế mà mọi người đặt cho bác cái tên “Đúng Đắn”. Bác rất thích thú với biệt danh đó.
Tôi ra sức quan sát những con người bị lèn chặt trong cái túi đá cũ kĩ và bẩn thỉu của khu phố này. Bọn họ đều là những người đã bị tách khỏi cuộc sống, nhưng hình như họ đã tự tạo cho họ một cuộc sống riêng, vui vẻ, không phụ thuộc vào các ông chủ. Nhìn những người bị bỏ rơi, không được ai săn sóc đó, tôi nhớ đến mấy chuyện ông tôi kể về những người kéo thuyền đã trở thành kẻ cướp và ẩn sĩ một cách dễ dàng như thế nào. Khi không có việc làm thì họ không còn coi chuyện ăn cắp vặt trên các tàu thủy và sà lan là đáng ghê tởm nữa. Nhưng điều đó không làm tôi cảm thấy bối rối. Tôi nhận thấy toàn bộ cuộc sống đều được chắp vá bằng thói ăn cắp, giống như chiếc áo caftan cũ được khâu bằng những sợi chỉ xám. Đồng thời tôi cũng nhận thấy những con người này đôi khi làm việc rất say sưa, không hề tiếc sức, một cảnh tượng thường thấy trong các chuyến bốc hàng cấp tốc, những khi cháy nhà hoặc lúc băng trôi, và nói chung, họ sống vui vẻ hơn nhiều người khác.
Khi thấy tôi kết bạn với Ardalion, bác Osip liền can ngăn tôi với thái độ của một người cha:
- Nghe đây, cháu của bác, cháu chơi thân quá với cái bọn ở đường “Million” ấy làm gì? Coi chừng, đừng có chuốc lấy vạ vào thân…
Biết sao nói vậy, tôi bảo bác rằng tôi ưa những người đó, họ sống vui vẻ, không phải làm việc.
- Bọn chúng sống như chim trên trời ấy. – Bác mỉm cười, ngắt lời tôi. – Chúng muốn sống như thế vì đó là bọn lười biếng, bọn vô dụng. Làm việc đối với chúng là một điều khổ sở!
- Làm việc để làm gì cơ chứ? Người ta thường nói: Thực thà sao kiếm nổi nhà cao!
Tôi nói như vậy một cách dễ dàng vì tôi đã nghe quá nhiều lần câu ngạn ngữ này, và tôi cảm thấy nó đúng.
Nhưng bác Osip nổi nóng, thét lên:
- Ai nói như thế? Bọn ngu ngốc và lười biếng. Cháu đừng có nghe những lời đó, con chó con ạ! Hừ, liệu đấy! Những điều ngu xuẩn ấy đều do mấy kẻ hay ghen ghét và bọn thất cơ lỡ vận nói ra. Cháu mọc cho đủ lông đủ cánh rồi hãy đòi bay bổng! Còn chuyện kết bạn của cháu, bác sẽ mách ông chủ cho mà xem, rồi chớ có giận!
Và bác mách thật. Ngay trước mặt bác, cậu chủ bảo tôi:
- Peskov, anh đừng có bén mảng đến cái phố “Million” ấy nữa! Ở đó toàn là bọn ăn cắp và gái điếm thôi. Con đường đến đấy chính là con đường đến nhà tù và nhà thương. Anh hãy thôi ngay đi!
Từ đó trở đi, mỗi khi xuống chơi phố “Million” tôi đều phải giữ kín, nhưng rồi chẳng bao lâu tôi buộc phải thôi hẳn.
Một hôm, tôi với Ardalion và một người bạn của bác ta có biệt hiệu là “Con nít” ngồi chơi dưới mái nhà kho trong sân một ngôi nhà. “Con nít” kể cho chúng tôi nghe một chuyện vui về việc bác ta đã cuốc bộ từ thành phố Rostov trên sông Đông tới Moskva như thế nào. Nguyên bác là lính công binh, đã từng được thưởng huân chương thánh Georgiy. Trong cuộc chiến tranh Thổ Nhĩ Kì, bác bị thương ở đầu gối và từ đó bị thọt. Dáng người thấp, vạm vỡ, hai cánh tay bác có một sức mạnh đáng sợ, nhưng cũng chẳng giúp ích gì cho bác, vì bác thọt nên không thể làm việc nặng. Không hiểu bác bị bệnh gì mà râu tóc rụng hết cả, thành thử đầu bác nom hệt như đầu một đứa trẻ mới đẻ.
Long lanh cặp mắt hung, bác nói:
- Thế là tôi đến Serpoukhov. Tôi gặp một ông cố đạo đang ngồi trong mảnh vườn trước nhà. Tôi bèn nói: “Thưa cha, xin cha hãy bố thí cho người anh hùng của cuộc chiến tranh Thổ Nhĩ Kì…[172]”
Ardalion lắc đầu:
- Chà, nói láo, nói láo…
- Tôi nói láo cái gì? – “Con nít” hỏi, không hề tỏ ra bực dọc.
Ardalion càu nhàu bằng giọng uể oải và có vẻ dạy đời:
- Anh là một người không đứng đắn! Lẽ ra anh nên xin làm một chân gác thì phải. Những người thọt thường sống bằng nghề gác. Nhưng anh thì chỉ đi lông bông và tán phét…
- Tôi nói cho vui thôi, để cho mọi người cười…
- Anh nên tự cười anh thì hơn…
Ngoài sân tối om và bẩn thỉu, tuy lúc này trời nắng ráo. Một người đàn bà xuất hiện, chị giũ một mảnh vải và kêu lên:
- Chị em ơi, có ai mua váy không nào?…
Từ những khe nhà, mấy mụ đàn bà chạy ra, xúm xít xung quanh người bán hàng. Tôi nhận ra ngay đó là chị thợ giặt Natalya. Tôi nhảy phóc từ trên mái nhà xuống, nhưng chị ta, sau khi bán chiếc váy cho người vừa trả tiếng thứ nhất, đã lẳng lặng bỏ đi mất.
- Chào chị! – Tôi vui vẻ chào khi đuổi kịp chị ngoài cổng.
- Còn muốn nói gì nữa? – Chị hỏi sau khi liếc nhìn tôi. Bỗng chị dừng lại, giận dữ thét lên. – Trời ơi! Em đến đây làm gì?…
Tiếng kêu sợ hãi làm tôi động lòng và bối rối. Tôi hiểu rằng chị sợ thay cho tôi: Vẻ sợ hãi và kinh ngạc hiện ra thật rõ ràng trên khuôn mặt thông minh của chị. Tôi liền giải thích cho chị rằng tôi không sống ở phố này, chỉ thỉnh thoảng đến xem thôi.
- Xem ư?! – Chị thốt lên với vẻ giễu cợt và bực tức. – Em xem cái gì ở đây? Xem túi những người qua đường và ngực đàn bà à?
Mặt chị nhăn nhó, dưới mắt có những quầng thâm, đôi môi trễ xuống và có vẻ mệt mỏi.
Chị dừng lại trước cửa một quán ăn, bảo tôi:
- Chúng ta vào đây uống trà! Em ăn mặc sạch sẽ, không như bọn ở đây. Nhưng em vẫn có cái gì khiến chị không tin được…
Nhưng vào đến quán ăn thì hình như chị đã tin tôi. Chị rót trà, và bằng một giọng buồn tẻ, bắt đầu nói cho tôi biết chị vừa mới ngủ dậy trước đó một giờ, chưa kịp ăn uống gì cả.
- Còn hôm qua thì nằm tràn, say bí tỉ, đến nỗi không nhớ là uống ở đâu và uống với ai.
Tôi thấy thương hại chị. Trước mặt chị, tôi cảm thấy lúng túng. Tôi muốn hỏi xem con gái chị bây giờ ở đâu. Còn chị, sau khi uống rượu vodka và trà nóng, bắt đầu nói bằng cái giọng sôi nổi và thô lỗ quen thuộc, giống như tất cả đàn bà phố này. Khi tôi hỏi về con gái chị, chị hét lên:
- Em hỏi chuyện đó để làm gì? Không đâu, chú em thân mến ạ, em không với được tới con gái chị đâu!
Chị uống thêm và kể:
- Con gái chị mà ở với chị thì chẳng có việc gì để làm. Chị là người thế nào? Một mụ thợ giặt. Chị làm mẹ nó thế nào được? Nó là người thông thái, có học thức. Như thế đấy, chú em ạ! Thế là nó bỏ chị đến ở với một đứa bạn gái giàu có, hình như để làm nghề dạy học thì phải…
Yên lặng một lát, chị hỏi khẽ:
- Này, mụ thợ giặt này không xứng với cậu à? Thế gái mại dâm có xứng không?
Tất nhiên tôi đã thấy ngay chị là “gái mại dâm”. Đàn bà ở phố này còn có nghề nào khác nữa. Nhưng khi nghe chính miệng chị nói ra điều đó, tôi vẫn ứa nước mắt vì xấu hổ và thương hại chị, hệt như lời thú nhận của chị đã thiêu đốt tôi. Mới trước đó ít lâu chị còn là một người đàn bà mạnh dạn, tự chủ và thông minh là thế!
- Ôi! – Chị liếc nhìn tôi, thở dài. – Em đi khỏi đây đi! Chị van em và khuyên em, đừng có bén mảng đến đây, chết mất thôi!
Sau đó chị cúi lom khom trên bàn, lấy ngón tay vẽ hình gì đó trên mặt khay và bắt đầu nói khe khẽ bằng giọng đứt quãng, dường như tự nói với mình:
- Nhưng cậu có thèm để ý gì đến những lời yêu cầu và khuyên nhủ của tôi? Ngay đến con gái tôi cũng có nghe lời tôi đâu… Tôi vẫn thường la lối nó: “Mày không được bỏ mẹ mày mà đi, hiểu chưa?” Nhưng nó trả lời: “Con sẽ tự tử.” Thế rồi nó bỏ đi Kazan… Nó muốn học nghề hộ sinh. Như thế cũng được… Nhưng còn tôi thì sao? Tôi bây giờ thế này đây… Tôi còn biết nương tựa vào đâu nữa?… Vào những người qua đường ư?…
Chị im lặng, suy nghĩ rất lâu một điều gì đó, cặp môi mấp máy không thành tiếng và hình như đã quên mất tôi. Hai mép chị trễ xuống, miệng cong lại như lưỡi liềm. Lớp da trên đôi môi chị giật giật trông thật đau khổ, những nếp nhăn rung rung như muốn nói thầm điều gì, vẻ mặt chị trông non trẻ, bực dọc. Dưới tấm khăn, một mớ tóc thò ra và xõa xuống má, vắt cả ra đằng sau cái tai bé nhỏ của chị. Một giọt nước mắt nhỏ xuống chén trà đã nguội lạnh. Thấy thế, chị đẩy dịch chén nước sang một bên rồi nhắm nghiền mắt. Thêm hai giọt nước mắt nhỏ ứa ra. Sau đó chị lấy khăn lau mặt.
Không còn đủ kiên nhẫn ngồi với chị lâu hơn, tôi lẳng lặng đứng dậy.
- Thôi, chào chị!
- Hừ? Đi đi, đi đi cho khuất mắt! – Chị đưa tay xua, không nhìn tôi, chắc hẳn chị đã quên là đang ngồi với ai.
Tôi trở lại sân tìm Ardalion: Bác muốn đi câu tôm. Tôi muốn kể cho bác nghe về người đàn bà này, nhưng bác và “Con nít” không còn ở chỗ cũ. Trong lúc tôi đi tìm họ giữa cái sân bề bộn đó, ở ngoài đường nổi lên những tiếng ồn ào vốn đã trở nên quen thuộc với phố này.
Tôi ra cổng và chạm trán ngay Natalya. Chị đang khóc nức nở, một tay cầm khăn trùm đầu lau gương mặt bị đánh thâm tím, tay kia sửa mớ tóc rối tung. Chị bước dò dẫm trên vỉa hè, theo sau là Ardalion và “Con nít”.
“Con nít” nói:
- Cứ cho nó một trận nữa!
Ardalion đuổi theo chị, vung nắm đấm. Chị quay ngực về phía bác ta, vẻ mặt trông thật đáng sợ, cặp mắt ánh lên vẻ căm hờn.
- Đây, đánh đi! – Chị thét.
Tôi nắm lấy tay Ardalion. Bác ta nhìn tôi, vẻ ngạc nhiên:
- Mày định làm gì thế?
- Đừng động đến chị ấy! – Tôi nói một cách khó nhọc.
Bác cười phá lên.
- Nó là nhân tình của mày hẳn thôi? Ôi, Natashka[173], mày vớ được anh thầy tu rồi!
“Con nít” cũng cười hô hố, hai tay vỗ vào đùi đen đét. Sau đó họ còn bêu riếu tôi rất lâu. Thật là cay cực! Trong khi họ làm việc đó, chị Natalya đã đi mất. Còn tôi, cuối cùng, không thể chịu nổi, bèn húc vào ngực “Con nít” làm bác ta ngã lộn nhào, rồi tôi bỏ chạy.
Từ đó, lâu lắm tôi không lai vãng đến phố “Million”, nhưng tôi còn gặp Ardalion một lần nữa, lần này là trên một chuyến phà.
- Bấy lâu nay anh đi đâu mà biệt tăm biệt tích? – Bác vui vẻ hỏi tôi.
Khi tôi bảo bác rằng tôi cảm thấy ghê tởm mỗi khi nhớ lại bác ta đã đánh chị Natalya và chửi bới tôi thậm tệ như thế nào, bác liền cất tiếng cười một cách hiền hậu.
- Anh tưởng đó là chuyện thật à? Chúng ta trêu chọc anh cho vui đấy thôi. Còn con ấy tại sao lại không nên đánh, nếu chẳng qua nó chỉ là một con đĩ. Vợ con còn nện thẳng cánh, huống hồ những hạng như thế thì thương tiếc làm gì! Nhưng tất cả những cái đó chẳng qua chỉ là trò đùa thôi! Roi vọt đâu có dạy bảo được người ta, điều đó tôi hiểu lắm!
- Bác mà cũng đòi dạy chị ta cơ à?
Bác ôm lấy vai tôi lắc lắc và nói với vẻ giễu cợt:
- Điều tệ hại của chúng ta chính là ở chỗ không ai hơn ai… Tôi hiểu cả, người anh em ạ, hiểu từ trong đến ngoài, hiểu tất! Tôi có phải dân nhà quê đâu…
Lúc này bác hơi say nên rất vui vẻ. Bác nhìn tôi với vẻ thương hại trìu mến của một ông thầy tốt bụng nhìn đứa học trò ngu dốt…
… Thỉnh thoảng tôi lại gặp Pavel Odintzov. Độ này nó càng ranh mãnh hơn trước, ăn vận rất diện, thường nói với tôi bằng giọng khoan dung và luôn luôn trách móc:
- Sao cậu lại làm cái nghề ấy? Cậu sẽ hỏng mất thôi, cái bọn bần nông ấy…
Rồi nó buồn rầu kể cho tôi nghe những tin tức ở xưởng:
- Jikharev vẫn luẩn quẩn với con bò cái ấy. Sitanov hình như có chuyện gì đau khổ lắm, anh ta bắt đầu uống rượu chết thôi. Còn Golovev thì bị chó sói ăn thịt rồi: Hôm lễ Giáng sinh, lão ta về nhà uống rượu say, thế là bị chó sói xơi mất!
Pavel vừa cười như nắc nẻ vừa sáng tác cho câu chuyện thêm khôi hài:
- Lũ chó sói chén xong và cũng bị say! Trở nên vui tính, chúng đi lại trong rừng bằng hai chân sau giống như chó làm xiếc và sủa ran. Đến hôm sau thì cả bầy sói chết hết!…
Nghe chuyện, tôi cũng cười. Nhưng tôi cảm thấy xưởng thợ cùng với những gì tôi trải qua ở đấy đến nay đã trở thành kí ức xa xưa. Điều đó khiến tôi buồn buồn.
Chú thích:
[172] Cuộc chiến tranh Nga – Thổ năm 1877 – 1878.
[173] Tức Natalya.