← Quay lại trang sách

Chương 20

Ba năm trời tôi sống ở cái thành phố chết ấy, giữa những tòa nhà rỗng, làm “đốc công” trông coi thợ thuyền, cứ mùa thu thì phá các cửa hiệu thô kệch bằng đá đi và mùa xuân thì xây lại như cũ.

Cậu chủ rất chú ý tận dụng sức lực của tôi cho xứng đáng với số tiền công năm rúp. Nếu cửa hiệu đang xây cần lát sàn, tôi phải đào toàn bộ bề mặt sàn xuống sâu một arshin và đổ đất đi. Bọn dân nghèo nhận làm việc này được trả một rúp, còn tôi không được gì cả. Nhưng vì bận làm việc ấy, tôi không có thì giờ theo dõi mấy tay thợ mộc; họ tháo ổ khóa, quả đấm cửa, ăn cắp đủ thứ lặt vặt.

Cả thợ lẫn thầu khoán đều cố tìm đủ mọi cách đánh lừa tôi để xoáy đồ. Họ làm việc đó một cách công khai. Mỗi khi tôi bắt được quả tang, họ không hề tức giận, chỉ ngạc nhiên:

- Anh có cố gắng đến đâu cũng chỉ được năm rúp thôi, có được hai mươi rúp đâu. Thật nực cười!

Tôi bảo với cậu chủ rằng cậu được lợi của tôi một rúp tiền công thì thường bị mất gấp mười, nhưng cậu nháy mắt và nói:

- Thôi được, cứ vờ vịt mãi!

Tôi biết cậu nghi ngờ tôi cũng tham dự vào việc ăn cắp, điều đó khiến tôi có ác cảm với cậu, nhưng tôi không tức giận. Thói đời thường vậy: Tất cả đều ăn cắp, ngay cả cậu chủ cũng thích lấy của người khác.

Sau hội chợ, cậu chủ đi xem xét các cửa hiệu mà cậu nhận sửa chữa, khi trông thấy một cái ấm samovar bị bỏ quên, bát, đĩa, một tấm thảm, một cái kéo, có khi cả một hòm đồ hoặc một gói hàng, cậu mỉm cười:

- Anh lập một bản danh sách các đồ đạc và đem thu tất cả vào kho.

Rồi từ nhà kho cậu chở các thứ ấy về nhà mình, bắt tôi sửa đi sửa lại nhiều lần bản kê khai đồ đạc…

Tôi không thích đồ đạc, tôi không muốn sở hữu một thứ gì cả, ngay cả sách vở cũng khiến tôi cảm thấy chật chội. Tôi chẳng có gì ngoài tập sách nhỏ của Beranger và tập thơ của Heine[180]. Tôi muốn có một tập thơ của Puskin, nhưng lão bán sách cũ duy nhất của thành phố, một lão già độc ác, đã đòi cuốn Puskin ấy với giá quá cao. Đồ đạc, thảm, gương… và tất cả những thứ chất đầy căn nhà cậu chủ, tôi đều không thích. Những hình thù vụng về, thô kệch, mùi sơn, mùi véc ni, tất cả đều khiến tôi thấy khó chịu. Nói chung tôi không thích các căn phòng của nhà chủ: Chúng giống những cái hòm chất đầy những thứ thừa thãi, không cần thiết. Tôi rất khó chịu khi thấy cậu chủ tha đồ đạc của người khác về, làm tăng dần xung quanh mình số lượng những món vô ích. Các phòng của Nữ hoàng Margot cũng chật chội, vậy mà đẹp đẽ biết bao.

Nói chung, tôi thấy cuộc sống rất rời rạc, vô nghĩa, có quá nhiều điều rõ thật là ngu xuẩn. Chúng tôi xây dựng các cửa hiệu, rồi đến mùa xuân, nước lũ tràn về, tất cả ngập trong nước, lở nền nhà, hỏng hết các cửa. Khi nước rút, xà nhà mục nát. Năm này qua năm khác, hàng chục năm nay, nước ngập hội chợ, làm hư hỏng các tòa nhà, đường lát. Nạn lụt hằng năm ấy gây nhiều thiệt hại lớn, và ai cũng biết trước rằng chuyện ấy sẽ còn tái diễn mãi.

Mỗi mùa xuân đến, băng trôi phá hỏng hàng chục sà lan và tàu nhỏ. Người ta than thở rồi lại đóng những con tàu mới, để rồi sang năm bị băng trôi phá vỡ. Tình trạng giậm chân tại chỗ ấy thật là vô nghĩa!

Tôi hỏi bác Osip về điều ấy, bác ngạc nhiên cười phá lên:

- Chà, anh như là con giang ấy, cái gì cũng muốn đớp! Chuyện ấy anh cần biết làm quái gì kia chứ? Nó có liên quan gì đến anh đâu?

Nhưng ngay sau đó bác lại nói, giọng nghiêm nghị hơn; tuy vậy trong cặp mắt xanh, trong và không có vẻ già nua chút nào vẫn ánh lên vẻ giễu cợt:

- Anh nhận xét xác đáng đấy! Cho rằng nó không liên can gì đến anh, nhưng có thể cũng có ích! Anh có còn chú ý thấy rằng…

Rồi bác kể bằng những lời lẽ hơi khô khan, thường chen vào các câu khôi hài, những so sánh đột ngột và đủ thứ chuyện tếu táo:

- Người ta thường than vãn: Ít đất quá! Đến mùa xuân, sông Volga bồi hai bờ sông, có thêm đất nhưng khiến lòng sông nông hơn. Lúc ấy họ phàn nàn: Sông Volga nông quá! Rồi thì dòng nước lũ và những trận mưa mùa hè gây xói lở, sông lại sâu và đất lại ít!

Bác không tỏ vẻ thương xót cũng không có ác ý, dường như bác tự hào về nhận xét xác đáng của mình. Mặc dù những lời của bác trùng với ý nghĩ của tôi, tôi vẫn không thích nghe.

- Anh có còn chú ý thấy rằng: Những đám cháy…

Tôi nhớ hình như không mùa hè nào phía bên kia sông Volga không có cháy rừng. Hằng năm, vào tháng Bảy, bầu trời bị che kín bởi một đám khói vàng đục; mặt trời đỏ tía như một con mắt đau nhìn xuống mặt đất.

- Rừng rú không có nghĩa lí gì cả. – Bác Osip nói. – Đó là tài sản của quý tộc hoặc của nhà nước; bọn bần nông làm gì có rừng. Thành phố có cháy cũng không quan trọng lắm; ở thành phố toàn là bọn giàu có, không nên thương chúng nó! Anh cứ thử đếm trong một mùa hè có biết bao nhiêu thôn xóm, làng mạc bị cháy! Có lẽ không dưới một trăm, đó mới thật là một sự tổn thất!

Bác khẽ cười:

- Có tài sản, nhưng không biết sử dụng! Cứ theo anh với tôi thì người ta làm việc không phải cho bản thân, không phải vì ruộng đất, mà cho lửa và nước!

- Tại sao bác lại cười?

- Tại sao à? Không thể dùng nước mắt dập tắt đám cháy được, và nước mắt cũng không làm dữ thêm dòng nước lũ!

Tôi biết lão già dễ thương này là người thông minh nhất trong số những người mà tôi gặp, nhưng tôi không biết được bác thích cái gì, ghét cái gì.

Tôi suy nghĩ về điều đó, còn bác tiếp tục nói, lời bác như những thanh đóm khô ném vào ngọn lửa trong lòng tôi:

- Anh xem đấy, người ta thường ít giữ sức, cả sức mình lẫn sức người khác. Ông chủ xài phí sức của anh như thế nào? Người ta cần rượu vodka để làm gì? Không thể nào tính nổi, cái đó vượt quá mọi trí tuệ uyên bác… Một căn nhà gỗ bị cháy thì có thể dựng lại một ngôi nhà khác, thế nhưng một bần nông tốt bị sa ngã một cách vô ích thì không gì có thể cứu vớt được! Ardalion hay Grisha chẳng hạn, hãy xem lão bần nông ấy sa ngã[181] như thế nào! Grisha tuy hơi ngốc nhưng là một bần nông thành tâm! Hắn bốc khói như một bó rơm vậy. Mấy mụ đàn bà xông vào xâu xé hắn tựa những con bọ xâu xé một xác chết trong rừng.

Tôi hỏi bác với vẻ tò mò, không tỏ ra tức giận:

- Bác kể với cậu chủ những ý nghĩ của cháu để làm gì?

Bác bình tĩnh giải thích, thậm chí có vẻ dịu dàng:

- Để ông ấy biết anh có những ý nghĩ tai hại như thế nào mà dạy bảo anh; ngoài ông chủ ra thì còn có ai dạy bảo anh nữa? Tôi nói với ông ấy không phải với ác ý gì, chỉ do tình thương của tôi với anh mà thôi. Anh không phải kẻ ngốc, nhưng đầu óc anh đã bị ma quỷ xáo trộn rồi. Anh có lấy cắp tôi cũng im lặng, có đi với gái tôi cũng im lặng, có uống rượu tôi cũng không nói ra! Nhưng những cái bướng bỉnh của anh thì bao giờ tôi cũng nói lại với ông chủ, anh nên biết thế…

- Tôi sẽ không nói chuyện gì với bác nữa!

Bác im lặng, lấy móng tay cậy nhựa cây khỏi lòng bàn tay rồi liếc nhìn tôi bằng cặp mắt dịu dàng:

- Nói dối, nhất định anh sẽ còn nói! Ngoài tôi ra còn ai để anh nói chuyện nữa? Không có ai cả…

Bỗng nhiên tôi cảm thấy bác Osip sạch sẽ và gọn gàng ấy giống anh thợ đốt lò Yaakov, mang vẻ bàng quan với mọi thứ trên đời.

Có lúc bác giống lão già thông thái Pyotr Vassiliep, có lúc giống bác đánh xe ngựa Pyotr, đôi lúc có nét giống ông ngoại tôi; nói chung, ở khía cạnh này hay khía cạnh khác, bác giống tất cả các ông già tôi đã từng gặp. Họ đều là những ông già rất thú vị, nhưng không thể sống với họ được, thật nặng nề và khó chịu. Như thể họ gặm mòn tình cảm của con người, những lời lẽ thông minh của họ bao bọc trái tim bằng một lớp gỉ màu hung đỏ. Bác Osip là người tốt ư? Không phải. Là người độc ác ư? Cũng không. Bác là một người thông minh, điều đó thì tôi rõ. Nhưng trí tuệ thông minh linh hoạt đáng kinh ngạc ấy đã làm tiêu tan sự hăng hái của tôi, cuối cùng tôi bắt đầu cảm thấy thù ghét bác.

Trong đầu tôi sôi sục những ý nghĩ đen tối: “Tất cả mọi người đều là người dưng nước lã, dù họ có những lời nói và nụ cười âu yếm với nhau. Trên trái đất này tất cả đều là người xa lạ. Hình như không có ai gắn bó với trái đất bằng một tình yêu vững chắc. Chỉ có một mình bà ngoại là yêu cuộc sống và yêu tất cả. Bà và Nữ hoàng Margot xinh đẹp.”

Đôi lúc những ý nghĩ ấy và những ý nghĩ tương tự quyện với nhau như một đám mây đen: Cuộc sống trở nên ngột ngạt và nặng nề, nhưng biết sống theo cách khác như thế nào, biết đi đâu? Ngoài bác Osip tôi không còn ai để nói chuyện, nên tôi càng nói chuyện với bác nhiều hơn.

Bác nghe những câu chuyện huyên thuyên đầy nhiệt tình của tôi với vẻ hứng thú rõ rệt; có khi bác hỏi lại tôi để rõ một điểm nào đó rồi điềm tĩnh đáp:

- Chim gõ kiến ngang bướng nhưng không đáng sợ, không ai sợ nó cả! Tôi thành thật khuyên anh: Anh nên đi tu đi. Anh sẽ sống ở đấy cho đến khi trưởng thành; anh sẽ dùng những câu chuyện hay để an ủi người đi lễ. Anh sẽ được yên ổn, mà nhà thờ cũng có lợi! Tôi thành thật khuyên anh đấy. Anh không có khả năng làm những việc của thiên hạ đâu, có phải không?

Tôi không muốn đi tu, nhưng tôi cảm thấy quả thật mình lạc lối và đang kẹt trong một vòng xoay luẩn quẩn khó hiểu. Thật chán nản. Cuộc sống với tôi giống như một khu rừng mùa thu: Nấm đã hết, không có gì để làm trong khu rừng trống rỗng cả, và tôi có cảm giác khu rừng trống rỗng đó đã trở nên quá quen thuộc với mình.

Tôi không uống rượu vodka, không đi lại với phụ nữ; ở tôi sách vở đã thay thế hai hình thức làm say đắm tâm hồn ấy. Nhưng tôi càng đọc nhiều sách thì càng cảm thấy khó sống. Tôi thấy mình sống một cách vu vơ và vô ích, giống như mọi người.

Tôi mới mười lăm tuổi, nhưng đôi lúc tôi có cảm giác như mình đã ở tuổi trung niên. Nội tâm tôi như đã phát triển quá sâu sắc, nặng nề thêm vì phải mang những trải nghiệm của tôi, những điều tôi đã đọc, đã băn khoăn suy nghĩ. Nhìn sâu vào nội tâm mình, tôi thấy nơi chứa đựng những ấn tượng cũng giống như một gian nhà kho chật chội chất hỗn độn những món đồ khác nhau. Tôi không đủ sức và cũng không đủ tài để sắp xếp chúng.

Tất cả những gánh nặng đó tuy rất nhiều nhưng không vững chắc, chúng đung đưa và làm tôi nghiêng ngả, giống như nước chứa lắc lư trong một cái bình đặt trên mặt phẳng gồ ghề.

Tôi ghét những chuyện bất hạnh, bệnh tật và mấy lời than vãn. Khi nhìn thấy những điều tàn nhẫn, máu me, các vụ ẩu đả, khi nghe những lời nhạo báng chửi rủa, tôi cảm thấy sự ghê tởm dâng lên trong cơ thể, và phút chốc nó làm tôi phát điên, rồi chính tôi cũng đánh nhau như một con thú dữ. Sau đấy tôi xấu hổ đến tột độ.

Đôi khi, với lòng hăm hở muốn giết chết kẻ chuyên hành hạ người khác, tôi xông vào đánh nhau một cách mù quáng, đến nỗi ngay cả bây giờ, nhớ lại những cơn tuyệt vọng do bất lực sinh ra ấy, tôi vẫn thấy xấu hổ và buồn rầu.

Trong tôi có hai con người: Một người sau khi đã biết quá nhiều điều ghê tởm và bẩn thỉu, trở nên sợ hãi cuộc sống, nản lòng bởi hiểu quá rõ các chuyện khủng khiếp xảy ra hằng ngày. Người ấy bắt đầu nhìn cuộc sống, nhìn mọi người với thái độ thiếu tin tưởng và hoài nghi, thương hại một cách bất lực cả bản thân và những người xung quanh. Con người ấy mơ ước một cuộc sống cô độc, yên tĩnh, chỉ có sách vở, không dính líu đến ai, mơ về một tu viện, một chòi canh trong rừng, một vọng gác đường sắt, mơ được đến Ba Tư, được đảm nhiệm cương vị một người gác đêm ở ngoại ô thành phố. Càng ít người càng tốt, càng tránh xa con người càng tốt…

Còn người kia được nuôi dưỡng bằng ý chí thiêng liêng của các cuốn sách hay và sâu sắc, mỗi khi cảm thấy sức mạnh của những điều khủng khiếp xảy ra hằng ngày kia có thể dễ dàng đè bẹp mình, làm nhơ bẩn trái tim mình[182], liền cố sức tự vệ, cắn chặt răng, siết chặt nắm đấm, luôn sẵn sàng xông vào bất kì cuộc tranh cãi và trận chiến đấu nào. Con người này giàu tình yêu thương, và giống như những nhân vật dũng cảm trong các cuốn tiểu thuyết Pháp, chỉ cần đến câu thứ ba là đã rút ngay gươm ra khỏi bao và sẵn sàng chiến đấu.

Thời kì này tôi có một kẻ thù rất thâm hiểm, đó là gã quét sân của một nhà thổ ở phố Malyy Pokrov. Tôi gặp gã vào một buổi sáng, trên đường ra hội chợ. Gã lôi một cô gái say mèm xuống khỏi cỗ xe bốn bánh đỗ cạnh cổng. Sau khi nắm lấy đôi chân đi bít tất nhăn nhúm của cô ả, lột trần cô ta đến thắt lưng, gã trâng tráo lôi cô, vừa cười hét vừa khạc nhổ vào người cô. Cô này bị đẩy khỏi xe, người rũ ra, mắt nhắm nghiền, miệng há hốc, hai cánh tay mềm nhũn như bị sai khớp quặt ra sau đầu, lưng, gáy và khuôn mặt tái xanh của cô va vào ghế trong khoang, vào bậc xe, cuối cùng cô ngã vật xuống đường, đầu vập vào đá.

Người đánh xe quất ngựa đi, còn gã quét sân thì túm lấy hai chân cô gái, bước giật lùi, kéo lê cô lên vỉa hè như kéo một xác chết. Tôi giận điên lên, chạy bổ tới, may là trong lúc chạy tôi đã vứt hoặc vô tình đánh rơi mất cái ống đo mực nước dài một sazhen, việc đó đã cứu gã quét sân và tôi khỏi chuyện rầy rà lớn. Sau khi thuận đà lao vào gã, tôi quật gã ngã xuống rồi nhảy lên bậc cửa, kéo chuông dồn dập; mấy người râu ria xồm xoàm chạy ra, tôi không sao giải thích được gì cho họ, đành nhặt cái ống đo mực nước lên và bỏ đi.

Tôi đuổi kịp người đánh xe ở con dốc, hắn nhìn tôi từ trên yên và nói với vẻ tán thưởng:

- Anh hạ hắn khéo đấy!

Tôi bực mình, hỏi tại sao hắn lại cho phép gã quét sân có những hành động thô bạo như vậy đối với người con gái, hắn bình tĩnh trả lời, vẻ kinh tởm:

- Tôi cần đếch gì! Bọn chủ trả tiền cho tôi khi họ bỏ cô ả lên xe; còn chuyện ai đánh ai thì liên can gì đến tôi?

- Thế lỡ họ đánh chết cô ta thì sao?

- Ừ, loại ấy rồi người ta cũng đánh chết thôi. – Người đánh xe nói, tựa như hắn đã nhiều lần thử làm cái trò đánh chết các cô gái say rượu.

Từ ngày đó, hầu như sáng nào tôi cũng gặp gã quét sân. Tôi bước ngoài phố, còn gã thì quét đường hoặc ngồi ở bậc tam cấp như có ý chờ đợi tôi. Khi tôi đến gần, gã đứng dậy, xắn tay áo lên và báo trước:

- Nào, bây giờ tao mới cho mày một trận!

Gã khoảng bốn chục tuổi, người nhỏ bé, chân khoằm, bụng to như có chửa; gã cười khẩy, nhìn tôi bằng cặp mắt long lanh. Tôi lấy làm lạ, cặp mắt của gã có vẻ lương thiện và vui vẻ. Gã không có tài đánh nhau, tay gã ngắn hơn tay tôi. Sau hai ba hiệp gã chịu thua, tựa lưng vào cổng, nói với vẻ ngạc nhiên:

- Thôi được, rồi có ngày biết tay, đồ chó!…

Những trận ẩu đả ấy làm tôi chán ngấy, có lần tôi bảo gã:

- Này, đồ ngốc, đừng có quấy rầy tao nữa!

- Thế sao mày lại đánh tao? – Gã hỏi với giọng trách móc.

Tôi cũng hỏi gã xem tại sao gã làm nhục cô gái một cách đểu cáng như vậy.

- Việc ấy can hệ gì đến mày? Mày thương nó à?

- Dĩ nhiên là thương.

Gã im lặng, chùi mép:

- Thế mày có thương con mèo không?

- Tất nhiên, cả mèo cũng thương…

Lúc ấy gã bảo:

- Mày là thằng ngốc, thằng bịp bợm! Liệu hồn đấy, tao sẽ cho mày biết tay…

Tôi không thể tránh con đường ấy được: Đó là con đường ngắn nhất. Nhưng tôi dậy sớm hơn để không đụng phải gã; tuy vậy vài ngày sau tôi lại gặp gã. Gã ngồi ở bậc tam cấp, vuốt ve con mèo màu tro nằm trên đầu gối. Khi tôi còn cách gã khoảng ba bước, gã nhổm dậy, nắm lấy chân con mèo và vung tay quật mạnh đầu nó vào cột; một tia máu âm ấm phọt cả vào người tôi. Sau đó, gã ném con mèo vào chân tôi, lùi vào sau ngưỡng cửa và hỏi:

- Thế nào?

Chà, còn biết làm thế nào nữa! Chúng tôi quần nhau trên sân như hai con chó đực. Sau đó tôi ngồi trên bãi cỏ ở bờ dốc, phát điên vì một nỗi buồn chán khôn tả, tôi mắm môi để khỏi gào thét. Giờ nhớ lại, tôi vẫn thấy run lên vì ghê tởm và ngạc nhiên là khi đó tại sao tôi đã không hóa điên, không giết người?

Tôi kể những chuyện ghê tởm này để làm gì? Để các bạn – những người có thiện tâm – biết rằng đó không phải là chuyện đã qua, không phải đã qua rồi đâu! Các bạn thích các chuyện khủng khiếp được khéo bịa đặt, thích mấy chuyện rùng rợn được kể một cách li kì; chuyện khủng khiếp hoang đường dễ khiến các bạn hồi hộp một cách thú vị. Nhưng tôi thì biết đến những chuyện khủng khiếp có thật, những chuyện rùng rợn xảy ra trong cuộc sống hằng ngày, và tôi có cái quyền không ai chối cãi được là làm cho các bạn xúc động một cách không lấy gì làm thú vị bằng những câu chuyện đó, để các bạn nhớ rằng người Nga chúng ta đã và đang sống như thế nào, sống trong một xã hội như thế nào.

Tất cả chúng ta đang sống một cuộc sống đê tiện và bẩn thỉu! Đó là sự thật!

Tôi rất yêu con người và không muốn làm ai đau khổ, nhưng không thể đa cảm, cũng không thể che giấu sự thật khủng khiếp bằng những lời dối trá bóng bẩy lòe loẹt được! Hãy sống đi, hãy sống đi! Cần phải hoà vào trong cuộc đời này tất cả những gì tốt đẹp và nhân đạo, từ trái tim và khối óc chúng ta.

… Đặc biệt, cách đối xử với phụ nữ đã khiến tôi rối trí. Sau khi đọc khá nhiều tiểu thuyết, tôi nhìn phụ nữ như nhìn điều tốt đẹp và quan trọng nhất trong cuộc sống. Người làm tôi tin tưởng vào điều đó là bà ngoại, là những câu chuyện của bà về Đức Mẹ, về Vassilissa Anh Minh, là chị thợ giặt bất hạnh Natalya, là hàng trăm hàng ngàn cặp mắt, nụ cười được phụ nữ điểm tô cho cuộc sống rất thiếu thốn niềm vui và tình yêu này.

Các cuốn sách của Turgenev thường ca ngợi phụ nữ; tôi đã dùng tất cả những hiểu biết tốt đẹp về phụ nữ để điểm tô cho hình tượng Nữ hoàng đáng ghi nhớ của tôi, về điểm này Heine và Turgenev đã đặc biệt cho tôi nhiều tư liệu quý báu.

Buổi chiều, khi từ hội chợ về nhà, tôi thường dừng lại trên đồi, chỗ chân tường điện Kremlin, ngắm mặt trời lặn bên kia dòng Volga. Những dòng sông lửa trôi lững lờ trên bầu trời, bên dưới, con sông đáng yêu nhuộm màu đỏ thắm và xanh biếc. Trong những phút ấy, tôi cảm thấy trái đất như một cái sà lan lớn chở tù nhân được một con tàu vô hình uể oải kéo như kéo một chú lợn, đi tới đâu không rõ.

Tôi thường suy nghĩ về sự bao la của trái đất, về những thành phố mà tôi biết qua sách vở, về các đất nước khác, nơi người ta sống theo những lối khác. Trong sách của các nhà văn nước ngoài, cuộc sống được miêu tả trong sạch, đáng yêu hơn và ít khó nhọc hơn cuộc sống chậm chạp và đơn điệu đang sôi sục quanh tôi. Điều đó làm dịu bớt những nỗi băn khoăn của tôi và gợi trong tôi ước mơ về khả năng xây dựng một cuộc sống khác.

Tôi luôn cảm thấy rằng nhất định tôi sẽ gặp một người thông minh và giản dị có thể dẫn tôi tới con đường thênh thang sáng sủa.

Một hôm tôi đang ngồi trên một cái ghế dài ở chân tường điện Kremlin, bỗng nhiên cậu Yaakov xuất hiện. Tôi không để ý cậu tới gần lúc nào và cũng không nhận ra cậu ngay. Mặc dù suốt mấy năm nay chúng tôi sống trong cùng một thành phố, họa hoằn lắm hai cậu cháu mới gặp nhau, những cuộc chạm trán tình cờ, thoáng qua.

- Chà, cháu lớn gớm rồi nhỉ? – Cậu hích tôi một cái và nói đùa.

Chúng tôi bắt đầu nói chuyện, khách sáo như những người dưng đã quen biết nhau từ lâu.

Nghe bà tôi kể cậu Yaakov trong mấy năm qua đã phá sản hoàn toàn, tiêu pha hết sạch, ăn chơi bừa bãi. Có lần cậu làm cai phó cho một trại giam, nhưng kết quả chẳng ra gì: Viên cai ngục bị ốm, cậu Yaakov liền tổ chức những bữa tiệc vui ở nhà riêng, mời các tù nhân tham dự. Việc này lọt ra ngoài, cậu bị cách chức và phải ra tòa vì bị kết tội đã thả tù nhân đi “dạo chơi” trong thành phố vào ban đêm. Không có ai trong đám tù nhân chạy trốn cả, nhưng một người bị bắt đúng lúc anh ta đang cố sức bóp cổ thầy phụ lễ. Cuộc điều tra kéo dài rất lâu, kết quả là cậu được xử trắng án, vì tù nhân và cai ngục đều bao che cho người cậu lương thiện của tôi. Bây giờ cậu thất nghiệp, sống nhờ vào đứa con trai hát mướn cho ban nhạc Rukavishnikov nổi tiếng thời bấy giờ. Cách cậu nói về đứa con trai thật lạ lùng.

- Thằng bé nhà cậu đứng đắn, chững chạc ra phết! Nó hát đơn ca. Hễ không kịp đặt samovar hay chải sạch quần áo cho nó là nó làm inh cả lên! Một thanh niên rất chỉnh tề và ưa sạch sẽ…

Cậu trông già đi nhiều, người nhem nhuốc, râu tóc rụng bớt, sức yếu hẳn. Mớ tóc quăn xinh đẹp của cậu lưa thưa, hai tay phồng lên, trên lòng trắng của đôi mắt và trong lớp da xanh nhợt của cặp má cạo nhẵn đã xuất hiện dày đặc những đường gân đỏ. Cậu bông đùa, nhưng tôi có cảm giác trong miệng cậu có cái gì làm vướng lưỡi, mặc dù răng cậu còn nguyên.

Tôi vui mừng vì có dịp nói chuyện với một người biết sống vui vẻ, từng trải và chắc là hiểu biết nhiều. Tôi còn nhớ rõ những bài ca sôi nổi, buồn cười của cậu, và trong trí nhớ của tôi vẫn vang vang những lời ông nói về cậu:

“Nó hát thì như vua David, nhưng làm thì lại như Absalom độc ác!”

Trên đại lộ có trồng hai hàng cây, một tốp người ăn mặc sạch sẽ đi ngang qua chỗ chúng tôi, đó là những quý bà giàu có, mấy viên công chức và vài sĩ quan. Cậu tôi mặc áo bành tô mùa thu cũ kĩ, đội mũ lưỡi trai nhàu nát, đi đôi ủng màu hung; cậu co mình lại, chắc là ngượng vì bộ quần áo. Chúng tôi tới một quán ăn ở khe Pochainski và ngồi sát cửa sổ trông ra chợ.

- Cậu có nhớ cậu đã hát:

Một gã ăn mày phơi đôi xà cạp,

Gã ăn mày khác xoáy mất lúc nào…

Vừa thốt ra những câu hát đó, tôi bỗng lần đầu tiên nhận thấy ý giễu cợt của nó và nhận ra người cậu vui tính ấy là một người độc ác và thông minh.

Nhưng sau khi rót đầy rượu vodka vào ly, cậu nói với vẻ đăm chiêu:

- Đúng, cậu đã sống rất thoải mái, rất kì quặc, nhưng vẫn còn ít! Bài hát không phải của cậu mà là của một thầy giáo trường dòng, tên ông ta là gì nhỉ? Ông ấy chết rồi, nên cậu cũng quên mất. Cậu với ông ấy sống như bạn bè. Ông ta chưa vợ, rượu chè be bét và đã chết cóng. Cậu nhớ có biết bao nhiêu người đã trở nên nghiện ngập, khó mà tính nổi! Cháu không uống chứ? Chớ uống, hãy khoan đã. Cháu có thường gặp ông không? Ông là một lão già kì cục. Hình như ông mất trí rồi thì phải.

Sau khi uống rượu, cậu tươi tỉnh hẳn lên, thân thể cũng ngay ngắn hơn, trông trẻ ra và hoạt bát hơn.

Tôi hỏi cậu về câu chuyện tù nhân.

- Cháu nghe đồn à? – Cậu hỏi dò, nhìn quanh rồi hạ thấp giọng. – Chuyện tù nhân ư? Cậu không phải là kẻ xử tội họ. Cậu thấy họ cũng là những người bình thường, nên cậu nói: Anh em ơi, tất cả hãy sống thật thân ái, thật vui vẻ đi! Có một bài hát thế này:

Số phận không cản trở được niềm vui,

Cứ mặc nó giam ta trong xiềng xích;

Chúng ta sẽ sống vui thỏa thích,

Chỉ kẻ ngu là sống khác mà thôi!

Cậu cười, nhìn qua cửa sổ xuống khe vực tối om, ở dưới đáy khe có các hiệu buôn nhỏ. Cậu chuốt ria mép cho ngay ngắn rồi tiếp tục:

- Tất nhiên họ rất vui sướng, vì ngồi mãi ở trại giam thì buồn lắm. Thế là điểm danh xong, họ đến ngay chỗ cậu uống rượu vodka, ăn đôi chút; có lúc cậu mời họ, có lúc họ mời cậu; ăn uống xong thì bắt đầu nhảy múa và hát bài “Nước Nga mẹ”! Cậu thích múa hát, trong đám họ có những người múa hát rất giỏi, thật là cừ khôi! Đôi khi có người bị gông, không nhảy múa được, cậu cho phép tháo gông ra, thật đấy! Tự họ khắc biết tháo, không cần nhờ thợ rèn, họ khéo tay đáo để, thật là cừ khôi! Còn chuyện thiên hạ đồn rằng cậu thả họ vào thành phố để cướp bóc thì thật là bậy bạ, thậm chí vẫn chưa có bằng cớ gì để xác minh chuyện đó…

Cậu im lặng, tiếp tục nhìn qua cửa sổ. Dưới khe, các thương gia đang khóa cửa hiệu, tiếng then cửa bằng sắt lách cách, tiếng bản lề gỉ ken két, tiếng mấy tấm ván rơi ầm vang. Sau đó cậu vui vẻ nháy mắt với tôi rồi tiếp tục nói nhỏ:

- Nói đúng ra thì một người quả là đêm đêm có lẻn đi, nhưng đó không phải là người bị cùm, chỉ là một tên kẻ cắp ở Nizhny Novgorod, hắn có ả tình nhân ở gần đây, ở Pechorka. Chuyện với thầy phụ lễ chỉ là do nhầm lẫn thôi: Thầy phụ lễ bị nhận lầm là con buôn. Việc đó xảy ra vào một đêm bão tuyết, mọi người đều mặc áo lông, trong lúc vội vã như vậy thì còn phân biệt làm sao được ai là con buôn, ai là thầy phụ lễ?

Tôi thấy chuyện đó thật là buồn cười. Chính cậu cũng cười và nói:

- Trời đất ơi! Chỉ có ma quỷ mới phân biệt được họ…

Nói xong, cậu đột nhiên nổi giận, gạt đĩa thức ăn, nhăn mặt với vẻ kinh tởm, châm thuốc lá và lẩm bẩm:

- Ăn cướp lẫn nhau, rồi lại bắt bớ lẫn nhau, tống vào các nhà tù, đày đi Siberia khổ sai, chà, tao thì có liên can gì đến việc ấy? Tao cóc cần dính dáng đến mọi chuyện… Tao có tâm hồn của tao!

Trước mắt tôi hiện lên hình ảnh anh thợ đốt lò mình đầy lông lá, anh cũng hay nói chữ “cóc cần”. Tên anh cũng là Yaakov.

- Cháu đang nghĩ gì đấy? – Cậu hỏi dịu dàng.

- Cậu có thương các tù nhân không?

- Trông họ rất dễ thương, có những chàng trai thật cừ khôi! Có lúc cậu nhìn họ và nghĩ bụng: Mình không đáng là gót giày của họ, thế mà lại làm người cai quản họ. Họ thật là thông minh và khéo léo…

Rượu và hồi ức gây nơi cậu cảm giác dễ chịu; cậu tì khuỷu tay lên bệ cửa sổ, khẽ ve vẩy bàn tay vàng khè đang cầm mẩu thuốc lá hút dở, nói với giọng sôi nổi:

- Có một người chột mắt làm thợ khắc và chữa đồng hồ, hắn bị bỏ tù vì tội làm tiền giả, hắn đã trốn rồi; giá cháu được nghe hắn nói nhỉ! Cứ như là lửa cháy ấy! Như một nghệ sĩ đang hát vậy! Hắn nói: “Các người hãy giải thích tại sao kho bạc có thể in tiền, còn tôi thì lại không thể? Hãy giải thích đi!” Không ai có thể giải thích cho hắn điều đó. Không ai cả, cậu cũng không thể giải thích nổi. Thế mà cậu lại là người cai quản hắn! Còn một người nữa, một gã ăn cắp nổi tiếng Moskva, tính tình rất trầm lặng, ăn mặc sang trọng, ưa sạch sẽ, nói năng lịch thiệp. Gã bảo: “Người ta làm việc đến mụ người, nhưng tôi không thích thế. Tôi đã trải qua cái cảnh đó: Làm việc, làm mãi, làm đến nỗi mệt phờ ra, trở thành một thằng ngốc, uống rượu mất hai kopek, đánh bạc thua mất hai kopek, cho đàn bà mất năm kopek để được vuốt ve, cuối cùng lại nghèo đói. Không, tôi không chơi cái trò ấy…”

Mặt cậu Yaakov đỏ tía lên[183] và bị kích động đến nỗi ngay cả đôi tai nhỏ của cậu cũng rung rung, cậu cúi xuống bàn và nói tiếp:

- Họ không phải là lũ ngốc đâu, anh bạn ạ, họ phê phán rất đúng. Tất cả những trò bỉ ổi ấy thật là quỷ quái! Đấy, cứ thử xem cậu đã sống như thế nào? Nhớ lại thật là xấu hổ, một cuộc sống tủn mủn, thầm lén. Đau khổ là của mình, còn vui vẻ là thứ xoáy được của người khác! Khi thì bố quát “đừng có hòng”, khi thì vợ la “không thể được”, đôi lúc chính cậu sợ đến không dám ngóc đầu lên. Thế là cậu bỏ qua mất cả cuộc đời, bây giờ già rồi thì đi làm đày tớ cho thằng con trai. Giấu giếm mà làm gì? Anh bạn ạ, cậu ngoan ngoãn hầu hạ nó, nhưng nó lại quát tháo cậu như là ông chủ ấy. Nó gọi cậu là “bố”, nhưng cậu lại nghe thành “đày tớ”! Cậu sinh ra để làm cái trò ấy ư? Loay hoay mãi trong cuộc sống để rồi đi hầu con ư? Cậu sống để làm gì chứ, cậu đã được hưởng bao nhiêu lạc thú rồi?

Tôi nghe cậu với vẻ lơ đễnh, tuy nhiên cũng đáp lại một cách miễn cưỡng và không hi vọng gì ở câu trả lời của cậu:

- Cháu cũng không biết nên sống như thế nào…

Cậu mỉm cười.

- Chà… Ai biết được điều đó? Cậu chưa thấy người nào biết được điều đó cả! Thế đấy, người ta sống và mỗi người đều quen với lối sống riêng của mình…

Đột nhiên cậu giận dữ:

- Trước đây ở chỗ cậu có một người vùng Orla phạm tội cưỡng bức, một gã quý tộc, một tay nhảy múa rất cừ, đôi lúc hắn khiến tất cả phì cười, hắn hát về Vanka:

Chú Vanka đi trong nghĩa địa,

Chuyện ấy thật là giản đơn!

Này, Vanka, hãy thò đầu ra tí,

Cho xa hơn khu nghĩa địa thôn làng…

Cậu nghĩ rằng cái đó hoàn toàn không đáng cười, mà là sự thật! Dù tránh thế nào thì cũng không thể vượt ra khỏi nghĩa địa được. Đã vậy thì với cậu thế nào cũng xong: Làm tù nhân hay cai ngục cũng thế thôi.

Nói mệt, cậu uống nốt chỗ rượu vodka, rồi giống như con chim, dùng một mắt nhòm vào cái bình trống rỗng, im lặng hút thêm một điếu thuốc và phả khói qua bộ ria mép.

“Dù có cố sức đến đâu, có hi vọng vào cái gì đi nữa thì cũng chẳng ai thoát khỏi chiếc quan tài và khu nghĩa địa đâu!” Bác thợ nề Pyotr, một người khác hẳn cậu Yaakov, cũng thường nói thế. Tôi biết bao nhiêu câu cách ngôn tương tự như vậy rồi!

Tôi không muốn hỏi thêm cậu điều gì nữa. Ở bên cậu, tôi cảm thấy buồn rầu và thương xót cậu. Tôi nhớ lại bài hát sôi nổi và tiếng đàn ghi ta nhen lên niềm vui trong một nỗi buồn dịu dàng. Tôi cũng không quên anh Tsiganok vui tính, và khi nhìn thân hình ủ rũ của cậu Yaakov, tôi chợt nghĩ:

“Liệu cậu còn nhớ vụ cây thánh giá đè chết anh Tsiganok không?”

Tôi không muốn hỏi cậu điều đó.

Tôi nhìn xuống dưới khe vực tràn đầy bóng tối ẩm ướt của tháng Tám. Từ dưới khe bốc lên mùi táo và mùi dưa bở. Con đường hẹp dẫn vào thành phố đã rực ánh đèn. Những cảnh đó thật quen thuộc. Vào giờ này chuyến tàu thủy đi Rybinsk và đi Perm sắp kéo còi…

- Đến giờ phải đi rồi! – Cậu nói.

Ra cửa quán ăn, bắt tay tôi, cậu khuyên với vẻ bông đùa:

- Cháu đừng buồn, hình như cháu buồn thì phải? Vui lên chứ! Cháu hãy còn trẻ. Cái chính cháu nên nhớ là “số phận không cản trở được niềm vui”! Thôi, tạm biệt, cậu phải đến nhà thờ đây!

Người cậu vui tính đi khuất, tôi càng thêm bối rối vì những lời của cậu.

Tôi ngược về hướng thành phố, ra phía cánh đồng. Trăng rằm tròn vành vạnh, trên trời, những đám mây nặng nề trôi, bóng đen của chúng xóa sạch bóng tôi trên mặt đất. Tôi đi tránh thành phố bằng đường ruộng, ra tới bờ dốc trên sông Volga rồi nằm dài trên bãi cỏ đầy bụi, nhìn rất lâu sang bên kia sông, sang cánh đồng cỏ và mảnh đất bất động ấy. Những bóng mây chậm chạp kéo qua sông Volga; sau khi hòa lẫn vào cánh đồng cỏ, chúng như được nước sông rửa sạch, sáng sủa hơn. Vạn vật như nửa thức nửa ngủ, như chìm nhòa, các chuyển động đều trông miễn cưỡng như thể do bức thiết chứ không phải vì lòng yêu tha thiết với sự hoạt động, với cuộc sống.

Tôi muốn đá tung cả trái đất và cả chính mình, để vạn vật – kể cả tôi – xoay như một cơn lốc mừng vui trong điệu múa tưng bừng của những người yêu nhau say đắm, những người yêu cuộc sống này – cuộc sống mở đầu cho một cuộc sống khác tươi đẹp, phấn khởi và ngay thật…

Tôi nghĩ bụng:

“Ta phải làm được một việc gì chứ, nếu không thì ta sẽ sống vô ích…”

Vào những ngày thu ảm đạm, khi không những không nhìn thấy, không cảm thấy, mà còn quên mất cả mặt trời, tôi thường bị lạc trong rừng. Tôi đi chệch đường, chẳng tìm được lối hẻm nào; cuối cùng, sau khi sục sạo đến mệt bã người, tôi cắn răng đi xuyên qua rừng rậm, giẫm trên những cành cây mục nát, những mô đất tròng trành của vũng lầy. Cuối cùng, tôi luôn tìm được đường đi.

Tôi quyết định cũng sẽ sống một cuộc đời như vậy.

Mùa thu năm ấy tôi đến Kazan với hi vọng có thể xin vào trường đại học.

Chú thích:

[180] Heinrich Heine (1797 – 1856), nhà thơ lớn người Đức.

[181] Nguyên văn: Bốc cháy.

[182] Nguyên văn: cắt đứt đầu mình, lấy gót chân bẩn thỉu giày xéo trái tim mình.

[183] Nguyên văn: Đỏ tận đến đỉnh đầu.

HẾT