← Quay lại trang sách

Chú Thích

.

[1] "Trước lúc hành hình uống bát rượu mẹ đưa, thế gian này chẳng có gì đáng sợ. Chim gáy mở tiệc mừng cùng tôi kết bạn, ngàn chén vạn ly tự tạc thù": Trích đoạn trong vở kịch Hồng đăng kí , vở kịch nổi tiếng và rất được hoan nghênh trong bộ tám vở kịch nêu gương thời Đại Cách mạng Văn hóa Trung Quốc (1966-1976) (N.d) (Mọi chú thích trong tiểu thuyết này đều là của người dịch).

⚝ ✽ ⚝

[2] Dự - tên gọi tắt của tỉnh Hà Nam, Ngạc - tên gọi tắt của tỉnh Hồ Bắc.

⚝ ✽ ⚝

[3] Trong hoàn cảnh khốn khó, tìm được lối thoát. Nguyên câu thơ là của Lục Du "Sơn cùng thuỷ tận nghi vô lộ, liễu ám hoa minh hựu nhất thôn" - Sơn cùng thuỷ tận ngờ hết lối, liễu rủ hoa cười lại gặp làng.

⚝ ✽ ⚝

[4] Đại Trại: một thôn ở tỉnh Sơn Tây Trung Quốc, thôn Cách mạng kiểu mẫu trong thời Cách mạng Văn hóa.

⚝ ✽ ⚝

[5] Hai câu thơ của Mao Trạch Đông, thể hiện ý: chờ đến ngày nắng lên sau tuyết, xem sắc đỏ của mặt trời và sắc trắng của tuyết phản chiếu nhau, cảnh sắc lộng lẫy diễm lệ. Cái đã qua thì đều đã qua rồi, muốn tìm người ưu tú, phong lưu thì hãy tìm trong hiện tại, đừng tìm trong quá khứ làm gì.

⚝ ✽ ⚝

[6] Gió thổi hạc kêu: chỉ nỗi sợ bóng gió, bắt nguồn từ tích thời Tiên Tần, quân Phù Kiên ở phương Bắc bị quân Tấn đánh bại, trên đường tháo chạy nghe tiếng hạc kêu, lại ngỡ là quân Tấn truy đuổi

⚝ ✽ ⚝

[7] Trời nếu có tình thì trời cũng sẽ già đi (thơ Mao Trạch Đông).

⚝ ✽ ⚝

[8] Nguyên tác: Tứ hải phiên đằng vân thủy nộ, ngũ châu chấn đãng phong lôi kích. Dịch nghĩa: bốn biển cuồn cuộn nộ khí của mây và nước, cả Trung Hoa chấn động gió chớp nổi lên (thơ Cách mạng)

⚝ ✽ ⚝

[9] Cổng đá: Kiến trúc thường thấy ở Trung Quốc, được xây để tưởng niệm những người có công lao với đất nước.

⚝ ✽ ⚝

[10] Nguyên tác: Hùng quan mạn đạo chân như thiết/ Nhi kim mại bộ tòng đầu việt. Dịch nghĩa: Đừng nói cửa ải hiểm yếu nhu sắt thép, cho dù gian khổ khó khăn, nhưng ta sẽ bắt đầu từ những bước đầu tiên (Thơ Mao Trạch Đông).

⚝ ✽ ⚝

[11] Câu nói của Tôn Trung Sơn dặn dò trước lúc qua đời.

⚝ ✽ ⚝

[12] Bát lộ quân: tiền thân của quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.

⚝ ✽ ⚝

[13] "Cách mạng không phải là mời khách ăn cơm": Câu nói của Mao Trạch Đông được nhiều người dân Trung Quốc lúc bấy giờ xem như đạo lý răn dạy.

⚝ ✽ ⚝

[14] Xích huyện: chỉ Trung Quốc, thời chiến quốc, Trung Quốc được gọi là Xích Huyện Thần Châu. Nguyên tác: "Dạ trường nan miên Xích Huyện thiên", câu này lấy lại ý từ câu thơ "Dạ trường nan minh xích huyện thiên" của Mao Trạch Đông, thể hiện ý: đến khi nào Trung Quốc mới có thể bước ra khỏi đêm đen dài dặc. Tác giả chỉ đổi chữ "minh" thành chữ "miên", chuyển từ "đêm trường khó sáng" thành "đêm trường khó ngủ".

⚝ ✽ ⚝

[15] Ba phong trào Cách mạng lớn trong Cách mạng văn hóa là: đấu tranh giai cấp, đấu tranh sản xuất và thực nghiệm khoa học.

⚝ ✽ ⚝

[16] Dưới các cổng tưởng niệm đá, thường có các hòn đá lên ngựa, xuống ngựa, ra dấu người đi qua đó chỗ nào thì được lên ngựa đi, chỗ nào thì phải xuống ngựa, thể hiện nghi thức thời phong kiến.

⚝ ✽ ⚝

[17] Tôi mất Kiêu Dương người mất liễu/ Dương liễu nhẹ bay chín tầng mây/ Xin hỏi Ngô Cương có những gì/ Ngô Cương bưng ra rượu quế hoa: hai câu thơ của Mao Trạch Đông trong bài "Điệp luyến hoa. Đáp Lý Thục Nhất". Nguyên tác chữ Hán: "Ngã thất kiêu dương quân thất liễu/ Dương liễu khinh, trực thượng trùng tiêu cửu". Kiêu Dương: chỉ Dương Khai Huệ, vợ của Mao Trạch Đông, dương liễu (liễu) chỉ Liễu Trực Tuần, chồng Lý Thục Nhất, Liễu Trực Tuần là bạn tốt, chiến hữu của Mao Trạch Đông, hy sinh năm 1923 ở Hồ Bắc. Hai câu này chỉ sự mất mát lớn của cả Mao Trạch Đông và Lý Thục Nhất, nhưng phu nhân, phu quân của họ dù hi sinh nhưng vẫn sống bất tử cùng trời đất. Ngô Cương: Ngô Cương, nhân vật trong thần thoại Trung Quốc, bị hoàng đế trừng phạt chặt cây quế trong cung trăng. Khi ta ngửa mặt nhìn trăng, thấy trong trăng có chút bóng cây và người, truyền thuyết nói đó chính là ngô Cương chặt cây quế. Cây quế trong cung trăng cao đến năm trăm trượng, gốc quế thần này không chỉ to, mà còn có thể tự mình làm lành vết rìu. Ngô Cương trong cung trăng, vốn là một tiều phu, say sưa tiên đạo nên không may phạm phải giới trời, do đó thiên đế nổi giận, đuổi ông ta đến cung trăng cô đơn, yêu cầu ông ta trước cung Quảng Hàn chặt cây quế, chỉ có chặt đổ cây quế mới có thể miễn tội. Nhưng mỗi khi Ngô Cương chặt một nhát rìu, vết thương trên cây lập tức liền lại, cho nên ông ta đành phải không ngừng chặt tiếp.

⚝ ✽ ⚝

[18] Gạch mộc: gạch phơi nắng không nung.

⚝ ✽ ⚝

[19] Nội tường: thư không ghi rõ tên và địa chỉ của người gửi.

⚝ ✽ ⚝

[20] Một trong hai mươi tư tiết, vào ngày mùng năm hoặc 6 tháng 3.

⚝ ✽ ⚝

[21] Cửu Châu: tức Trung Quốc.

⚝ ✽ ⚝

[22] Tiểu tướng: chỉ các hồng vệ binh.

⚝ ✽ ⚝

[23] Ngữ lục Mao Chủ tịch: là cuốn sách tuyển tập những câu danh ngôn, lời dạy của Chủ tịch Mao Trạch Đông được biên soạn vào đầu thập niên 60 thể kỉ 20, thịnh hành ở Trung Quốc thời Đại Cách mạng Văn hóa, thậm chí là trên toàn thế giới. Lượng phát hành cuốn sách đạt tới 5 tỉ bản, đứng thứ hai thế giới (chỉ sau Kinh Thánh). Bởi vì bản thịnh hành nhất có bìa màu đỏ, lại là những lời nói kinh điển của lãnh đạo Cách mạng, cho nên trong Đại Cách mạng Văn hóa được gọi phô biến là "sách hồng bảo".

⚝ ✽ ⚝

[24] Tam Tiên Cô, Tiểu Nhị Hắc, Tiểu Cần: ba nhân vật trong tiểu thuyết Đảm cưới của Tiểu Nhị Hắc của Triệu Thụ Lý.

⚝ ✽ ⚝

[25] Chim sẻ chiến: một phương thức chiến đấu mà đội dân binh Trung Quốc sử dụng thời kháng Nhật, lấy yếu chống mạnh, dùng phương pháp du kích.

⚝ ✽ ⚝

[26] Tiểu mãn: một tiết trong 24 tiết trong năm, vào ngày 20, 21, 22 tháng 5.

⚝ ✽ ⚝

[27] Đoạn này tác giả phỏng lại theo lời vở kinh kịch Bình nguyên tác chiến trong bộ Kịch nêu gương thời Cách mạng văn hóa. Nguyên tác lời hát trong Bình nguyên tác chiến như sau: Tua ngô đỏ trên đồng xanh ngút ngàn vô tận/ Xuống đồi sửa hầm dám rời cả núi/ Máu nóng của mẹ già/ Tưới nhuần đất đai chiến đấu/ Hạt giống hận thù/ Tất có ngày kết trái khai hoa/ Đảng Cộng sản là người mẹ dưỡng dục tôi/ Dân và quân Cách mạng trái tim hồng khăng khít/ Lập tráng chí làm người con trai con gái tốt của Trung Hoa/ Dựng hùng tâm giơ cao ngọn cờ kháng Nhật.

⚝ ✽ ⚝

[28] (1) Tam hạ: thu hoạch mùa hạ, trồng trọt mùa hạ, quản lí và chăm sóc mùa hạ.

⚝ ✽ ⚝

[29] Đá sống: đá không có xi măng gắn két, gồ ghề, do đó giữa các khe đá có nhiều khe hở.

⚝ ✽ ⚝

[30] Đây là một bài từ của Mao Trạch Đông, thể hiện ý nghĩa những hoàng đế như Tần Thủy Hoàng, Đường Thái Tông, Tống Thái Tổ, đêu là những hoàng đê vĩ đại, sáng lập nên những triều đại phong kiến Trung Quốc, nhưng mỗi người đều có chỗ thiếu sót của mình, đều không đáng ngưỡng mộ, còn trong thời đại Mao Trạch Đông, nhân dân là người đang sáng tạo nên lịch sử, nhân dân còn vĩ đại hơn những hoàng đế này.

⚝ ✽ ⚝

[31] Công tặc: Những kẻ thuộc giai cấp công nhân làm tay sai cho tư bản, phản bội giai cấp công nhân.

⚝ ✽ ⚝

[32] Ngũ bảo: Những người bị mất sức lao động hoặc chưa đến tuổi lao động được nhà nước trợ cấp thời Cách mạng văn hóa, chia làm năm loại, gọi là "ngũ bảo": Già, yếu, cô, quả, tàn tật.

⚝ ✽ ⚝

[33] Ăn cỏ, vắt sữa: câu văn của Lỗ Tấn, mượn hình ảnh trâu bò ăn cỏ nhung lại cho sữa, hàm ý nhận được ít nhưng cống hiến nhiều, chí công vô tư.

⚝ ✽ ⚝

[34] "Chính quyền sinh ra từ cây súng": câu nói nổi tiếng trong phương châm Cách mạng của Mao Trạch Đông.

⚝ ✽ ⚝

[35] Chỉ Đế quốc Mỹ và phe xét lại Xô Viết.

⚝ ✽ ⚝

[36] Liễu ám hoa minh hựu nhất thôn: Câu thơ là của Lục Du "Sơn cùng thuỷ tận nghi vô lộ, liễu ám hoa minh hựu nhất thôn" - Sơn cùng thuỷ tận ngờ hết lối, liễu rủ hoa cười lại gặp làng, thể hiện ý có hi vọng, trong hoàn cảnh khốn khó tìm được lối thoát.

⚝ ✽ ⚝

[37] Bế môn tạo xa: nhắm mắt làm liều; xa rời thực tế; đóng cửa làm xe không quan sát đường sá (ví với chỉ theo ý chủ quan của mình mà làm việc, không cân biết đên thực tế khách quan).

⚝ ✽ ⚝

[38] Vui nhìn thóc đậu ngàn trùng sóng/ Khắp đất anh hùng trong tịch dương: là hai câu thơ trong bài thơ thất luật "Đến Thiều Sơn" của Mao Trạch Đông, thể hiện ý tác giả đứng trên núi cao, vui mừng nhìn xuống dưới những ruộng lúa, hoa màu trong gió như những lớp sóng xô nhau, nhìn những người nông dân làm đồng xong về nhà như những anh hùng sáng tạo nên lịch sử.

⚝ ✽ ⚝

[39] Những người bị mất sức lao động hoặc chưa đến tuổi lao động được nhà nước trợ cấp thời Cách mạng văn hóa, chia làm năm loại, gọi là "ngũ bảo": Già, yếu, cô, quả, tàn tật.

⚝ ✽ ⚝

[40] Đập nồi dìm thuyền: dựa theo tích: Hạng Vũ đem quân đi đánh Cự Lộc, sau khi qua sông thì dìm hết thuyền, đập vỡ nồi niêu để binh sĩ thấy không có đường lui, thể hiện ý phải quyết tâm đánh thắng.

⚝ ✽ ⚝

[41] Địa - phú - phản - hoại - hữu là cách gọi tắt của năm loại địa chủ, phú nông, phản Cách mạng, phần tử xấu và phái hữu, còn gọi là "hắc ngũ loại" (năm loại đen). Trong nhiều phong trào chính trị từ thập niên 50 đến 70 ở Trung Quốc, đặc biệt là thời kì Đại Cách mạng Văn hóa 1966 - 1976, là đối tượng đả đảo chủ yếu của phong trào.

⚝ ✽ ⚝

[42] Một câu trong bài hát Cách mạng Hành khúc chiến đấu của Trung Quốc.

⚝ ✽ ⚝

[43] Công bằng: loài cá lớn và loài chim lớn trong truyền thuyết thời xưa, cũng chỉ loài đại bàng do loài cá côn hòa thành trong "Tiêu giao du" của Trang Tử.

⚝ ✽ ⚝

[44] Vạn lý trường chinh: tên đầy đủ là Nhị vạn ngũ thiên lý trường chinh, là một cuộc rút lui quân sự của Hồng Quân Công Nông Trung Hoa, với hành trình dài 25 ngàn dặm (12.000 km), bắt đầu từ Giang Tây, tiến về phía tây tới Tây Tạng rồi đi ngược lên phía bắc, đến tận Diên An của tỉnh Thiểm Tây. Trong cuộc Vạn lý Trường chinh, kéo dài 370 ngày từ 16 tháng 10 năm 1934 đến ngày 19 tháng 10 năm 1935, Hồng quân luôn luôn bị quân của Tưởng Giới Thạch truy kích và phải đương đầu với núi cao, sông rộng, đói khát, bệnh tật và tuyết lạnh. Khi khởi đầu cuộc rút lui, Hồng quân có hơn 86 ngàn người, nhưng khi kết thúc cuộc Vạn lý Trường chinh, số Hồng quân sống sót chỉ còn ít hơn 7 ngàn (Theo Từ điển Bách khoa mở wikipedia.com)

⚝ ✽ ⚝

[45] Tiểu táo: tiêu chuẩn ăn tập thể cao nhất, phân biệt với trung táo và đại táo.

⚝ ✽ ⚝

[46] Kịch nêu gương: tên gọi đầy đủ là "kịch nêu gương Cách mạng", là tên gọi chung của tám vở kinh kịch, kịch vũ ba lê,… có nội dung Cách mạng trong Đại Cách mạng Văn hóa. Tám vở kịch gồm: "Dùng mưu lấy Uy Hổ Sơn", "Hồng đăng ký", "Sa gia bang", "Hải cảng", "Long giang tụng", "Tập kích bạch hổ đoàn", "Bạch mao nữ", "Hồng sắc nương tử quân", "Đỗ quyên sơn", "Binh nguyên tác chiến".

⚝ ✽ ⚝

[47] Đoạn thơ này được tạo thành nhờ việc ghép các câu thơ trong các bài thơ khác nhau của Mao Trạch Đông lại với nhau. Mênh mang mưa như khói, rùa rắn khóa sông dài: chỉ tỉnh thế Cách mạng khó khăn. Rùa, rắn chỉ núi rùa, núi rắn, bắt nguồn từ truyền thuyết Đại Vũ trị thủy, chỉ hai dãy núi lớn ở Vũ Hán đã khóa chặt dòng chảy Trường Giang lại; Chợt báo nhân gian từng phục hổ, lệ bay như mưa trút ngang trời: Hai câu kết trong bài "Điệp luyến hoa - đáp Lý Thục Nhất", thể hiện ý chợt được báo tin nhân dân Trung Quốc đánh bại phái phản động Quốc dân Đảng, đất nước được thống nhất, tác giả vui mừng lệ rơi như trút.

⚝ ✽ ⚝

[48] Đồng Tồn Thụy, sinh năm 1929, người tỉnh Hà Bắc. Là chiến sĩ anh hùng, tấm gương của đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tháng 5 năm 1948, trong cuộc chiến đấu giải phóng huyện Long Hóa (tỉnh Hà Bắc), đã lấy thân làm giá, tay ôm thuốc nổ, làm nổ tung căn cứ của quân Quốc dân Đảng, hi sinh anh dũng khi mới 19 tuổi.

⚝ ✽ ⚝

[49] Chung sơn: chỉ Tử Kim sơn, ngọn núi phía đông của Nam Kinh, Hai câu "Chung sơn mưa gió giật bàng hoàng/ Trăm vạn hùng binh qua đại giang" vốn là hai câu thơ của Mao Trạch Đông trong bài "Thất luật. Quân giải phóng nhân dân chiếm lĩnh Nam Kinh" (tháng 4.1949), ý nghĩa chỉ Nam Kinh bất ngờ bị phong ba Cách mạng tập kích. Nguyên tác chữ Hán: "Chung sơn phong vũ khởi thương hoàng/ Bách vạn hùng sư quá đại giang".

⚝ ✽ ⚝

[50] Gió xuân dương liễu xanh muôn sợi/ Lục ức Thần Châu hóa Thuấn Nghiêu", là hai câu thơ trong bài "Tống ôn thần" của Mao Trạch Đông. Nguyên tác chữ Hán: "Phong xuân dương liễu vạn thiên điều/ Lục ức Thần Châu tận Thuấn Nghiêu", thể hiện ý mùa xuân đến, dương liễu rủ vạn ngàn tơ lá xanh tươi, sáu trăm triệu người dân Trung Quốc đều giống như những vị vua Nghiêu vua Thuấn anh minh, thần thánh.

⚝ ✽ ⚝

[51] Tôi mất Kiêu Dương người mất liễu/ Dương liễu vút bay chín tầng mây: hai câu thơ của Mao Trạch Đông trong bài "Điệp luyến hoa. Đáp Lý Thục Nhất". Nguyên tác chữ Hán: "Ngã thất kiêu dương quân thất liễu/ Dương liễu khinh, trực thượng trùng tiêu cửu". Kiêu Dương: chỉ Dương Khai Huệ, vợ của Mao Trạch Đông, dương liễu (liễu) chỉ Liễu Trực Tuần, chồng Lý Thục Nhất, Liễu Trực Tuần là bạn tốt, chiến hữu của Mao Trạch Đông, hy sinh năm 1923 ở Hồ Bắc. Hai câu này chỉ sự mất mát lớn của cả Mao Trạch Đông và Lý Thục Nhất, nhưng phu nhân, phu quân của họ dù hi sinh vẫn sống bất tử cùng trời đất.

⚝ ✽ ⚝

[52] Hai câu này được rút trong bài từ "Tẩm nguyên xuân" của Mao Trạch Đông. Tương Giang: con sông lớn nhất của tỉnh Hồ Nam, Quất Tử Châu: còn gọi là Thủy Lục Châu, là hòn đảo nhỏ, hẹp và dài trong sông Tương Giang.

⚝ ✽ ⚝

[53] Hai câu này trích trong bài "Mười sáu chữ lệnh" của Mao Trạch Đông. Ý nghĩa là: "Núi, không xuống yên mà thúc ngựa. Kinh hãi quay đầu cách trời ba thước ba", câu này được gợi ý từ câu ca dao Trung Quốc: "Trên có núi Cô Lâu, dưới có núi Bát Bảo, cách trời ba thước ba" (Cô Lâu và Bát Bảo chỉ nghĩa địa, nơi người ta sẽ đến sau khi chết). "Núi, sông cuộn biển trào dâng sóng lớn. Phi như bay, vạn mã tương tàn": thể hiện ý núi cũng có thể dậy sóng giống như sông biển, mà bản thân mình cũng đang ở trong sóng cả này. Thế núi hùng vĩ, hào hùng, như là đang phi chạy, đang gào thét, đang chuyển vần, thế núi như vạn ngàn binh mã chém giết lẫn nhau. Mao Trạch Đông đã phỏng theo ca dao, nhưng ý nghĩa trong câu thơ của ông đã thay đổi: chỉ hành quân gấp để thoát khỏi truy binh, hình dung tốc độ nhanh, cũng để chỉ cảm giác hạnh phúc khi chạy thoát được.

⚝ ✽ ⚝

[54] Tay xách đèn nhìn bốn phía, cấp trên phái người đến Long Than/ Thời gian đã hẹn bảy giờ rưỡi, chính là chờ chuyến xe này/ Nói rằng thế gian chỉ có tinh ruột thịt là nặng/ Theo tôi thì tình giai cấp còn nặng hơn núi Thái Sơn: Những câu này trích trong vở kinh kịch "Hồng đăng ký", nổi tiếng những năm 70 của thế kỷ trước ở Trung Quốc. Nói về ba đời bà cháu Bà nội Lý, Lý Ngọc Hòa, Lý Thiết Mai hiến thân cho sự nghiệp Cách mạng, làm cảm động sâu sắc vô số người Trung Quốc. Những trích đoạn nổi tiếng là "Trẻ con nghèo sớm biết quản việc nhà", "Trước lúc hành hình uống bát rượu mẹ dua","Hùng tâm tráng trí ngút trời mây".

⚝ ✽ ⚝

[55] Hai câu này trích trong vở kịch "Núi Đỗ quyên" trong bộ tám vở kịch nêu gương.

⚝ ✽ ⚝

[56] Hai câu này trích trong vở kịch "Mưa bom bão đạn quân dân không rời" (N.d).

⚝ ✽ ⚝

[57] Dựng chiến trường trên Cửu Long giang, cùng chi viện nối dài tình bạn/ Ngẩng dầu nhìn, đê dài mười dặm người qua lại, chiến tranh trên mặt đất ý chí ngút trời cao. Tôi lập chí, học anh hùng, gánh nặng gánh trên vai, gót chân đứng trên đầu ruộng, trái tim hướng mặt trời hồng, lập nên thời đại mới, để tuổi thanh xuân tỏa ánh hào quang: những câu này trích trong vở kịch "Long Giang tụng", một vở kịch trong tám kịch nêu gương thời Cách mạng văn hóa.

⚝ ✽ ⚝

[58] Ba câu "Hồng quân không sợ viễn chinh nan", "Ngũ Lĩnh trập trùng trêu ngọn sóng", "Kim Sa nước vỗ chân trời ấm" là ba câu thơ trong bài "Trường chinh" của Mao Trạch Đông. Nguyên tác chữ Hán lần lượt là: "Hồng quân bất phạ viễn chinh nan","Ngũ Lĩnh uy di đằng tế lãng", "Kim Sa thuỷ phách vân nhai noãn".

⚝ ✽ ⚝

[59] Thất luật: thể thơ gồm tám câu, mỗi câu bảy chữ.

⚝ ✽ ⚝

[60] Tiếng Hán có bốn thanh chính, quy ước là thanh 1, thanh 2, thanh 3, thanh 4.

⚝ ✽ ⚝

[61] Đây là hai câu thơ trong bài "Tù ca" của Diệp Đình tướng quân - thủ lĩnh của tứ quân Trung Quốc mới, ý nghĩa là những kẻ tham sống sợ chết thì có thể làm phản, từ hang chó chui ra có thể đạt được tự do, còn muốn làm người đường đường chính chính thì thường bị mất tự do, cánh cửa tự do thường đóng chặt.

⚝ ✽ ⚝

[62] Bắc quốc: Chỉ miền Bắc Trung Quốc.

⚝ ✽ ⚝

[63] Chi, hồ, giả, dã: các từ trong văn cổ hay dùng, người hiện đại xem thấy mơ hồ khó hiểu.

⚝ ✽ ⚝

[64] Ngồi ghế hồ: một loại khổ hình tra tấn, vô cùng đau đớn.

⚝ ✽ ⚝

[65] Mưa gió tiễn xuân đi, tuyết bay đón xuân về. Sắc hoa bừng đầy núi, em ẩn trong tươi cười: Những câu này trích trong bài thơ "Vịnh mai" của Mao Trạch Đông, thể hiện ý: mưa gió vừa mới tiễn xuân đi thì tuyết đầy trời lại đem xuân đến, chờ cho đến khi hoa bừng nở đầy trên núi, thì hoa mai sẽ nở như vui cười trong rừng hoa.

⚝ ✽ ⚝

[66] Lời ca khúc "Lưu Dương hà", ca khúc ca ngợi Mao chủ tịch.

⚝ ✽ ⚝

[67] Đây là đoạn hát của nhân vật Lý Ngọc Hòa trong vờ kịch Hồng đăng ký trước lúc sắp bị tử hình.

⚝ ✽ ⚝

[68] John Leighton Stuart (1876-1962) - nhà truyền đạo Cơ đốc người Mỹ ở Trung Quốc, có tình hữu hảo với Trung Quốc, sinh ra ở Hàng Châu.