1. NGƯỜI THỨC TỈNH Chương 1
Anh sẽ thấy, không hoàn toàn như anh mong đợi đâu.
Công chứng viên giải thích rằng tòa nhà được xếp hạng di tích lịch sử và nhiều nhà hiền triết thời Phục hưng đã từng sống ở đây, nhưng ông không nhớ là những ai.
Họ xuống cầu thang, bước vào một hành lang tối om nơi công chứng viên dò dẫm hồi lâu, uổng công bật một cái nút trước khi thở dài:
- Ái chà! Nó không chạy nữa.
Họ tiến trong bóng tối, lộp cộp lần theo các bức tường. Khi cuối cùng công chứng viên tìm thấy cái cửa, mở nó và nhấn, lần này thì thành công, trúng cái công tắc, ông thấy khách hàng của mình mặt mày biến sắc.
- Không ổn à, ông Wells?
- Một chứng sợ thôi. Không sao đâu.
- Sợ bóng tối?
- Vâng. Nhưng đã khá hơn rồi.
Họ xem xét mọi ngóc ngách. Đó là tầng hầm rộng hai trăm mét vuông. Dù nó chỉ mở ra phía ngoài bằng vài ô cửa tầng hầm hiếm hoi, bé xíu và sát trần, Jonathan vẫn hài lòng về căn hộ. Các bức tường được dán giấy xám đơn điệu, và bụi phủ khắp nơi… Nhưng anh sẽ không tỏ ra khó tính hơn.
Căn hộ của anh hiện nay chỉ rộng bằng một phần năm căn hộ này. Hơn nữa, anh không còn khả năng để trả tiền thuê; nhà máy khóa nơi anh làm mới đây đã quyết định bỏ qua công đoạn của anh.
Món thừa kế của bác Edmond đúng là của trời cho không tin được.
Hai ngày sau, anh dọn đến số 3, phố Sybarites với vợ mình là Lucie, cậu con trai Nicolas và con chó bông lùn cụt đuôi Ouarzazate của họ.
- Mấy bức tường xám này không làm em ngại đâu, - Lucie vừa nói vừa lấy tay nâng mái tóc đỏ dày của cô. - Chúng mình có thể trang trí như chúng mình muốn. Mọi thứ ở đây đều phải làm lại hết. Như kiểu mình biến nhà tù thành khách sạn đấy.
- Phòng của con ở đâu ạ? - Nicolas hỏi.
- Phía cuối, bên phải.
- Ẳng ẳng, - con chó sủa, và nó bắt đầu nhay nhay bắp chân Lucie mà không biết là cô đang bưng chồng bát đĩa đám cưới trong tay.
Kết cục, nó nhanh chóng bị nhốt vào nhà vệ sinh; khóa hẳn hoi, vì nó biết nhảy tới tận tay nắm cửa và biết xoay để mở cửa.
- Anh có biết rõ ông bác hào phóng của anh không? Lucie tiếp tục.
- Bác Edmond? Thực ra, tất cả những gì anh nhớ, chỉ là bác nhấc anh lên giả làm máy bay, lúc anh còn rất nhỏ. Một lần anh sợ đến nỗi anh đã tè dầm lên bác ấy.
Họ cười.
- Đã nhát gan thế cơ à? - Lucie trêu.
Jonathan làm ra vẻ không nghe thấy gì.
- Bác ấy không trách anh về chuyện đó. Bác chỉ nói với mẹ anh: “Được rồi, chúng ta biết là sẽ không cho nó thành phi công…” Sau đó, mẹ nói rằng bác theo sát suốt cuộc đời anh, nhưng anh không gặp lại bác từ ấy.
- Bác làm nghề gì?
- Đó là một nhà bác học. Một nhà sinh học, hình như thế.
Jonathan trở nên trầm tư. Cuối cùng, thậm chí anh cũng không biết ân nhân của mình.
Cách đó 6 km:
BEL-O-KAN,
Cao một mét.
50 tầng dưới lòng đất.
50 tầng trên mặt đất.
Thành phố lớn nhất của vùng.
Dân số ước tính: 18 triệu.
Sản lượng hàng năm:
- 50 lít mật rệp.
- 10 lít mật sâu yên chi.
- 4 kilô nấm mũ.
- Đá được dũi: 1 tấn.
- Số km hành lang đi lại được: 120.
- Diện tích trên mặt đất: 2m2.
Một tia sáng vụt qua. Một cái chân vừa nhúc nhích. Cử động đầu tiên từ đợt bắt đầu ngủ đông, cách đây ba tháng. Một cái chân khác từ từ tiến, kết thúc là hai cái chân dần dần tách ra. Một cái chân khác duỗi ra. Rồi đến bộ ngực. Rồi một cái thân. Rồi mười hai cái thân.
Chúng rùng mình để giúp dòng máu trong suốt lưu thông trong các động mạch của mình. Máu chuyển từ trạng thái sền sệt sang nhão rồi lỏng. Dần dần van tim bắt đầu hoạt động trở lại. Nó đẩy máu tới tận cuối các chi. Các cơ sinh học nóng dần lên. Các khớp siêu phức tạp xoay từ từ. Khắp nơi, xương bánh chè với các mảng bảo vệ cố tìm thấy cực điểm xoắn của chúng.
Chúng tỉnh dậy. Cơ thể lấy lại hơi. Các động tác của chúng rời rạc. Như vũ điệu quay chậm. Chúng lắc nhè nhẹ, vẩy vẩy. Chân trước chúng chập lại trước miệng như kiểu đang cầu nguyện, nhưng không phải, chúng làm ướt các chân của mình để đánh bóng râu.
Mười hai con vừa thức dậy xoa cho nhau. Sau đó chúng tìm cách đánh thức những con bên cạnh. Nhưng chúng mới chỉ có đủ sức để nhúc nhích mỗi cơ thể mình, chúng không còn năng lượng để cho đi. Chúng bỏ cuộc.
Rồi chúng khó nhọc tiến đến giữa những cơ thể cứng như tượng của các chị em mình. Chúng hướng về bên Ngoài rộng lớn. Toàn bộ cơ thể máu lạnh của chúng cần phải hứng lấy năng lượng mặt trời.
Chúng tiếp tục tiến lên, mệt nhoài. Mỗi bước đi là cả một sự đau đớn. Chúng muốn nằm lại đến chừng nào và muốn được yên tĩnh như hàng triệu bạn đồng loại của chúng! Nhưng không. Chúng là những người đầu tiên thức tỉnh. Bây giờ chúng phải đánh thức toàn thành phố.
Chúng qua thành phố. Ánh sáng mặt trời làm chúng chói mắt, nhưng tiếp xúc với năng lượng trong lành sảng khoái đến nhường nào.
Mặt trời rọi chiếu trên cơ thể gầy của chúng ta,
Lay tỉnh những cơ bắp đau nhức
Và hợp nhất các suy nghĩ tản mát.
Đó là một khúc ca ban mai cổ xưa của loài kiến đỏ hung từ hàng trăm nghìn năm nay. Từ thời đó, chúng đã muốn lẩm nhẩm hát trong đầu ngay lần đầu tiếp xúc với nắng ấm.
Khi đã ở ngoài, chúng bắt đầu vệ sinh một cách bài bản. Chúng tiết ra một thứ nước dãi trắng rồi dùng nó thoa đều các hàm và chân chúng.
Chúng chải chuốt. Đó là nghi lễ bất di bất dịch. Đầu tiên là mắt. Một nghìn ba trăm ô nhỏ tạo thành con mắt lồi được phủi bụi, làm ẩm, sấy khô. Chúng cũng làm như thế với râu, chi dưới, chi giữa, và chi trước. Cuối cùng, chúng đánh bóng thân hình bóng đỏ đẹp đẽ của mình cho tới khi lấp lánh như những tia lửa.
Trong số mười hai con tỉnh dậy, có một con đực giống. Nó nhỏ hơn một chút so với kích cỡ trung bình dân Bel-o-kan. Nó có hàm trên hẹp và nó được lên kế hoạch để không sống quá vài tháng, nhưng nó cũng được hưởng những lợi thế mà đồng loại không biết.
Lợi thế đầu tiên về đẳng cấp: với tư cách là động vật sinh sản hữu tính, nó có năm mắt. Hai mắt lớn hình cầu giúp nó nhìn tận 180°. Ba mắt nhỏ hơn xếp thành hình tam giác trên trán. Những con mắt dư thừa này thực ra là bộ phận tiếp nhận tia hồng ngoại cho phép phát hiện bất kỳ nguồn nhiệt nào từ xa, dù có ở trong bóng tối hoàn toàn.
Một đặc trưng quý giá biết bao đối với dân cư các thành phố lớn có từ hàng trăm nghìn thiên niên kỷ, hoàn toàn bị mù do phải sống dưới lòng đất.
Nhưng nó không chỉ có đặc điểm này. Nó cũng có cánh (như những con cái) để có thể bay đi giao phối.
Ngực của nó được bảo vệ bởi một tấm chắn đặc biệt: lá chắn ngực.
Râu của nó dài hơn và thính hơn những dân cư khác.
Con đực giống trẻ này dừng lại một hồi lâu trên mái, ních căng bụng ánh sáng mặt trời. Sau đó, khi đã được sưởi ấm no nê, nó quay vào thành phố. Tạm thời nó thuộc về đẳng cấp kiến “sứ giả truyền nhiệt”.
Nó di chuyển trong hành lang tầng thứ ba dưới lòng đất. Ở đây, mọi người còn đang say sưa ngủ. Những cơ thể đông cứng bất động. Râu bị bỏ phí.
Những con kiến vẫn còn say giấc nồng.
Chàng kiến đực trẻ tiến về phía một con kiến thợ mà nó muốn đánh thức dậy bằng nhiệt cơ thể mình. Sự tiếp xúc ấm áp giữa hai cơ thể khiến nó có cảm giác tê tê dễ chịu.
Tiếng bước chân nhẹ vang lên ngay hồi chuông thứ hai. Cửa mở, dừng một chút khi bà Augusta tháo dây xích an toàn ở cửa ra.
Từ khi hai con mất, bà sống tách biệt trong căn hộ nhỏ ba mươi mét vuông này, ôn lại những kỷ niệm cũ. Điều đó chẳng thể khiến bà thấy tốt hơn, nhưng cũng không làm giảm lòng tốt của bà về bất cứ mặt nào.
- Bà biết là buồn cười, nhưng đi đôi dép vải này vào. Bà mới đánh xi sàn nhà.
Jonathan nghe lời. Bà lon ton đi trước anh, dẫn anh vào phòng khách, rất nhiều đồ gỗ trong phòng còn phủ khăn. Ngồi ở mép tràng kỷ lớn, Jonathan không tài nào tránh khỏi làm cái vỏ bọc bằng nhựa kêu sột soạt.
- Bà mừng là cháu tới… Có lẽ cháu không tin, nhưng bà định gọi cho cháu mấy ngày nay.
- Thế ạ?
- Nhớ là Edmond để lại một thứ cho cháu. Một bức thư. Bác ấy nói là: nếu con chết, bằng mọi giá mẹ phải đưa thư này cho Jonathan.
- Một bức thư ạ?
- Một bức thư, ừ, một bức thư… Ừm, bà cũng chẳng biết để nó ở đâu nữa. Chờ bà chút… Bác ấy đưa cho bà bức thư, bà nói với bác ấy là bà sẽ cất nó, bà cất nó trong một cái hộp. Có lẽ là một trong mấy cái hộp sắt trắng ở cái tủ tường lớn.
Bà bắt đầu lê dép trên sàn nhà, nhưng dừng lại ngay ở bước thứ ba.
- Xem nào, bà ngớ ngẩn quá! Bà tiếp đón cháu thế đấy! Cháu uống một tách trà cỏ roi ngựa không?
- Dạ, có ạ.
Bà tiến vào bếp và khua nồi xoong.
- Cho bà biết chút tin tức của cháu đi, Jonathan! - bà nói.
- Dạ, cũng không kinh khủng lắm. Cháu bị cho nghỉ việc rồi.
Bà thò mái đầu bạc trắng ra khỏi cửa, rồi hẳn cả người, vẻ nghiêm trọng, lọt thỏm trong cái tạp dề dài màu xanh nước biển.
- Họ đuổi cháu á?
- Vâng.
- Tại sao?
- Bà biết đấy, nghề thợ khóa là một môi trường đặc biệt. Công ty của cháu, “SOS Khóa”, hoạt động 24 trên 24 khắp các khu phố ở Paris. Thế nhưng, từ khi một trong các đồng nghiệp của cháu bị tấn công, cháu từ chối đến các khu lộn xộn vào buổi tối. Thế là họ đuổi cháu.
- Cháu làm đúng đấy. Thà thất nghiệp và khỏe mạnh còn hơn là ngược lại.
- Hơn nữa, cháu không hợp với sếp của cháu lắm.
- Còn kinh nghiệm cộng đồng không tưởng của cháu? Thời bà, người ta gọi là cộng đồng New Age. (Bà lén cười, bà phát âm là “nu-i-az”[1]).
- Cháu thôi sau thất bại ở trang trại Pyrénées. Lucie chán phải nấu ăn và rửa bát cho tất cả mọi người. Trong hội cháu, có nhiều người ỷ lại lắm. Chúng cháu rất bực mình. Bây giờ cháu chỉ sống với mỗi Lucie và Nicolas… Còn bà, bà ngoại, bà khỏe không?
- Bà á? Bà tồn tại. Thế đã là cả một mối bận tâm thường xuyên rồi.
- Bà số đỏ! Bà đã sống qua thời khắc chuyển giao giữa hai thiên niên kỷ rồi…
- Ồ! Cháu biết đấy, điều làm bà ấn tượng nhất là chẳng có gì thay đổi cả. Trước đây, khi bà còn bé, người ta nói là sau khi qua thiên niên kỷ mới, sẽ có rất nhiều điều kỳ diệu, và cháu thấy đấy, chẳng có gì tiến hóa cả. Lúc nào cũng có người già sống đơn côi, luôn đầy người thất nghiệp, vẫn đầy ô tô nhả khói. Ngay cả các tư tưởng cũng chẳng thèm nhúc nhích. Này nhé, năm ngoái người ta tái phát hiện chủ nghĩa siêu thực, năm trước nữa thì rock’n roll, và báo chí nói là hè năm nay mini jupe quay trở lại. Nếu cứ tiếp tục thế này chắc người ta sẽ lôi nốt những ý tưởng cũ rích từ hồi đầu thế kỷ: cộng sản, phân tích tâm lý và thuyết tương đối…
Jonathan mỉm cười.
- Nhưng mà vẫn có nhiều tiến bộ: tuổi thọ trung bình tăng lên, cũng như là số vụ ly hôn, mức ô nhiễm không khí, chiều dài các tuyến tàu điện ngầm…
- Hay ho nhỉ. Bà lại cứ nghĩ là mọi người sẽ có máy bay riêng và có thể cất cánh từ ban công… Cháu biết không, hồi bà trẻ, mọi người đều sợ chiến tranh hạt nhân. Đúng là nỗi sợ tuyệt vời. Chết lúc trăm tuổi trong cái lò cháy rực của một cây nấm nguyên tử khổng lồ, chết với hành tinh… dù sao cũng kiêu hãnh lắm chứ. Thay vì chết như thế, bà sẽ chết như một củ khoai tây già thối. Và mọi người mặc kệ.
- Không, bà ơi, không phải thế.
Bà lau trán.
- Hơn nữa, trời nóng quá, càng ngày càng nóng hơn. Thời bà, trời không nóng như thế này. Mùa đông ra mùa đông và mùa hè ra mùa hè. Bây giờ, đợt nắng nóng bắt đầu ngay từ tháng Ba.
Bà quay trở lại bếp, nhảy lên với chút khéo léo hiếm thấy, lấy tất cả những đồ cần thiết để làm một tách trà cỏ roi ngựa thơm ngon. Sau khi bà quẹt một que diêm và người ta nghe thấy tiếng ga thổi trong những đường dẫn cũ của cái bếp, bà quay lại, vẻ thoải mái hơn.
- Nhưng thực ra, cháu phải có lý do chính xác nào thì mới tới đây chứ. Ngày nay, người ta không đến thăm những người già như thế.
- Đừng cay nghiệt như thế, bà.
- Bà không cay nghiệt, bà biết mình đang sống trong thế giới nào, thế thôi. Nào, nhõng nhẽo đủ rồi, nói cho bà biết cái gì đưa cháu đến đây.
- Cháu muốn bà nói cho cháu về “bác ấy”. Bác ấy để lại cho cháu căn hộ của bác và cháu thậm chí không biết bác…
- Edmond? Cháu không nhớ Edmond à? Thế mà, bác ấy rất thích nâng cháu lên để cháu làm máy bay khi cháu còn bé. Bà thậm chí còn nhớ một lần…
- Vâng, cái đó cháu cũng nhớ, nhưng ngoài giai thoại này, là con số không.
Bà ngồi trong một cái ghế bành lớn và chú ý không làm nhàu cái vỏ quá.
- Edmond, hừm, đó là một nhân vật. Ngay từ khi còn rất nhỏ, bác cháu đã gây cho bà lắm điều phiền nhiễu. Là mẹ bác ấy không phải việc tầm thường đâu. Ví dụ nhé, bác ấy thường làm gẫy hết đồ chơi của mình để tháo chúng, hiếm khi để lắp lại chúng. Và giá như bác ấy chỉ phá mỗi đồ chơi của mình! Bác ấy tháo mọi thứ: đồng hồ treo tường, máy quay đĩa, bàn chải đánh răng điện. Một lần, bác ấy thậm chí tháo cả tủ lạnh.
Như để khẳng định lời bà nói, cái đồng hồ quả lắc cổ ở phòng khách bắt đầu kêu lên buồn bã. Nó cũng thế, nó cũng phải chịu đủ mọi loại khổ sở với cậu bé Edmond.
- Và sau đó bác ấy có một ý thích riêng: hang ổ. Bác ấy bới tung nhà lên để xây chỗ trú cho mình. Bác ấy xây một cái bằng chăn và ô ở trên tầng áp mái, cái khác với ghế và áo choàng lông trong phòng mình. Bác ấy thích ẩn như thế ở bên trong, giữa đống kho báu mà bác ấy tích vào. Một lần bà nhìn vào, đầy gối ôm và một mớ linh tinh máy móc mà bác ấy giật ở các máy ra. Vả lại, nó cũng có vẻ khá tiện nghi thoải mái.
- Tất cả trẻ con đều làm thế…
- Có thể, nhưng ở bác ấy là mức độ đáng kinh ngạc. Bác ấy không ngủ trên giường nữa, bác ấy chỉ đồng ý ngủ ở một trong các cái tổ của mình. Thỉnh thoảng, có những khi bác ấy ở trong đó cả ngày không nhúc nhích. Cứ như là bác ấy đang ngủ đông. Thậm chí, mẹ cháu còn cho rằng kiếp trước, bác ấy chắc phải là con sóc.
Jonathan mỉm cười để cổ vũ bà tiếp tục.
- Một hôm, bác ấy muốn xây lều của mình giữa mấy cái chân bàn trong phòng khách. Đúng là giọt nước làm tràn ly, ông cháu phát điên lên, mà không phải ông thường như thế. Ông đét đít bác ấy, phá tất cả tổ và bắt bác ấy ngủ trên giường.
Bà thở dài.
- Từ hôm đó, bác hoàn toàn tuột khỏi ông bà. Giống như người ta cắt dây rốn. Ông bà không còn thuộc vào thế giới của bác ấy nữa. Nhưng bà nghĩ sự thử thách này là cần thiết, bác ấy cần phải biết thế giới không chịu theo mãi những đòi hỏi thất thường của bác ấy. Sau này, khi lớn lên, sẽ có nhiều vấn đề. Bác ấy không chịu đựng được trường học. Cháu sẽ nói với bà là: “như mọi đứa trẻ”. Nhưng ở bác ấy mọi việc còn đi xa hơn. Cháu có biết nhiều đứa trẻ treo cổ trong nhà vệ sinh bằng thắt lưng của mình vì bị giáo viên mắng chưa? Bác ấy á, bác ấy đã treo mình như thế năm bảy tuổi. Chính bác lao công đã đỡ bác ấy xuống.
- Có thể bác ấy quá nhạy cảm…
- Nhạy cảm? Cháu nói thế! Một năm sau, bác ấy cố tình đâm một trong những giáo viên của mình bằng kéo. Bác ấy nhắm vào tim. May mắn sao, nó chỉ làm hỏng hộp thuốc lá của thầy giáo.
Bà ngước mắt lên trần nhà. Những kỷ niệm tản mát rơi xuống ý nghĩ của bà như những bông tuyết.
- Sau đó có vẻ ổn thỏa hơn một chút, vì một số giáo viên thu hút được bác ấy. Bác ấy đạt điểm hai mươi cho những môn bác ấy quan tâm và điểm không cho những môn khác. Luôn là hai mươi hoặc không.
- Mẹ nói bác ấy là thiên tài.
- Bác ấy mê hoặc mẹ cháu đấy vì bác ấy giải thích cho mẹ cháu rằng bác ấy cố đạt đến “tri thức tuyệt đối”. Ngay lúc mười tuổi, mẹ cháu đã tin là có kiếp trước, nên nghĩ bác ấy là hiện thân của Einstein hay Léonard de Vinci.
- Thêm cả con sóc nữa chứ?
- Tại sao không? “Cần phải có nhiều cuộc sống để tạo nên một linh hồn…” đức Phật đã nói thế.
- Bác ấy có làm trắc nghiệm IQ không?
- Có. Rất là tồi. Bác ấy đạt 23 trên 180, điểm tương đương với một đứa hơi ngốc. Giáo viên nghĩ là bác ấy điên và phải cho bác ấy đến một trung tâm chuyên biệt. Nhưng bà biết là bác ấy không điên. Bác ấy chỉ ở “bên cạnh” thôi. Bà nhớ một lần, ồ, có lẽ bác ấy vừa tròn mười một tuổi, bác ấy thách bà xếp được bốn hình tam giác bằng nhau chỉ với sáu que diêm. Không dễ tí tẹo nào, cháu thử xem sao…
Bà đi vào bếp, liếc nhìn ấm nước và mang sáu que diêm ra. Jonathan chần chừ một lát. Có vẻ như làm được. Anh xoay sáu cái que thành nhiều cách khác nhau, nhưng sau nhiều phút hí hoáy đành bỏ cuộc.
- Cách làm như thế nào ạ?
Bà Augusta tập trung.
- Ờ, thực ra, bà nghĩ là bác ấy chưa bao giờ cho bà biết. Mọi điều mà bà nhớ là câu bác ấy nói cho bà để giúp bà tìm ra cách: “Phải nghĩ khác đi, nếu người ta chỉ nghĩ theo thói quen thì chẳng đạt được gì.” Cháu thử hình dung xem, một thằng bé mười một tuổi mà nói ra những điều như thế! À! Bà nghe thấy tiếng ấm nước reo. Nước chắc phải sôi rồi.
Bà trở lại với hai tách đầy một thứ nước màu vàng nhạt rất thơm.
- Cháu biết không, thấy cháu quan tâm đến bác mình, bà rất hài lòng. Thời nay, khi ai đó chết đi, người ta thậm chí còn quên là họ đã được sinh ra.
Jonathan bỏ dở mấy que diêm và nhẹ nhàng uống vài ngụm cỏ roi ngựa.
- Sau đó, việc gì xảy ra ạ?
- Bà cũng không biết, ngay khi bác ấy bắt đầu học đại học khoa học, ông bà không có tin tức gì nữa. Bà biết được đại khái qua mẹ cháu rằng bác ấy bảo vệ xuất sắc bằng tiến sĩ, rằng bác ấy làm cho một công ty thực phẩm, rồi bác ấy bỏ công ty để đi châu Phi, sau đó quay lại sống ở phố Sybarites, nơi mà không một ai nghe nói đến bác ấy cho đến lúc bác ấy chết.
- Bác ấy chết như thế nào?
- À! Cháu không biết sao? Một chuyện không thể tin được. Họ đăng chuyện đó trên khắp các mặt báo. Bác ấy chết vì bị ong vò vẽ đốt.
- Ong vò vẽ? Chuyện thế nào cơ?
- Bác ấy đi dạo một mình trong rừng. Chắc là bác ấy vô tình vấp phải một tổ ong. Chúng bâu đầy người bác ấy. Bác sĩ pháp y khẳng định: “Chưa bao giờ tôi thấy có nhiều vết đốt trên một người như thế.” Bác ấy chết với 0,3 gam nọc độc trong một lít máu. Chưa từng thấy bao giờ.
- Bác ấy có mộ không?
- Không. Bác ấy yêu cầu được chôn dưới một cây thông trong rừng.
- Bác có ảnh không ạ?
- Nhìn đằng kia kìa, trên tường ấy, phía trên cái tủ com mốt. Bên phải: Suzy, mẹ cháu (cháu đã nhìn thấy mẹ cháu trẻ như thế chưa?). Bên trái: Edmond.
Ông có vầng trán rộng, bộ ria nhọn, tai không dái tai kiểu Kafka[2] cao tới chân mày. Ông cười ranh mãnh. Một con quỷ con.
Bên cạnh ông, Suzy rạng rỡ trong chiếc váy trắng. Mấy năm sau, cô kết hôn, nhưng luôn giữ họ Wells. Như thể cô không muốn chồng truyền lại dấu ấn dòng họ mình cho con cái.
Tiến lại gần hơn, Jonathan thấy Edmond dựng hai ngón tay trên đầu em gái mình.
- Bác ấy rất tinh nghịch, đúng không ạ?
Bà Augusta không trả lời. Nét buồn đượm trong ánh mắt khi bà nhìn lại khuôn mặt rạng rỡ của con gái. Suzy mất sáu năm trước. Một chiếc xe tải mười lăm tấn do tài xế say rượu lái đẩy ô tô của cô xuống rãnh. Cô hấp hối hai hôm. Cô đòi gặp Edmond, thế nhưng Edmond thậm chí không tới. Thêm một lần nữa, ông lại ở đâu đâu…
- Bà không biết ai khác có thể nói cho cháu về Edmond?
- Hừm… Bác ấy có một bạn thiếu thời mà bác hay gặp. Chúng còn học chung đại học với nhau. Jason Bragel. Hẳn bà vẫn còn số điện thoại của bác ấy.
Augusta xem nhanh máy tính của mình rồi đưa cho Jonathan địa chỉ của người bạn đó. Bà trìu mến nhìn cháu ngoại. Đây là người sống sót cuối cùng của gia đình Wells. Một cậu bé dũng cảm.
- Nào, uống nốt trà đi, nó đang nguội kìa. Bà có cả bánh Madeleine nữa, nếu cháu muốn. Tự tay bà làm với trứng chim cút đấy.
- Thôi ạ, cháu cảm ơn bà. Cháu phải đi đây. Một ngày nào đó bà qua căn hộ mới của chúng cháu chơi nhé, chúng cháu dọn đến đó xong rồi.
- Đồng ý, nhưng chờ đã, đừng có đi mà quên lá thư.
Kiên trì lục cái tủ tường lớn và mấy cái hộp sắt, cuối cùng bà cũng thấy cái phong bì trắng trên đó ghi dòng chữ viết vội: “Gửi Jonathan Wells.” Mép gập của phong bì được bảo vệ bằng nhiều lớp băng dính để tránh bị mở không đúng lúc. Anh cẩn thận xé phong bì. Một tờ giấy nhàu nhĩ, loại sổ tay học sinh, rơi ra. Anh đọc một câu duy nhất ghi trong đó:
“TUYỆT ĐỐI KHÔNG BAO GIỜ ĐƯỢC XUỐNG KHO CHỨA ĐỒ!”
Con kiến rung rung mấy sợi râu. Nó như chiếc ô tô người ta bỏ lâu dưới tuyết và người ta thử khởi động lại. Con đực làm như thế nhiều lần. Nó xoa cho con kiến thợ. Bôi cho con cái chút nước dãi nóng.
Sống rồi. Xong, động cơ được khởi động trở lại. Một mùa trôi qua. Mọi thứ lại bắt đầu như thể nó chưa bao giờ trải qua kỳ “tạm chết”.
Nó vẫn xoa cho con kiến thợ để truyền thêm năng lượng. Bây giờ, kiến thợ đã khỏe hơn. Trong khi nó tiếp tục vất vả, kiến thợ hướng râu về phía nó. Kiến thợ cù nhè nhẹ nó. Kiến thợ muốn biết nó là ai.
Kiến thợ sờ khúc đầu của con kiến đực, bắt đầu từ hộp sọ và đọc tuổi của nó: một trăm bảy mươi ba ngày tuổi. Trên khúc thứ hai, kiến thợ xác định đẳng cấp của nó: kiến đực giống. Ở khúc thứ ba, loài và tổ của nó: kiến đỏ hung ở rừng thuộc thành phố mẹ Bel-o-kan. Ở khúc thứ tư, con kiến thợ nhận ra số lứa sinh dùng để nhận dạng nó: nó là con kiến đực thứ 327, được sinh ra từ hồi đầu mùa thu.
Tới đó, kiến thợ ngừng đánh hơi tìm hiểu. Những khúc khác không phát thông tin. Khúc thứ năm dùng để tiếp nhận các phân tử dấu vết. Khúc thứ sáu được dùng cho những hội thoại đơn giản. Khúc thứ bảy cho phép những hội thoại phức tạp hơn kiểu tình dục. Khúc thứ tám dành để nói chuyện với Kiến Chúa. Cuối cùng, ba khúc còn lại dùng làm chùy nhỏ.
Thế đấy, kiến thợ đã xem xong một lượt mười một khúc của nửa thứ hai của râu. Nhưng nó chẳng có gì để nói với con kiến đực. Thế là nó lánh đi và, tới lượt nó, đi sưởi ấm trên mái của Tổ.
Con kiến đực cũng làm thế. Kết thúc công việc của sứ giả truyền nhiệt, giờ là chỗ cho công việc tu bổ!
Lên tới trên cao, con đực 327 xem xét các thiệt hại. Tổ được xây theo hình nón để ít bị ảnh hưởng khi thời tiết xấu, thế nhưng, mùa đông là kẻ phá hoại. Gió, tuyết và mưa đá đã làm bật lớp cành đầu tiên. Phân chim lấp một số lối đi. Phải nhanh chóng bắt tay vào việc. Con 327 tiến tới một mảng lớn màu vàng và dùng hàm trên phá thứ chất cứng và thối đó đi. Phía bên kia thoáng xuất hiện bóng một con côn trùng đang đào từ bên trong.
Cái lỗ nhìn quang học ở cửa tối đi. Người ta nhìn nó qua cánh cửa.
- Ai đấy?
- Ông Gougne… Tôi đến để đóng sách.
Cánh cửa hé mở. Cái ông tên Gougne cúi nhìn cậu bé tóc vàng khoảng mười tuổi, rồi, thấp hơn nữa, một con chó bé xíu, thò mõm qua hai chân của cậu bé, bắt đầu gầm gừ.
- Bố không có nhà!
- Cháu chắc không? Giáo sư Wells lẽ ra phải qua gặp ông và…
- Giáo sư Wells là ông của cháu. Nhưng ông mất rồi.
Nicolas muốn đóng cửa nhưng người đàn ông nhích chân lên để cố nài.
- Thành thật chia buồn. Nhưng cháu chắc là ông ấy không để lại một túi đựng tài liệu to đùng chứa đầy giấy chứ? Ông là người đóng sách. Ông ấy đã trả tiền trước để đóng bìa da tập ghi chép công việc của mình. Ông ấy muốn làm một quyển từ điển bách khoa toàn thư, ông nghĩ thế. Lẽ ra ông ấy phải qua nhưng ông không có tin tức của ông ấy từ lâu lắm rồi…
- Ông mất rồi, cháu đã nói với ông.
Người đàn ông nhích chân thêm chút nữa, lấy đầu gối đẩy cánh cửa như thể ông ta muốn xô cậu bé để vào. Con chó cong người lại, bắt đầu sủa gay gắt. Ông ta đứng im.
- Cháu hiểu cho, điều này sẽ khiến ông áy náy vô cùng vì không giữ lời hứa với ông ấy, dù chỉ là di cảo. Cháu làm ơn kiểm tra lại. Chắc chắn phải có một cái cặp tài liệu lớn màu đỏ ở đâu đó.
- Ông nói là một quyển từ điển bách khoa toàn thư ạ?
- Đúng, ông ấy tự đặt tên quyển này là: “Từ điển Bách khoa toàn thư kiến thức tương đối và tuyệt đối”, nhưng ông sẽ ngạc nhiên nếu như nó được ghi trên bìa…
- Cả nhà cháu đã phải thấy nếu nó ở nhà chúng cháu.
- Ông xin lỗi vì năn nỉ thêm nhưng…
Con chó bông lùn bắt đầu sủa. Người đàn ông hơi lùi lại, đủ để cho cậu bé đóng sập cửa trước mặt ông ta.
Bây giờ cả Tổ đã thức dậy. Các hành lang chật kín sứ giả truyền nhiệt đang khẩn trương ủ ấm cho cả Bầy. Thế nhưng, ở một số nơi giao nhau trong Tổ, người ta còn thấy nhiều công dân bất động. Kiến truyền nhiệt lay chúng một cách vô vọng, đập chúng, nhưng chúng không nhúc nhích.
Chúng sẽ không cử động nữa. Chúng đã chết. Với chúng, ngủ đông là trí mạng. Chúng không thể nào trụ được mà không gặp rủi ro trong vòng ba tháng với một nhịp tim trên thực tế là không tồn tại. Chúng đã không phải chịu đau đớn. Chúng từ giấc ngủ thông thường đến với giấc ngàn thu trong một đợt gió lùa bất chợt trùm lên Tổ. Xác chúng được chuyển đi rồi bị ném vào nơi đổ rác. Cứ như thế, mỗi sáng, Tổ lại dọn dẹp những phần tử đã chết cùng những rác rưởi khác.
Một khi mạch máu được loại sạch những cặn bẩn của mình, thành phố côn trùng bắt đầu phập phồng. Khắp nơi, những bàn chân hối hả. Những cái hàm đào bới. Râu vẫy vẫy trao đổi thông tin. Mọi việc trở lại như trước. Như trước mùa đông tê liệt.
Khi con đực 327 kéo cành cây hẳn phải nặng gấp sáu mươi lần trọng lượng của mình, một con kiến chiến binh hơn năm trăm ngày tuổi tiến lại gần nó. Con này vỗ vỗ đầu nó bằng các đốt-chùy để gây chú ý. Nó ngẩng đầu. Con kiến chiến binh đặt râu mình vào râu nó.
Con này muốn nó gác lại việc sửa sang mái để đi cùng nhóm kiến… đi săn.
Nó sờ vào miệng và mắt con này.
Chuyến đi săn nào?
Con kia cho nó ngửi mẩu thịt khá khô được giấu trong một nếp của khớp ngực mình.
Hình như người ta đã tìm thấy cái này ngay trước mùa đông, ở vùng phía Tây ngay góc 23° so với mặt trời chính ngọ.
Con đực nếm thử. Đúng là loài sâu cánh cứng. Để chính xác hơn, đó là thịt con bọ mật. Lạ thật. Thông thường, loài sâu cánh cứng còn đang ngủ đông. Như mọi người đều biết, kiến đỏ hung tỉnh dậy ở nhiệt độ-không khí 12°, mối 13°, ruồi 14°, và sâu cánh cứng 15°.
Con chiến binh già không để bị bối rối bởi lý lẽ đó. Nó giải thích cho con đực rằng mẩu thịt này được lấy từ một vùng đặc biệt, vùng đó được sưởi ấm nhân tạo nhờ một nguồn nước ngầm. Ở đó, không có mùa đông. Đó là vi khí hậu, nơi có hệ động thực vật đặc biệt phát triển.
Vả lại, lúc thức dậy, Bầy thường đói. Bầy sẽ nhanh chóng cần protein để khởi động. Nắng ấm thôi chưa đủ.
Con đực chấp nhận.
Chuyến đi săn có hai mươi tám con kiến thuộc đẳng cấp chiến binh. Phần lớn trong bọn chúng, như con vừa rủ kiến đực tham gia, là những con kiến già vô tính. Con đực 327 là thành viên duy nhất của đẳng cấp hữu tính. Nó dò xét từ xa những con cùng tham gia chuyến đi săn qua cái rây của mắt mình.
Với hàng nghìn ô mắt lưới, kiến không thấy hình ảnh bị lặp lại hàng nghìn lần, mà là hình ảnh được chia ô. Những con côn trùng này khó nhận ra được mọi chi tiết. Trái lại, nó nhận ra được các cử động dù là nhỏ nhất.
Những nhà thám hiểm tham gia cuộc viễn chinh này tất cả đều có vẻ tinh nhuệ cho những chuyến đi xa. Những cái bụng nặng trĩu của chúng chứa đầy axít. Đầu chúng được trang bị những vũ khí mạnh nhất. Vỏ chúng bị rạch khía ngang dọc do dính những cú cắn ở các cuộc chiến.
Chúng thẳng tiến lên phía trước từ nhiều giờ nay. Chúng đi qua nhiều thành phố dựng đứng giữa trời hay dưới tán cây của Liên bang. Những tổ kiến cái của triều đại Ni: Yodu-lou-baikan (loài sản xuất nhiều ngũ cốc nhất); Giou-li-aikan (mà cách đây hai năm, nhiều đội sát thủ đã thắng liên minh các tổ mối miền Nam); Zédi-bei-nakan (nổi tiếng với các phòng thí nghiệm hóa học sản xuất được chất axít chiến đấu siêu đậm đặc); Li-viu-kan (mà rượu sâu yên chi của chúng có vị nhựa rất được ưa chuộng).
Vì kiến đỏ hung không những tổ chức thành tổ, mà còn thành liên minh tổ. Khối thống nhất làm nên sức mạnh. Ở vùng núi Jura, người ta có thể thấy nhiều liên bang kiến đỏ hung có chừng 15 000 tổ kiến trải dài trên bề mặt 80 héc ta và có tổng dân số trên 200 triệu con.
Bel-o-kan còn chưa có ở đó. Đó là một liên bang trẻ mà triều đại gốc được thành lập cách đây năm nghìn năm. Theo huyền thoại địa phương, có lẽ do một cô kiến cái lạc đường trong một trận bão khủng khiếp, đã kẹt lại nơi đây. Không tài nào về được liên bang của mình, nàng tạo ra Bel-o-kan, và từ Bel-o-kan, Liên bang được hình thành và hàng trăm thế hệ kiến chúa Ni tạo nên nó.
Belo-kiu-kiuni là tên của kiến chúa đầu tiên này. Nó có nghĩa là “kiến lạc đường”. Nhưng tất cả các kiến chúa giữ tổ trung tâm đều lấy lại tên đó.
Hiện tại, Bel-o-kan mới chỉ gồm một tổ trung tâm lớn và 64 tổ cái liên bang, tản mát ở ngoại vi. Nhưng nó được thừa nhận là sức mạnh chính trị lớn nhất ở khoảnh đất này trong cánh rừng Fontainebleau.
Khi đã đi qua các tổ con, và đặc biệt là La-chola-kan, tổ Bel-o-kan nằm về phía Tây xa nhất, các nhà thám hiểm tới trước những ụ đất nhỏ: các tổ mùa hè hay “đồn tiền tiêu”. Chúng còn trống. Nhưng con 327 biết rằng, nhanh thôi, với các cuộc săn bắt và chiến tranh, chúng sẽ đầy chiến binh.
Chúng tiếp tục tiến thẳng hàng. Đoàn chúng trườn theo cánh đồng cỏ rộng xanh rì và một quả đồi đầy cây cúc gai. Chúng rời khu vực các bãi săn. Đằng xa, về phía Bắc, người ta đã nhận ra được tổ của kẻ thù, Shi-gae-pou. Nhưng dân cư của nó chắc giờ này vẫn đang ngủ.
Chúng tiếp tục. Quanh chúng, phần lớn động vật còn chìm trong giấc ngủ đông. Đâu đó, vài con dậy sớm chui đầu ra khỏi hang của mình. Ngay khi nhìn thấy những bộ giáp đỏ hung, chúng lẩn trốn, sợ sệt. Loài kiến đặc biệt nổi tiếng là không thân mật. Nhất là khi chúng tiến bước như thế này, vũ trang đến tận râu.
Giờ thì các nhà thám hiểm đã tới ranh giới những vùng đất từng được biết đến. Không có lấy một tổ cái. Không có lấy một đồn tiền tiêu nơi chân trời. Không có lấy một đoạn đường mòn được đào bằng những đôi chân nhọn. Ngoài một vài dấu vết rất nhỏ của một lối đi xưa thoang thoảng hương chỉ ra rằng trước đây dân Bel-o-kan đã từng đi qua.
Chúng do dự. Những bộ lá trước mặt chúng không được ghi chép trong một bảng khứu giác nào. Chúng tạo thành một cái mái tối om mà ánh sáng không xuyên qua được. Khối thực vật khổng lồ này cùng sự hiện diện của một vài loài động vật dường như muốn ăn tươi nuốt sống chúng.
Làm thế nào để bảo họ không được xuống đó?
Anh đặt áo vest xuống rồi ôm hôn gia đình.
- Cả nhà đã tháo hết đồ ra chưa?
- Xong rồi, bố ạ.
- Tốt. Nhân tiện, mọi người đã xem bếp chưa? Có một cái cửa ở cuối.
- Đúng lúc em đang định nói với anh về nó, Lucie nói, đó chắc là một kho chứa đồ. Em đã thử mở nhưng nó bị khóa. Có một cái khe lớn. Chí ít nhìn vào đó, phía sau có vẻ sâu. Anh sẽ phải phá khóa đấy. Ít ra cũng phải làm được việc gì đó khi có ông chồng là thợ khóa chứ.
Cô cười và thu mình trong vòng tay anh. Lucie và Jonathan sống với nhau tới giờ đã được mười ba năm. Họ gặp nhau trong tàu điện ngầm. Một hôm, một tên lưu manh, vì rỗi hơi, đã thả bom cay trong toa tàu. Toàn bộ hành khách ngay tức khắc nằm xuống sàn khóc, ho sù sụ và khạc nhổ. Lucie và Jonathan bị ngã đè lên nhau. Khi đã ổn hơn sau cơn ho và nước mắt giàn giụa, Jonathan đề nghị được đưa cô về nhà. Sau đó, anh mời cô tới một trong những cộng đồng không tưởng đầu tiên của mình: một “nhà nhảy dù” ở Paris, gần nhà ga Bắc. Ba tháng sau, họ quyết định kết hôn.
- Không.
- Sao lại không?
- Không, chúng ta sẽ không phá khóa và chúng ta sẽ không tận dụng kho chứa đồ đó. Không được nhắc đến nó nữa, không được lại gần nó nữa, nhất là không được nghĩ đến chuyện mở nó ra.
- Anh đùa à? Giải thích đi chứ!
Jonathan chưa từng nghĩ là phải có lập luận logic xung quanh chuyện cấm xuống kho chứa đồ. Vô tình anh lại gây ra điều trái với mình mong muốn. Vợ và con anh giờ thành ra tò mò. Anh có thể làm gì? Giải thích cho họ là có một điều bí ẩn quanh ông bác ân nhân, và rằng ông muốn cảnh báo với họ mối nguy hiểm khi xuống kho chứa đồ?
Đó không phải là một lời giải thích. Đó là mê tín thì đúng hơn. Con người thích logic, không bao giờ Lucie và Nicolas tin.
Anh lúng túng nói:
- Đó là công chứng viên báo cho anh.
- Ai báo cho anh cái gì?
- Kho chứa đồ này đầy chuột cống!
- Kinh! Chuột ạ? Nhưng chúng chắc sẽ qua được cái khe, - cậu bé vặn vẹo.
- Cả nhà đừng sợ, chúng ta sẽ bịt tất cả lại.
Jonathan không phải là không hài lòng về kết quả nhỏ đó. Thật may mắn là anh nảy ra ý tưởng về chuột.
- Rồi, thế là hiểu rõ nhé, không ai lại gần cái kho ấy nữa?
Anh vào nhà tắm. Lucie liền theo anh.
- Anh đi thăm bà anh à?
- Chính xác.
- Hết cả buổi sáng à?
- Lại-chính xác.
- Anh đừng mất thời gian lang thang như vậy. Anh nhớ anh từng nói với mọi người khi ở trang trại Pyrénées không: “nhàn cư vi bất thiện”. Anh phải tìm việc làm khác. Ngân sách của chúng ta giảm rồi!
- Chúng mình vừa được thừa kế căn hộ hai trăm mét vuông trong một khu phố xịn ở bìa rừng, còn em, em lại đi nói công việc với anh! Em không biết tận hưởng những giờ phút này sao?
Anh muốn ôm ghì cô, cô lùi lại.
- Có chứ, em biết, nhưng em cũng biết nghĩ tới tương lai. Em, em chẳng có công việc nào, anh thì thất nghiệp, chúng ta sẽ sống ra sao trong một năm nữa?
- Chúng ta vẫn còn khoản tiết kiệm.
- Đừng có ngốc thế, chúng ta có thể sống lay lắt trong mấy tháng, còn sau đó…
Cô đặt mấy ngón tay nhỏ nhắn lên hông rồi ưỡn ngực.
- Sao lại không?
- Không, chúng ta sẽ không phá khóa và chúng ta sẽ không tận dụng kho chứa đồ đó. Không được nhắc đến nó nữa, không được lại gần nó nữa, nhất là không được nghĩ đến chuyện mở nó ra.
- Anh đùa à? Giải thích đi chứ!
Jonathan chưa từng nghĩ là phải có lập luận logic xung quanh chuyện cấm xuống kho chứa đồ. Vô tình anh lại gây ra điều trái với mình mong muốn. Vợ và con anh giờ thành ra tò mò. Anh có thể làm gì? Giải thích cho họ là có một điều bí ẩn quanh ông bác ân nhân, và rằng ông muốn cảnh báo với họ mối nguy hiểm khi xuống kho chứa đồ?
Đó không phải là một lời giải thích. Đó là mê tín thì đúng hơn. Con người thích logic, không bao giờ Lucie và Nicolas tin.
Anh lúng túng nói:
- Đó là công chứng viên báo cho anh.
- Ai báo cho anh cái gì?
- Kho chứa đồ này đầy chuột cống!
- Kinh! Chuột ạ? Nhưng chúng chắc sẽ qua được cái khe, cậu bé vặn vẹo.
- Cả nhà đừng sợ, chúng ta sẽ bịt tất cả lại.
Jonathan không phải là không hài lòng về kết quả nhỏ đó. Thật may mắn là anh nảy ra ý tưởng về chuột.
- Rồi, thế là hiểu rõ nhé, không ai lại gần cái kho ấy nữa?
Anh vào nhà tắm. Lucie liền theo anh.
- Anh đi thăm bà anh à?
- Chính xác.
- Hết cả buổi sáng à?
- Lại-chính xác.
- Anh đừng mất thời gian lang thang như vậy. Anh nhớ anh từng nói với mọi người khi ở trang trại Pyrénées không: “nhàn cư vi bất thiện”. Anh phải tìm việc làm khác. Ngân sách của chúng ta giảm rồi!
- Chúng mình vừa được thừa kế căn hộ hai trăm mét vuông trong một khu phố xịn ở bìa rừng, còn em, em lại đi nói công việc với anh! Em không biết tận hưởng những giờ phút này sao?
Anh muốn ôm ghì cô, cô lùi lại.
- Có chứ, em biết, nhưng em cũng biết nghĩ tới tương lai. Em, em chẳng có công việc nào, anh thì thất nghiệp, chúng ta sẽ sống ra sao trong một năm nữa?
- Chúng ta vẫn còn khoản tiết kiệm.
- Đừng có ngốc thế, chúng ta có thể sống lay lắt trong mấy tháng, còn sau đó…
Cô đặt mấy ngón tay nhỏ nhắn lên hông rồi ưỡn ngực.
- Nghe này Jonathan, anh mất việc vì anh không muốn đi đến các khu phố nguy hiểm vào buổi tối. Đồng ý, em hiểu, nhưng anh phải tìm việc gì đó ở nơi khác chứ!
- Tất nhiên, anh sẽ tìm việc, ít ra để cho anh thay đổi ý nghĩ đã. Anh hứa với em là sau đó, xem nào, một tháng nữa, anh sẽ đăng quảng cáo tìm việc.
Một mái tóc vàng xuất hiện, ngay sau đó là một con thú bông cắm trên mấy cái chân. Nicolas và Ouarzazate.
- Bố ơi, lúc nãy có một ông tới để đóng sách.
- Sách? Sách nào cơ?
- Con không biết, ông ấy nói về một quyển bách khoa toàn thư lớn mà ông Edmond viết.
- À thế à, sau đó sao… Ông ấy có vào nhà không? Hai người có tìm thấy nó không?
- Không, ông ấy có vẻ không tử tế lắm, và dù sao thì cũng không có quyển sách…
- Hoan hô, con trai, con làm đúng lắm.
Tin này làm Jonathan bối rối, sau đó là tò mò. Anh lục lọi trong tầng hầm rộng thênh thang, vô ích. Sau đó, anh đứng một lúc lâu trong bếp, kiểm tra cánh cửa kho chứa đồ, ổ khóa to đùng và cái khe rộng của nó. Vậy nó sẽ mở ra điều bí ẩn gì?
Phải chui vào bụi này.
Ý kiến được một trong những nhà thám hiểm già nhất đưa ra. Tạo thế “rắn đầu to”, cách tốt nhất để tiến lên trong vùng đất không hiếu khách. Nhất trí ngay lập tức, tất cả chúng đều cùng lúc có chung ý kiến.
Phía trước, năm trinh sát xếp thành hình tam giác ngược tạo thành mắt cho cả đội. Từng bước nhỏ thận trọng, chúng thăm dò đất, hít không khí, kiểm tra các đám rêu. Nếu mọi việc đều ổn, chúng tung một tin thông qua khứu giác báo cho biết: “Không có gì đằng trước!” Sau đó, chúng quay lại phía sau đội để cho những người “mới” lên thay thế. Hệ thống quay vòng kiểu này biến nhóm thám hiểm thành một dạng động vật dài có “cái vòi” luôn siêu nhạy.
Câu “Không có gì đằng trước!” vang lên rõ rệt chừng hai mươi lần. Lần thứ hai mươi mốt bị ngắt bởi một tiếng lạc giọng ghê rợn. Một trong số các con trinh sát vừa vô tình tiến gần một cây ăn thịt. Một cây bắt ruồi. Hương thơm mê hồn quyến rũ nó, nhựa của cây giữ chân nó.
Từ lúc đó, mất hết. Sự tiếp xúc với lớp lông bề mặt khởi động bộ máy của khớp bản lề cơ học. Hai tán lá rộng có khớp khép chặt lại. Những cái tua dài tạo thành răng. Đan vào nhau, chúng biến thành những thanh cứng. Khi nạn nhân hoàn toàn bị đè bẹp, cây ăn thịt tiết ra các enzim háu ăn nhất, có khả năng tiêu hóa các loại vỏ dai nhất.
Con kiến tan ra như thế. Toàn thân nó biến thành nhựa sủi bọt. Nó thở hắt ra tuyệt vọng.
Nhưng không thể làm gì cho nó được nữa. Điều đó thuộc về những yếu tố khó lường chung trong mọi cuộc thám hiểm xa. Chỉ còn mỗi cách phải báo hiệu “Chú ý nguy hiểm” ở các khu vực phụ cận cái bẫy thiên nhiên này.
Chúng lại tiếp tục theo con đường tỏa mùi và quên tai nạn đi. Các pheromon[3] dấu vết chỉ đi hướng này. Qua các lùm cây, chúng tiếp tục đi về phía Tây. Luôn ở góc 23° so với ánh sáng mặt trời. Chúng nghỉ một chút, khi thời tiết quá lạnh hoặc quá nóng. Chúng phải hoàn thành thật nhanh nếu như không muốn trở về giữa chiến trận.
Các nhà thám hiểm đã từng chứng kiến cảnh thành trì của mình bị quân đội kẻ thù vây hãm khi trở về. Và phá vòng vây chưa bao giờ là việc dễ dàng cả.
Thế là xong, chúng vừa tìm thấy pheromon dấu vết chỉ lối vào hang. Một luồng hơi nóng từ đất bốc lên. Chúng tiến sâu vào trong vùng đất sỏi đá.
Càng xuống sâu, chúng càng nhận ra tiếng róc rách nhỏ của một cái rãnh. Đó là nguồn nước nóng. Nó bốc hơi và tỏa mùi lưu huỳnh nặng.
Chúng trầm mình.
Một lúc, chúng nhìn thấy một con vật buồn cười: trông như một quả bóng có nhiều chân thì đúng hơn. Thực ra, đó là một con bọ hung đang đẩy cục phân bò lẫn cát mà trứng của nó được bọc ở bên trong. Giống như một Atlas huyền thoại, nó đỡ “thế giới” của mình. Khi dốc thoai thoải, cục phân tự trượt và nó đuổi theo. Trường hợp ngược lại, nó thở hổn hển, bị trượt chân và thường phải đi tìm lại cục phân ở phía dưới. Thật ngạc nhiên khi thấy một con bọ hung ở đây. Đó là một con vật xứ nóng…
Dân Bel-o-kan để nó qua. Dù sao thì thịt nó cũng không ngon lắm, và cái mai của nó khiến nó quá nặng đối với việc vận chuyển.
Một bóng đen lẩn sang bên trái chúng để trốn trong cái hốc ngoằn ngoèo của tảng đá. Một con xâu tai. Con này, trái lại, rất ngon. Nhà thám hiểm già nhất là con nhanh nhất. Nó đưa bụng dưới lên cổ, đặt vào vị trí bắn đồng thời giữ thăng bằng bằng chân sau, ngắm theo bản năng và phóng từ rất xa một giọt axít fomic. Cái chất ăn mòn đặc trên 40 phần trăm rẽ không gian.
Trúng.
Con xâu tai chết ngay tại trận. Axít đặc 40 phần trăm không phải là nước sữa. Với nồng độ 40 phần nghìn, nó gây buốt, vậy thì ở 40 phần trăm, nó phải hạ gục! Con côn trùng đổ sụp xuống, và tất cả xúm lại ngấu nghiến ăn thịt cháy của nó. Các nhà thám hiểm mùa thu đã để lại pheromon tốt. Khu này có vẻ có nhiều thú săn. Cuộc đi săn hứa hẹn tốt đẹp đây.
Chúng đi xuống một cái giếng phun và khủng bố tất cả các loài vật dưới lòng đất cho tới giờ còn chưa được biết tới. Một con dơi định chấm dứt cuộc viếng thăm của chúng, nhưng chúng đuổi nó bằng cách phủ nó dưới một đám mây axít fomic.
Những ngày tiếp theo, chúng tiếp tục càn quét cái hang nóng, tích lũy xác lột của những con vật trắng nhỏ và những mẩu nấm màu xanh nhạt. Bằng học tuyến hậu môn của mình, chúng rải rác pheromon dấu vết mới cho phép chị em chúng tới săn mà không gặp trở ngại gì.
Nhiệm vụ đã hoàn thành. Lãnh thổ vươn thêm một cánh tay tới tận đây, vượt qua bụi rậm đằng Tây. Chất đầy lương thực, khi sắp lên đường trở về, chúng dựng lá cờ liên bang bằng hóa chất. Mùi của nó lan tỏa trong không khí: “BEL-O-KAN!”
- Anh có thể nhắc lại được không?
- Wells, cháu là cháu của bác Edmond Wells.
Cửa mở ra một người đàn ông cao gần hai mét.
- Bác Jason Bragel?... Xin lỗi vì làm phiền bác nhưng cháu mong được nói chuyện với bác về bác của cháu. Cháu không biết bác ấy và bà ngoại cho cháu biết bác là bạn thân nhất của bác ấy.
- Thế thì vào đi… Anh muốn biết gì về Edmond?
- Tất cả. Cháu không biết bác ấy và cháu rất tiếc về điều đó…
- Hừm. Tôi hiểu. Dù sao thì Edmond thuộc kiểu những bí ẩn sống.
- Bác biết bác ấy rõ không?
- Ai có thể tự nhận là biết rõ người nào đó? Nói là hai chúng tôi luôn sát cánh bên nhau và không phải ông ấy mà cũng chẳng phải tôi thấy có trở ngại gì trong chuyện đó cả.
- Các bác quen nhau như thế nào?
- Ở khoa Sinh học. Tôi nghiên cứu cây, còn ông ấy nghiên cứu vi khuẩn.
- Thế vẫn còn là hai thế giới song song.
- Đúng, ngoại trừ là thế giới của tôi dù sao cũng hoang dại hơn, - Jason Bragel vừa đính chính vừa chỉ vào đống cây xanh lộn xộn ngập phòng ăn của mình. - Anh thấy chúng chưa? Tất cả chúng đều cạnh tranh nhau, sẵn sàng giết nhau vì một tia sáng hay vì một giọt nước. Ngay khi một chiếc lá nằm trong bóng tối, cây bỏ nó luôn và những chiếc lá bên cạnh mọc lên rộng hơn. Thực vật thật sự là một thế giới nhẫn tâm…
- Thế còn vi khuẩn của bác Edmond?
- Chính ông ấy tuyên bố là ông ấy chỉ nghiên cứu tổ tiên của mình. Kiểu ông ấy muốn ngược lên cao hơn một chút so với mức bình thường trong cây phả hệ…
- Tại sao lại là vi khuẩn? Sao không phải là khỉ hay cá?
- Ông ấy muốn hiểu tế bào ở giai đoạn nguyên thủy nhất của nó. Theo ông ấy, con người chỉ là một tổ hợp tế bào, cần phải hiểu cặn kẽ “tâm lý” của một tế bào để suy ra hoạt động của tổng thể. “Một vấn đề vô cùng phức tạp, thực tế chỉ là tập hợp những vấn đề đơn giản.” Ông ấy đã theo câu ngạn ngữ này đúng từng ly từng tí.
- Bác ấy chỉ nghiên cứu mỗi về vi khuẩn à?
- Không, không. Đó là một người bí hiểm, một bác sĩ đa khoa thật sự, ông ấy muốn biết tất. Ông ấy cũng có những ý ngông của mình… ví dụ, muốn kiểm soát được nhịp đập của tim mình.
- Nhưng đó là điều không thể làm được!
- Hình như một vài người tập yoga Hin-đu và Tây Tạng đã lập được kỳ tích này.
- Để làm gì cơ chứ?
- Tôi không biết… Ông ấy muốn làm được điều đó để có thể tự tử bằng cách cho tim ngừng đập theo ý mình. Ông ấy nghĩ là có thể rời khỏi cuộc chơi bất cứ lúc nào.
- Có ích gì cơ chứ?
- Có thể ông ấy sợ đau đớn liên quan đến tuổi già.
- Hừm… Bác ấy làm gì sau khi nhận bằng tiến sĩ sinh học ạ?
- Ông ấy đi làm cho tư nhân, một công ty sản xuất vi khuẩn sống làm sữa chua “Sweetmilk Corporation”. Mọi việc tiến triển tốt với ông ấy. Ông ấy đã khám phá ra một loại vi khuẩn không chỉ có khả năng làm dậy vị mà cả mùi nữa! Ông ấy đạt giải phát minh hay nhất năm 63 nhờ nó…
- Rồi sau đó ạ?
- Sau đó ông ấy kết hôn với một cô gái Trung Quốc. Linh Mỹ. Một cô gái dịu dàng, hay cười. Ông ấy, một người hay càu nhàu đột nhiên hiền đi. Ông ấy rất si tình. Từ lúc đó, tôi gặp ông ấy ít đi. Đó là lẽ thường thôi.
- Cháu nghe nói bác ấy đã từng sang châu Phi.
- Đúng, nhưng sau này ông ấy mới đi.
- Sau cái gì cơ?
- Sau một bi kịch. Linh Mỹ bị bệnh máu trắng. Ung thư máu, nó chẳng tha gì. Trong vòng ba tháng, cuộc sống giã từ cô. Con người đáng thương ấy… ông ấy từng tuyên bố thẳng thừng các tế bào rất thú vị, và con người là không đáng kể… bài học ác nghiệt. Và ông ấy chẳng làm được gì nữa. Đồng thời với tai họa này, ông ấy cãi nhau với đồng nghiệp ở “Sweetmilk Corporation”. Ông ấy bỏ việc để rồi suy sụp trong căn hộ của mình. Linh Mỹ mang lại cho ông ấy niềm tin vào tình người, mất cô ấy khiến ông ấy lại rơi vào tình trạng ghét con người.
- Bác ấy đi châu Phi để quên Linh Mỹ?
- Có thể thế. Dù thế nào thì ông ấy cũng rất muốn hàn gắn vết thương bằng cách cống hiến nhiệt huyết cho sự nghiệp sinh học của mình. Chắc ông ấy đã tìm thấy một đề tài nghiên cứu thú vị khác. Tôi không biết chính xác, nhưng không phải là vi khuẩn nữa. Ông ấy đến châu Phi có thể là vì ở đó, đề tài dễ xử lý hơn. Ông ấy gửi cho tôi một tấm thiệp, ông ấy chỉ giải thích là đang ở cùng một nhóm nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia, và ông ấy làm việc với một ông Giáo sư Rosenfeld nào đó. Tôi không biết ông này.
- Sau đó bác có gặp lại Edmond không?
- Có, một lần tình cờ, trên đại lộ Champs-Elysées. Chúng tôi nói chuyện với nhau một chút. Rõ ràng ông ấy yêu đời hơn. Nhưng ông ấy vẫn tỏ thái độ thoái thác, ông ấy khéo léo tránh tất cả các câu hỏi của tôi về công việc.
- Hình như bác ấy viết một cuốn bách khoa toàn thư.
- Cái đó à, có từ lâu rồi. Đó là việc lớn của ông ấy. Tập hợp tất cả những gì ông ấy biết trong một tác phẩm.
- Bác đã từng nhìn thấy nó chưa?
- Chưa. Tôi cũng không tin là ông ấy đã cho bất kỳ ai xem. Tôi biết Edmond, ông ấy chắc phải giấu nó tận đáy sâu vùng Alaska với một con rồng phun lửa để bảo vệ. Đó là mặt “đại phù thủy” của ông ấy.
Jonathan chuẩn bị chào từ biệt.
- À! Một câu hỏi nữa ạ: bác có biết làm thế nào để xếp bốn hình tam giác bằng nhau với sáu que diêm không?
- Tất nhiên. Đó là bài trắc nghiệm trí thông minh yêu thích nhất của ông ấy.
- Thế đáp án là gì ạ?
Jason phá lên cười.
- Thế thì, chắc chắn tôi sẽ không cho anh biết đâu! Như Edmond đã nói: “Mỗi người tự tìm ra cách của mình.” Và anh sẽ thấy, sự thỏa mãn khi tìm ra đáp án sẽ tăng lên gấp bội.
Với tất cả chỗ thịt trên lưng, đoạn đường về dường như dài hơn cả con đường lúc đi. Cả đoàn tiến nhanh để khỏi bị sự khắc nghiệt của đêm tối đánh úp.
Kiến có khả năng làm việc hai mươi tư trên hai mươi tư giờ từ tháng Ba tới tháng Mười một, không chút nghỉ ngơi; tuy nhiên, mỗi lần nhiệt độ giảm lại khiến chúng ngủ. Chính vì thế mà hiếm khi thấy một cuộc hành trình nào kéo dài hơn một ngày.
Từ lâu tổ kiến đỏ hung đã xem xét vấn đề này. Nó biết rằng mở rộng các khu vực săn bắt và khám phá những đất nước xa xôi, nơi có các loài cây khác mọc lên và những loài vật khác sinh sống cùng những tập tục khác, là quan trọng.
Cách đây tám trăm năm mươi nghìn năm, Bi-stin-ga, một kiến chúa của triều đại Ga (triều đại miền Đông, diệt vong từ trăm nghìn năm nay), đã có tham vọng điên rồ là biết được “những điểm tận cùng” của thế giới. Nó đã cử hàng trăm cuộc viễn chinh đi bốn phương. Chưa bao giờ có một đoàn nào trở về.
Kiến chúa hiện nay, Belo-kiu-kiuni, không tham vọng như thế. Tính tò mò của kiến chúa chỉ dừng lại ở việc khám phá ra những con bọ cánh cứng nhỏ màu vàng giống như những viên đá quý (mà người ta có thể tìm thấy ở miền Nam xa xôi), hoặc ngắm nghía những cây ăn thịt mà người ta mang về cho nó, đôi khi vẫn còn sống với đầy đủ rễ, và nó muốn một ngày nào đó sẽ thuần hóa được cây này.
Belo-kiu-kiuni biết rằng cách tốt nhất để khám phá những lãnh địa mới là phải tiếp tục mở rộng Liên bang. Luôn phải có nhiều cuộc thám hiểm xa hơn, nhiều tổ cái hơn, nhiều đồn tiền tiêu hơn và người ta sẵn sàng chiến đấu với bất kỳ ai định ngăn cản sự phát triển này.
Chắc chắn cuộc chinh phục điểm tận cùng thế giới sẽ dài, nhưng chính sách tiến từng bước nhỏ thận trọng hoàn toàn phù hợp với triết lý chung của loài kiến. “Chậm nhưng luôn tiến trước.”
Ngày nay, Liên bang Bel-o-kan có 64 tổ cái. 64 tổ có cùng một mùi. 64 tổ nối với nhau bằng hệ thống 125 km đường đào và 780 km đường tỏa mùi. 64 tổ đoàn kết trong chiến đấu