Chương 19
Mùa đông, công việc ở hội chợ hầu như không có; để bù lại, ở nhà, cũng như trước đây, tôi đảm nhiệm vô số việc lặt vặt. Những việc này choán hết thời gian cả ngày, chỉ có buổi tối là rỗi rãi. Tôi đọc cho nhà chủ nghe các tiểu thuyết tôi không thích trong tờ Niva và Nhật báo Moskva. Ban đêm tôi đọc những cuốn sách hay và tập làm thơ.
Một hôm, khi cánh đàn bà đi lễ, cậu chủ vì mệt nên ở nhà, cậu hỏi tôi:
- Viktor cười anh, nói là hình như anh làm thơ, đúng không, Peskov? Anh thử đọc xem nào!
Thấy từ chối không tiện, tôi đành đọc mấy bài thơ. Những bài này rõ ràng không làm cậu vừa lòng, nhưng cậu vẫn khuyến khích:
- Cố làm đi! Biết đâu sẽ trở thành Puskin cũng nên, anh đã đọc Puskin chưa?
Có thể nào chôn cất gia thần,
Có thể nào gả chồng phù thủy?[174]
Trong thời đại ông ta, người ta còn tin vào gia thần, còn ông ta có lẽ không tin, chỉ giễu cợt thôi! Thật đấy, anh bạn ạ. – Cậu dài giọng, vẻ đăm chiêu. – Lẽ ra anh cần học, nhưng muộn mất rồi! Có trời biết được anh sẽ xoay xỏa ra sao… Anh phải giấu quyển vở kĩ hơn nữa, không có cánh đàn bà mà nhúng vào thì anh mất ăn mất ngủ đấy… Anh bạn ạ, đàn bà thích chọc tức người ta lắm…
Ít lâu nay cậu chủ trở nên lặng lẽ, hay trầm ngâm suy nghĩ và luôn nhìn quanh với vẻ lo ngại dè dặt, tiếng chuông reo cũng làm cậu hoảng sợ. Thỉnh thoảng cậu bỗng nổi nóng vì những chuyện nhỏ nhặt, quát tháo mọi người và bỏ đi, đến đêm khuya mới bò về, say mèm… Hình như trong đời cậu đã xảy ra một chuyện gì, ngoài cậu ra không ai biết, khiến cậu đau khổ, và giờ đây cậu sống với thái độ hoài nghi, miễn cưỡng, buông xuôi.
Ngày lễ, từ bữa trưa cho đến chín giờ, tôi đi chơi; tối tối tôi ngồi trong quán ăn ở phố Yamskaya. Lão chủ quán, to béo và lúc nào cũng đầm đìa mồ hôi, rất thích nghe hát. Những người hát ở hầu hết các nhà thờ biết thế và thường tụ tập ở chỗ lão. Họ hát xong, lão chủ mời họ uống vodka, bia, trà. Người hát toàn dân nát rượu, họ hát chẳng khoái hoạt, chẳng ra kiểu cách gì cả, chỉ cốt để được mời ăn, bài hát của họ thường là những bài thánh ca. Vì có nhiều khách nghiện rượu sùng đạo cho rằng quán ăn không phải là nơi để hát thánh ca nên có khi lão chủ mời họ tới phòng riêng; lúc ấy tôi chỉ còn nghe thấy tiếng hát qua khe cửa. Ở quán ăn, không hiếm bần nông quê mùa và thợ thủ công tới hát. Chính lão chủ quán đích thân đi khắp thành phố tìm kiếm người hát, lão hỏi dò những người tốt giọng trong số nông dân đi chợ phiên và mời họ tới nhà.
Người hát bao giờ cũng ngồi cạnh bàn bán thức ăn nguội, gần cái thùng gỗ nhỏ đựng rượu vodka.
Người hát hay hơn cả, người luôn có những bài tôi thích nhất, là anh thợ da Kleshtchkov. Anh người nhỏ bé gầy còm, nét mặt ủ rũ, mái tóc hung xõa thành từng món, cái mũi nhỏ ánh lên như mũi người chết, cặp mắt ti hí ngái ngủ không động đậy.
Có lúc anh nhắm mắt, tựa gáy vào đáy thùng, ưỡn ngực ra rồi bắt đầu hát rất nhanh, giọng khe khẽ nhưng cao vút không ai địch nổi:
Sương mù buông xuống cánh đồng khô,
Và che khuất những nẻo đường xa vắng…
Đến đây anh đứng dậy, dựa vào bàn bán thức ăn, ưỡn người ra sau, mặt ngẩng lên trần nhà, miệng hát rất ý vị:
Ôi, ta biết đi đâu, biết đi đâu,
Biết tìm đâu ra con đường rộng lớn?
Giọng anh nhỏ nhưng khỏe khoắn, giống như một sợi dây bằng bạc luồn qua tiếng ồn ào hỗn loạn, những lời than thở buồn bã, những tiếng rên rỉ và kêu gọi của những người trong quán ăn. Ngay cả mấy kẻ say rượu cũng trở nên nghiêm nghị lạ thường, họ im lặng đăm đăm ngắm cái bàn trước mặt. Và tim tôi như vỡ tan, tràn đầy cảm xúc mạnh mẽ do những điệu nhạc tuyệt diệu làm rung động tâm hồn gợi nên.
Trong quán ăn, không khí trở nên yên tĩnh như ở nhà thờ, và người hát tựa như một linh mục hiền từ. Người hát không truyền đạo mà thực sự hết lòng cầu nguyện cho loài người, thành thật nghĩ đến và nói lên thành tiếng tất cả nỗi thống khổ của kiếp người. Từ bốn phía, những gương mặt râu ria chăm chú nhìn về phía anh ta; trên những khuôn mặt cục cằn, những cặp mắt trẻ thơ chớp chớp với vẻ đăm chiêu; thỉnh thoảng có người thở dài, tiếng thở dài càng làm nổi bật sức mạnh chiến thắng của bài ca. Trong những giờ phút ấy, tôi thường có cảm giác là tất cả mọi người đều sống một cuộc sống giả tạo, mòn mỏi, và giờ đây họ mới được biết cuộc sống thực của con người.
Mụ lái buôn Luissukha béo ị – một mụ đàn bà đanh đá và đĩ thõa ra mặt – ngồi ở góc phòng; mụ giấu đầu vào đôi vai béo nung núc và khóc, lén dùng nước mắt rửa cặp mắt trơ tráo. Cạnh mụ, anh Mitropolski, một tay chuyên hát giọng nam trung lúc nào cũng ủ rũ, gục xuống bàn. Anh là một chàng trai lực lưỡng, tóc rậm rạp, giống như thầy phụ lễ bị tước chức, cặp mắt mở to trên bộ mặt say rượu. Anh nhìn ly rượu vodka đặt trước mặt, cầm lấy ly rượu đưa lên miệng rồi lại khẽ đặt xuống bàn, vẻ thận trọng; không hiểu vì sao anh không thể uống cạn.
Tất cả mọi người trong quán ăn im lặng như lắng nghe một cái gì đã bị lãng quên từ lâu, một cái gì thân thiết và gần gũi với họ.
Khi Kleshtchkov kết thúc bài hát và nhũn nhặn ngồi xuống ghế, lão chủ quán liền đưa cho anh một ly rượu, mỉm cười khoan khoái nói với anh:
- Chà, hay thật! Tuy anh hát ít ngâm nhiều, nhưng anh là một nghệ sĩ, đúng thế! Không ai có thể chối cãi được…
Kleshtchkov thong thả uống cạn cốc vodka, húng hắng thận trọng và khẽ nói:
- Hát thì ai có giọng cũng đều có thể hát được, còn cách biểu hiện tình cảm trong bài hát thì không ai bằng tôi.
- Này, đừng tự phụ thế.
- Kẻ nào không có gì để tự phụ thì kẻ ấy chẳng tự phụ đâu. – Anh vẫn nói với giọng khe khẽ, nhưng có vẻ ngang bướng hơn.
- Anh kiêu căng lắm, Kleshtchkov ạ! – Lão chủ quán thốt lên, vẻ bực bội.
- Tôi không kiêu căng quá mức đâu…
Trong góc phòng, anh chàng ủ rũ chuyên hát giọng trung gầm lên:
- Đồ sâu bọ, đồ nấm mốc, các người làm sao có thể hiểu nổi tiếng hát của vị thiên thần quái gở ấy?
Anh thường không tán thành ý kiến của tất cả mọi người, tranh cãi chống lại tất cả, tố cáo tất cả, vì thế mà hầu như ngày lễ nào anh cũng bị những người cùng nhóm hát và những ai có thể, những ai muốn, đánh đập một cách tàn nhẫn.
Lão chủ quán thích các bài hát của Kleshtchkov nhưng không thể chịu đựng nổi tính khí của anh ta; lão nói xấu anh trước mặt mọi người và công khai tìm cách mạt sát, chế giễu anh ta. Các khách quen của quán và chính Kleshtchkov cũng biết điều đó.
- Một tay hát hay, chỉ phải cái kiêu căng, cần phải sửa cho hắn. – Lão nói.
Một số khách cũng tán đồng:
- Đúng đấy, thật là một chàng trai kiêu căng!
- Có đếch gì mà kiêu căng kia chứ? Giọng là do Chúa ban cho, có phải tự hắn kiếm được đâu! Mà giọng thì có to gì cho cam? – Lão chủ quán khẳng định với vẻ ngang bướng.
Mấy người khách phụ họa:
- Đúng, vấn đề ở đây không phải là giọng, mà ở tài cán.
Có lần, khi Kleshtchkov hát mệt, đi rồi, lão chủ quán gợi ý cho mụ Luissukha:
- Marya Evdokimova, chị nên chiều chuộng Kleshtchkov, phung phí cho hắn một ít có tốt không? Đối với chị thì có đáng là bao?
- Giá tôi trẻ hơn một chút. – Mụ lái buôn vừa nói vừa mỉm cười.
Lão chủ quán kêu to, vẻ nồng nhiệt:
- Tụi trẻ thì biết cái cóc gì? Chị cứ thử làm đi! Tôi thích xem hắn quấn lấy chị như thế nào! Hãy làm cho hắn buồn phiền, như thế hắn càng hát hay, phải không? Cứ thử làm đi, Evdokimova, tôi sẽ cảm ơn chị đấy, được chứ?
Nhưng mụ không nhận lời. Người to béo, mắt nhìn xuống, mụ vân vê các tua khăn trên ngực, nói một cách uể oải và đơn điệu:
- Việc ấy phải người trẻ mới làm được. Giá tôi trẻ hơn thì chẳng do dự…
Hầu như bao giờ lão chủ quán cũng cố chuốc Kleshtchkov say, nhưng anh ta, sau khi hát hai ba bài, sau mỗi bài uống một cốc, liền lấy khăn đan quấn cổ kĩ lưỡng, đội thật chặt mũ lên mái đầu bù xù rồi ra về.
Lão chủ quán thường cố công tìm đối thủ để đọ với Kleshtchkov; anh thợ da hát xong một bài, lão khen ngợi và nói, vẻ hồi hộp:
- Nhân tiện, hôm nay có thêm một ca sĩ vừa mới đến! Nào, xin mời cứ việc biểu diễn!
Người mới đến đôi khi có giọng tốt, nhưng tôi không thấy có ai hát một cách giản dị và gợi cảm như anh thợ da bé nhỏ và xấu xí đó…
- Chà. – Lão chủ quán nói với vẻ tiếc rẻ. – Hay đấy! Cái chính là giọng thì được, còn tình cảm thì…
Những người nghe đều cười nhạo:
- Không, rõ ràng là không ai địch nổi anh thợ da đâu!
Kleshtchkov nhìn tất cả mọi người từ dưới cặp lông mày màu hung tách thành từng dúm, điềm tĩnh và lịch thiệp nói với lão chủ quán:
- Ông chỉ mất thì giờ thôi. Ông không thể tìm được người nào địch nổi tôi đâu, tài năng thiên bẩm của tôi là nhờ Chúa ban cho…
- Tất cả chúng ta đều nhờ Chúa mà có cả!
- Ông cứ bỏ tiền ra mua rượu đến hết nghiệp cũng vẫn không tìm được ai đâu.
Lão chủ quán đỏ mặt, lẩm bẩm:
- Để xem, để xem…
Kleshtchkov kiên tâm nói cho lão rõ:
- Tôi phải nói thêm với ông rằng ca hát không giống như chọi gà đâu…
- Tôi biết rồi! Sao anh nói dai thế?
- Tôi không nói dai, chỉ muốn giảng giải cho ông rõ: Nếu hát là một trò đùa thì đó chỉ là việc của quỷ sứ thôi!
- Thôi được! Tốt hơn cả hãy hát nữa đi…
- Hát thì lúc nào tôi cũng có thể hát được, thậm chí ngay cả trong giấc mơ. – Kleshtchkov tán thành, khẽ ho một tiếng và bắt đầu hát.
Thế là tất cả những chuyện nhỏ mọn, tất cả những lời lẽ và ý định thấp hèn, tất cả những cái tầm thường, những điều dung tục trong quán ăn đều tiêu tan thành mây khói; một cuộc sống khác tràn đến với tất cả mọi người – mơ màng, trong sạch, đầy tình yêu và nỗi buồn.
Tôi thèm muốn được như con người ấy, thèm muốn tài năng, uy lực của anh: Anh sử dụng uy lực ấy một cách thật kì diệu! Tôi muốn làm quen với anh thợ da, muốn trò chuyện cùng anh thật lâu, nhưng tôi không dám đến gần anh. Kleshtchkov nhìn tất cả bằng cặp mắt mờ đục lạ kì, dường như không thấy ai trước mặt. Và ở anh như có cái gì khiến tôi khó chịu, khiến tôi không thể mến anh được; mà tôi thì muốn yêu mến con người ấy không chỉ riêng khi anh hát. Tôi khó chịu nhất khi thấy anh kéo cái mũ cát két xuống tận tai kiểu ông cụ và quấn cái khăn đan đỏ vào cổ như khoe với mọi người. Anh nói về cái khăn đó như sau:
- Cái khăn này là do một cô gái đáng yêu đan tặng tôi, một cô gái…
Khi không hát, anh thường làm ra vẻ quan trọng, lấy ngón tay xoa cái mũi lạnh cóng như xác chết, và nếu có ai hỏi thì chỉ trả lời nhát gừng, miễn cưỡng. Có lần tôi ngồi cạnh anh và hỏi anh một câu gì đó, anh không nhìn tôi, đáp:
- Thằng ranh, cút đi!
Tôi thích anh Mitropolski hát giọng trung hơn nhiều: Khi đi đến quán ăn, anh này thường lại một góc, dáng lặc lè như người mang vác nặng, lấy chân kéo ghế rồi ngồi xuống, chống khuỷu lên bàn, bàn tay đỡ lấy cái đầu to xù. Sau khi im lặng uống hai ba ly rượu, anh đằng hắng mạnh một tiếng. Mọi người giật mình, quay sang nhìn anh, còn anh thì chống cằm vào lòng bàn tay, nhìn lại mọi người với vẻ thách thức. Mớ tóc bù xù giống như cái bờm ngựa xõa xuống khuôn mặt nâu xám sưng phù.
- Ngó cái gì? Thấy cái gì nào? – Đột nhiên anh hỏi với giọng khàn khàn.
Đôi khi người ta đáp:
- Thấy cái thằng người rừng!
Có những tối anh chỉ im lặng uống rượu rồi lẳng lặng ra về, chân lê giày vẻ nặng nề, nhưng cũng có vài lần tôi nghe thấy anh nhái giọng nhà tiên tri, lên án:
- Tôi là bầy tôi liêm chính của Chúa, tôi tố cáo các người như Isaiah[175]! Tai họa cho thành phố Ariel, vì ở đấy những kẻ xấu bụng, những kẻ bịp bợm và bè lũ ti tiện sống trong lớp bùn nhơ của các dục vọng đê hèn! Tai họa cho những con đường thủy bộ, bởi chúng chở đi khắp nơi những kẻ đê mạt, nghĩa là các người – những tên nghiện rượu, lũ phàm ăn, lớp cặn bã của thế giới – những kẻ đáng nguyền rủa, các người đông vô kể, và ngay cả đất mẹ cũng sẽ không dung chứa các người trong lòng đâu!
Giọng anh rít lên đến nỗi kính cửa sổ cũng rung lên thành tiếng. Những người nghe rất thích, họ khen “nhà tiên tri”:
- Cái con sói xồm kia, nó sủa mới dữ chứ!
Chỉ cần mời anh ăn là có thể làm quen với anh rất dễ dàng; anh yêu cầu một bình rượu vodka và một suất gan bò rắc ớt – món ăn mà anh rất ưa thích, nó đốt cháy miệng anh và tất cả ruột gan. Khi tôi hỏi anh cần phải đọc những cuốn sách nào, anh trả lời bằng một câu hỏi với vẻ hung dữ và không nể nang:
- Đọc để làm gì?
Thấy tôi có vẻ bối rối, anh lại nói, giọng ôn tồn hơn:
- Đã đọc Ecclesiastes[176] chưa?
- Đọc rồi.
- Thế thì đọc lại! Ngoài ra không cần đọc gì hơn, trong đấy tập trung tất cả trí tuệ của thế giới, chỉ có lũ cừu ngốc nghếch là không hiểu điều đó thôi, tức là chẳng ai hiểu đâu… Cậu là ai, đi hát à?
- Không.
- Tại sao? Cần phải hát. Đó là việc vô nghĩa nhất.
Ở bàn bên cạnh có người hỏi:
- Nhưng chính cậu cũng hát cơ mà?
- Phải, tôi là kẻ vô công rồi nghề! Rồi sao nữa?
- Không sao cả.
- Chẳng mới lạ gì! Tất cả đều biết rõ rằng trong đầu óc cậu chẳng có gì cả. Mà cũng không bao giờ có được cái gì đâu! Amen!
Anh ăn nói với tất cả mọi người bằng giọng ấy, tất nhiên với tôi cũng vậy, mặc dù sau hai lần mời ăn, anh bắt đầu cư xử với tôi có vẻ dịu dàng hơn, thậm chí có lần anh nói với vẻ ngạc nhiên:
- Tớ nhìn cậu mà không hiểu: Cậu là cái gì, cậu là ai và cậu sống để làm gì? Nhưng thôi… Mặc xác cậu!
Thái độ của anh đối với Kleshtchkov thật khó hiểu: Anh lắng nghe anh ta hát với vẻ rất hứng thú, thậm chí có lúc còn mỉm cười âu yếm; nhưng anh không làm quen với Kleshtchkov và nói về anh ta với thái độ thô lỗ và khinh bỉ:
- Hắn là thằng ngốc! Hắn biết cách thở, hắn hiểu những lời hắn hát, nhưng dầu sao hắn vẫn là con lừa!
- Tại sao?
- Bản chất hắn là như vậy.
Tôi muốn nói chuyện với anh lúc anh không say rượu, nhưng lúc không say anh chỉ kêu rống lên, nhìn mọi người bằng cặp mắt lờ đờ và buồn rầu. Nghe nói con người suốt đời say rượu ấy từng học ở trường đại học Kazan và lẽ ra đã trở thành giám mục – tôi không tin điều đó. Nhưng có lần, khi kể cho anh nghe về bản thân, tôi nhắc đến giáo sĩ Chrisanthe, anh gật đầu và nói:
- Chrisanthe? Tớ biết. Đó là thầy dạy của tớ và là một người tốt. Ông ta ở viện đại học Kazan, tớ còn nhớ! Chrisanthe có nghĩa là màu hoàng kim, theo đúng nghĩa như lời của Pavm Beruinda[177]. Đúng, ông ta có màu hoàng kim thật. Chrisanthe!
- Thế Pavm Beruinda là ai? – Tôi hỏi.
Mitropolski chỉ trả lời vắn tắt:
- Không phải việc của cậu.
Về nhà, tôi ghi vào quyển vở của tôi: “Nhất định phải đọc Pavm Beruinda”; hình như là việc đọc Beruinda sẽ giúp tôi tìm được câu trả lời cho nhiều câu hỏi đã giày vò tôi.
Mitropolski rất thích dùng những chữ kì quái, những tên bí ẩn; điều đó khiến tôi rất bực mình.
- Cuộc sống không phải là “aniso”! – Anh nói.
Tôi hỏi:
- Aniso là ai?
- Có ích. – Anh đáp.
Thắc mắc của tôi càng làm anh thích thú.
Những tiếng kì lạ này và việc anh học ở viện đại học khiến tôi cho rằng anh biết nhiều, và tôi bực mình vì anh không nói gì cả, mà có nói thì cũng toàn những lời khó hiểu. Có thể là tôi không biết cách hỏi anh chăng?
Dù sao anh cũng để lại trong tâm hồn tôi một điều gì đó; tôi thích anh trong lúc say rượu đã nói những lời tố cáo gan dạ, nấp dưới danh nhà tiên tri Isaiah.
- Ôi, trên trái đất này toàn đồ cặn bã và hôi thối! – Anh rống lên. – Trong số các người, có những đứa rất tồi lại có danh vọng, còn những người rất tốt thì bị xua đuổi; rồi cái ngày khủng khiếp sẽ đến, lúc ấy các người sẽ hối hận về chuyện đó, nhưng đã muộn rồi, muộn rồi!
Khi nghe anh rống như vậy, tôi nhớ đến bác Tốt Lắm, nhớ đến chị thợ giặt Natalya sa ngã một cách tội nghiệp và dễ dàng, nhớ đến Nữ hoàng Margot phải sống giữa những đơm đặt bỉ ổi; không thiếu chuyện anh gợi tôi nhớ lại…
Tình bạn ngắn ngủi của tôi với con người ấy kết thúc một cách kì lạ.
Một sáng mùa xuân, tôi gặp anh ngoài cánh đồng gần doanh trại, dáng anh bước đi như con lạc đà, đầu lắc lư, người sưng phù, vẻ cô độc.
- Đi chơi à? – Anh hỏi, giọng khàn khàn. – Chúng ta cùng đi nhé. Tớ cũng đi dạo. Anh bạn ạ, tớ bị ốm, chà…
Chúng tôi im lặng đi được mấy bước thì bỗng nom thấy một bóng người dưới hố cạnh một lều vải; hắn ngồi dưới đáy hố, người vẹo sang một bên, vai tựa vào thành hố, một bên áo bành tô xệch lên quá mang tai, hệt như hắn muốn cởi ra nhưng không được.
- Thằng cha say rượu. – Mitropolski nói và dừng lại.
Nhưng gần cánh tay người này, trên đám cỏ non, có một khẩu súng lục lớn; cạnh đó là một chiếc mũ lưỡi trai, và sát ngay chiếc mũ, một chai rượu vodka đang uống dở, cổ chai rỗng lấp trong đám cỏ xanh. Khuôn mặt người đó lẩn dưới áo bành tô, dường như hổ thẹn.
Chúng tôi đứng im lặng một lát, sau đó Mitropolski dạng chân ra và nói:
- Tự sát.
Tôi hiểu ngay rằng người kia không say rượu, anh ta đã chết rồi, nhưng điều đó đột ngột đến nỗi khó mà tin được. Tôi nhớ lúc ấy tôi không cảm thấy sợ hãi và thương xót khi nhìn cái sọ người to lớn, nhẵn nhụi thò ra từ dưới cái áo bành tô, và cả cái tai xanh lè nữa. Tôi không tin rằng ai đó lại có thể tự sát trong một ngày xuân dịu dàng như vậy.
Mitropolski lấy mu bàn tay xoa mạnh lên đôi má chưa cạo như thể bị lạnh, nói giọng khàn khàn:
- Một người đứng tuổi. Chắc là vợ bỏ đi, hoặc hắn đã ăn tiêu phung phí tiền của người khác…
Anh cử tôi về thành phố tìm cảnh sát, còn anh thì ngồi ở miệng hố, hai chân buông thõng xuống, xuýt xoa co ro trong cái áo bành tô cũ nát. Sau khi báo tin cho cảnh sát về vụ tự sát, tôi lập tức chạy trở lại, nhưng trong thời gian đó Mitropolski đã uống nốt chỗ rượu vodka của người chết, và khi đón tôi, anh giơ cái chai rỗng vẫy vẫy.
- Đây, chính cái này đã giết hại hắn! – Anh rống lên, đập tan cái chai với vẻ tức giận.
Viên cảnh sát chạy theo sau tôi, liếc nhìn xuống hố, bỏ mũ ra, do dự làm dấu thánh rồi hỏi Mitropolski:
- Anh là ai?
- Không phải việc của anh…
Viên cảnh sát suy nghĩ một lát rồi hỏi với thái độ lịch thiệp hơn:
- Thế là thế nào? Ở đây có người chết, mà anh ngồi bên cạnh uống rượu à?
- Tôi đã uống rượu hai mươi năm nay rồi! – Mitropolski vỗ ngực kiêu hãnh.
Tôi tin rằng nhất định anh sẽ bị bắt vì tội uống trộm rượu của người chết. Một đám người từ thành phố chạy tới; viên cảnh sát trưởng hà khắc đi xe ngựa đến, nhảy xuống hố, khẽ nhấc cái áo bành tô của người chết lên và nhìn vào mặt người đó.
- Ai là người đầu tiên trông thấy?
- Tôi. – Mitropolski đáp.
Viên cảnh sát trưởng nhìn anh và kéo dài giọng như báo trước điều chẳng lành:
- A… a, xin chào ngài!
Đám đông hiếu kì tụ tập quanh hiện trường lên tới mười lăm người; họ thở hổn hển, nhốn nháo, nhòm xuống hố và chạy quanh miệng hố. Có người kêu lên:
- Đó là một công chức ở phố chúng tôi, tôi biết ông ta!
Mitropolski lảo đảo đứng trước mặt viên cảnh sát trưởng, anh bỏ mũ cát két xuống và vừa tranh cãi với hắn vừa phát ra những tiếng khàn khàn, không rõ ràng; sau đó viên cảnh sát trưởng hích vào ngực anh, anh lảo đảo, ngồi phịch xuống. Viên cảnh sát từ từ rút sợi dây từ trong túi, trói hai cánh tay ngoan ngoãn mà Mitropolski vẫn quen khoanh sau lưng. Viên cảnh sát trưởng tức giận quát tháo đám người đang bu quanh:
- Cút đi! Lũ đốn mạt…
Lại thêm một viên cảnh sát già, mắt đỏ lèm nhèm và mồm há hốc thở hồng hộc vì vội chạy đến; lão cầm một đầu dây và dẫn anh về thành phố.
Tôi cũng rời khỏi cánh đồng, lòng nặng trĩu, trong trí óc ngân lên những lời quở như một tiếng vang không rõ ràng: “Tai họa cho thành phố Ariel!…”
Trước mắt tôi hiện ra một cảnh tượng nặng nề: Viên cảnh sát từ từ móc trong túi áo ba đờ xuy[178] ra một sợi dây, “nhà tiên tri dữ dội” ngoan ngoãn khoành hai cánh tay đỏ tía đầy lông lá ra sau lưng và bắt chéo hai bàn tay lại một cách khéo léo…
Ít lâu sau tôi được biết “nhà tiên tri” ấy đã bị trục xuất khỏi thành phố. Sau đó anh Kleshtchkov cũng biến mất; anh lấy được một bà vợ giàu có và dọn về huyện ở, mở một xưởng làm đồ da.
… Tôi hết sức tán dương các bài hát của anh thợ da với cậu chủ, đến nỗi có lần cậu bảo:
- Cần phải nghe anh ta hát mới được…
Thế là cậu đã trố mắt ngồi sau chiếc bàn con, đối diện với tôi, nhướn cặp lông mày lên, vẻ kinh ngạc.
Trên đường tới quán ăn, cậu cười nhạo, và những phút đầu tiên vào quán cậu vẫn chế giễu tôi, chế giễu đám người nghe và thứ mùi ngột ngạt trong quán. Khi anh thợ da bắt đầu hát, cậu mỉm cười vẻ châm biếm và rót bia vào cốc; nhưng rót được nửa cốc thì cậu ngừng lại:
- Ồ… Đồ quỷ quái!
Tay cậu run run, cậu khẽ đặt chai bia xuống và chăm chú nghe:
- Chà, anh bạn ạ… – Khi Kleshtchkov hát xong, cậu thở dài. – Quả thật anh ta hát khá lắm… Mẹ kiếp! Thậm chí mình phát nóng lên.
Anh thợ da lại cất tiếng hát, đầu ngẩng, mắt nhìn lên trần nhà:
Cô gái trẻ một làng giàu có,
Trên đường đi băng giữa cánh đồng…
- Hát hay thật… – Cậu chủ nói khẽ, gật gật và mỉm cười.
Kleshtchkov ngân lên như tiếng sáo:
Cô gái đẹp xinh mới trả lời:
- Tôi mồ côi, tôi chẳng còn ai…
- Hay tuyệt. – Cậu chủ thì thầm, nhấp nháy cặp mắt đỏ ngầu. – Chà, quỷ quái… Hay thật!
Tôi nhìn cậu và rất hài lòng; những lời ca nức nở át cả tiếng ồn ào của quán ăn vang lên ngày càng mạnh, càng hay, càng tâm tình:
Quê làng tôi sao cô đơn quá!
Có ai mời tôi dự tối vui?
Tôi nghèo khổ, áo xiêm đâu có,
Đâu xứng đôi với các chàng trai!
Một người góa hỏi tôi làm vợ,
Nhưng tôi đâu khuất phục mệnh trời!
Cậu chủ khóc một cách ngon lành; cậu cúi đầu, khịt khịt cái mũi khoằm, nước mắt lã chã trên hai đầu gối.
Sau bài hát thứ ba, cậu nói, giọng cảm động và hình như có vẻ ngập ngừng:
- Tôi không thể ngồi đây được nữa, tôi ngạt thở, nặng mùi quá, quỷ quái thật… về nhà đi!
Nhưng ra ngoài phố, cậu lại đề nghị:
- Peskov, đi tới nhà hàng nào ăn lót dạ cái đã… Tôi không muốn về nhà!
Không mặc cả, cậu ngồi luôn lên một chiếc xe và suốt dọc đường cậu im lặng không nói không rằng. Tới nhà hàng, cậu chọn cái bàn con ở góc và lập tức nói khe khẽ, mắt nhìn quanh, vẻ buồn buồn, tức giận:
- Con dê ấy làm cho lòng tôi nhức nhối, khiến tôi thấy buồn bã vô cùng… Không, anh có đọc sách, có suy nghĩ, anh hãy nói đi, cuộc sống quỷ quái này là thế nào? Sống mãi, sống hoài, bốn mươi tuổi đã qua rồi, có vợ có con mà vẫn không có ai để trò chuyện. Có những lần tôi muốn thổ lộ tâm tình, muốn nói ra hết, nhưng không biết nói với ai! Nói với vợ ư, cô ta không hiểu tôi… Cô ta là cái gì? Công việc của cô ta là con cái… Là việc nội trợ! Cô ta không hiểu được tôi. Như người ta thường nói, vợ chỉ là người bạn cho đến khi sinh đứa con đầu lòng thôi… Nhà tôi, nói chung… như anh thấy đấy… chỉ là một xác thịt vô tri vô giác, có biết đâu đến chuyện thơ ca, tâm tình[179], mẹ kiếp! Buồn thật, anh bạn ạ…
Cậu hối hả uống cạn một cốc bia lạnh đắng, im lặng một lát, vuốt mái tóc dài ra sau rồi tiếp:
- Nói chung, anh bạn ạ, con người ta là đồ đê tiện! Anh thường trò chuyện với các bần nông về chuyện này chuyện nọ… Tôi hiểu lắm, rất nhiều cái sai trái, nhiều chuyện đểu giả, đúng như vậy đấy, anh bạn ạ… Toàn lũ kẻ cắp cả! Thế anh tưởng họ hiểu lời nói của anh đấy phỏng? Hiểu cóc gì! Thật đấy! Bọn họ, Pyotr, Osip, toàn là bọn kẻ cắp cả! Họ kể với tôi mọi chuyện, từ chuyện anh nói về tôi ra sao đến đủ chuyện khác… Thế nào, anh bạn?
Tôi ngẩn người, yên lặng.
- Chuyện đời như vậy đấy! – Cậu chủ vừa nói vừa mỉm cười. – Anh định đi Ba Tư là đúng, ở đấy ngôn ngữ bất đồng, chẳng ai hiểu ai! Còn nói bằng tiếng mẹ đẻ thì rặt những chuyện đểu giả thôi!
- Bác Osip kể về cháu à? – Tôi hỏi.
- Phải! Anh tưởng thế nào? Hắn là tay ba hoa, nói nhiều hơn tất cả mọi người. Anh bạn ạ, hắn giảo quyệt lắm… Không, Peskov ạ, lời nói không ăn thua gì đâu! Còn nói thật ư? Nói thật để làm gì? Việc nói thật cũng giống như tuyết mùa thu vậy, rơi xuống bùn rồi tan ra ngay. Bùn lại càng nhiều thêm. Tốt hơn hết là anh hãy im lặng…
Cậu uống hết cốc bia này đến cốc bia khác, nhưng vẫn không say, cậu nói mỗi lúc một nhanh và với vẻ tức giận hơn:
- Tục ngữ có câu: “Lời nói không phải là dao trổ, im lặng mới là vàng”. Ôi, anh bạn ạ, buồn quá, buồn quá… Hắn ta hát rất đúng: “Quê làng tôi, sao cô đơn quá”, cảnh côi cút của con người…
Cậu nhìn quanh một lượt rồi hạ giọng:
- Tôi có tìm được… một người bạn gái chân thành, một người đàn bà góa ở gần đây: Chồng cô bị kết án đi Siberia vì tội làm tiền giả, bây giờ hắn đang ngồi tù ở đấy. Tôi làm quen với cô… Cô nghèo lắm, một xu dính túi cũng không có. Cô ấy… Anh biết không… Mụ mối đã giới thiệu tôi với cô… Cô là một người thật đáng yêu! Một cô gái đẹp, trẻ… Thật là tuyệt diệu! Gặp nhau đôi lần. Sau đó tôi nói với cô: “Thế là thế nào, chồng cô là một kẻ gian, chính cô cũng sống không được ngay thật, vậy cô đi theo hắn tới Siberia để làm gì kia chứ?” Nhưng anh xem, cô vẫn một lòng một dạ theo hắn, đúng thế đấy… Cô nói với tôi thế này: “Dù anh ấy thế nào chăng nữa, em vẫn cứ yêu anh ấy, đối với em, anh ấy là người tốt! Có thể vì em mà anh ấy đã phạm tội! Em dan díu với anh cũng vì anh ấy, anh ấy cần phải có tiền, anh ấy là một quý tộc, và đã quen sống sung sướng. Nếu chỉ có một mình em thì có lẽ em sẽ sống ngay thật. Anh là một người tốt, em cũng rất mến anh, nhưng chỉ mong anh đừng nói với em về chuyện đó…” Mẹ kiếp! Tôi đưa cho cô tất cả những gì có trong người – tám mươi rúp cùng mấy đồng tiền lẻ – và nói: “Xin cô tha lỗi cho… Tôi không thể nào gặp cô được nữa, không thể nào!” Thế là tôi bỏ đi…
Cậu im lặng, ngà ngà say, người hơi ngả xuống. Một lát, cậu lắp bắp:
- Tôi đã đến với cô ấy sáu lần… Anh không thể hiểu nổi đâu! Có lẽ còn đến sáu lần nữa tôi mò đến gần nhà cô… nhưng không dám vào… không thể vào được! Bây giờ cô ấy đã đi rồi…
Cậu đặt tay lên bàn, ngón tay động đậy, nói khẽ:
- Miễn là tôi không gặp lại cô ta… Mong Chúa giúp cho tôi… Nếu không thì mọi việc sẽ đi đứt! Thôi, về nhà… về đi thôi!
Chúng tôi ra ngoài, cậu bước lảo đảo, miệng càu nhàu:
- Thế đấy, anh bạn ạ…
Câu chuyện cậu kể không khiến tôi ngạc nhiên: Từ lâu tôi đã linh cảm thấy nhất định đã có chuyện gì khác thường xảy ra với cậu.
Nhưng tôi thấy rất nặng nề sau khi nghe những điều cậu nói về cuộc sống, nhất là những lời của cậu về bác Osip.
Chú thích:
173)Trích trong bài thơ Lũ quỷ của A. X. Puskin.
174) Theo truyền thuyết trong Kinh thánh, Isaiah là nhà tiên tri kịch liệt lên án bọn vua chúa.
175) Một trong những cuốn sách được đưa vào Kinh thánh.
176) Một giáo sĩ uyên bác của thế kỉ XVII đã biên soạn cuốn từ điển tên riêng.
177) Áo choàng (pardessus – tiếng Pháp).
178) Nguyên văn: Chẳng biết thổi sáo cũng không biết nhảy múa.