← Quay lại trang sách

Chương 43 -

Daryl Mulbry của Cục Tình báo Thay thế đang gọi lại.

“Chào Lincoln, việc này càng lúc càng thú vị đây! Đầu tiên, nghi phạm của anh - các anh gọi hắn là gì ấy nhỉ?”

“Nghi phạm 47.”

“Đầu tiên, ngài Bốn mươi Bảy là một tên trộm kim cương phi thường, rồi có vẻ như hắn là một sát nhân hàng loạt điên loạn tự nhận mình là Người hứa hẹn, và giờ chúng ta lại thấy thực ra hắn là một lính đánh thuê được trả tiền để thực hiện vài vụ bẩn thỉu ở Brooklyn. Dù bề ngoài thì có vẻ vẫn là một tên điên loạn. Không có lấy một phút nhàm chán nhỉ.”

“Daryl?”

Anh cười khùng khục. “Tôi biết anh muốn vào việc luôn. Đầu tiên, đây là những gì tôi thu thập được về tên người Nga của anh. Hoặc một người Nga. Hay là người Nga nào đó. Có lẽ là của anh. Trước tiên là vài thông tin bối cảnh nhé. Có những tuyến đường mà chúng ta đã biết, dành cho các gián điệp hoặc tài sản vượt biên giới của vài quốc gia cụ thể, như Nga chẳng hạn, vào nước Mỹ. Chúng tôi gọi nó là ‘thanh tẩy’, trong ngữ nghĩa là họ tẩy sạch quá khứ của mình bằng cách bay tới ba hoặc bốn địa danh đã được chọn sẵn. Một mô tip rất quen ở đây là: Moscow tới Tbilisi tới Dubai tới Barcelona tới Newark. Bốn chiếc vé khác nhau, bốn nhân dạng khác nhau. Và chúng tôi nghĩ gã người Nga này đã chọn cách đó. Không tìm được một người nào đi trên cả bốn chuyến bay - những chiếc vé riêng biệt, những cái tên riêng biệt. Nhưng chúng tôi đã ngó nghiêng một chút bảng kê khai hàng hóa trên mỗi chuyến - suỵt, đó là bí mật của chúng tôi - và phát hiện ra có một thứ xuyên suốt cả bốn chặng.”

“Hành lý,” Rhyme cắt lời.

Sachs gật đầu. “Hắn đã làm thủ tục cho từng túi một trên mỗi chuyến bay nhưng chúng nặng như nhau.”

Mulbry cười vui vẻ. “Thấy không, Lincoln, Amelia, tôi đã bảo là cả hai người đúng là thứ chúng tôi cần ở AIS mà! Đúng là thế đấy. Xác suất để bốn người đàn ông khác nhau trên bốn chuyến bay khác nhau mà lại ký gửi hành lý nặng chính xác 12,6 kí lô giống hệt nhau là bao nhiêu? Không phần trăm. Các bức ảnh sẽ chứng minh điều đó, và tôi chắc chắn anh sẽ rất thích nếu có được bức ảnh chụp mặt hắn, nhưng chúng tôi không thể lấy được nó từ bên Kiểm soát Hộ chiếu. Việc đó sẽ lôi cả NSA vào và, à thì, lấy cho anh dữ liệu đó để phục vụ một vụ án trong nội địa thì có hơi… ‘bất hợp pháp’ là từ nảy ra trong đầu tôi. Nhưng chúng tôi tin rằng đây đúng là anh chàng của chúng ta.”

“Hộ chiếu cho chặng cuối cùng, khi hắn hạ cánh xuống Newark, là của Georgian. Josef Dobyns. Không nằm trong danh sách theo dõi. Và địa chỉ là một nơi không có thật ở Paterson, New Jersey. Tôi sẽ gửi cho anh tất cả những cái tên hắn dùng trên những chuyến bay khác. Anh có thể kiểm tra các đăng ký ở khách sạn. Mặc dù tôi cá là hắn sẽ lại dùng một nhân dạng khác mà hắn chưa từng dùng trước đó.”

“Năm cuốn hộ chiếu ư?” Sachs hỏi.

Mulbry chỉ cười.

Rhyme đọc cho ông ta địa chỉ email của Mel Cooper và yêu cầu ông gửi những cái tên trên hộ chiếu qua đó.

“Giờ,” Mulbry nói tiếp, “anh còn hỏi về chất nổ nữa nhỉ. Một tuần trước, chúng tôi nhận được cảnh báo về một gói vũ khí đã được tuồn lậu vào Bờ Đông: ba gói C4 loại một cân và một thùng mười hai lehabah.”

“Thùng gì cơ?”

“Bom đặt vào ống ga. Lehabahs. Từ tiếng Hebrew. Nó có hai nghĩa: ‘lửa’ và ‘mũi giáo hoặc mũi gươm’.”

Rhyme nghĩ từ đó mô tả thứ nhỏ bé gớm ghiếc ấy khá chính xác. Anh hỏi, “Một phát minh của Mossad*?”

Tên gọi tắt của tổ chức Tình báo Israel.

Khi đã tiếp xúc với thế giới gián điệp, Rhyme có tìm hiểu một chút về các tổ chức tình báo khác nhau trên thế giới. Không có nơi nào chế tạo vũ khí tài tình hơn, hay tiến hành hoạt động gián điệp khéo léo hơn Mossad.

“Đúng. Cho đúng mục đích các anh đang nói tới: khiến cho nó giống một vụ rò rỉ khí ga hoặc vụ nổ. Ai mà biết được đã có bao nhiêu ngôi nhà của Hamas hay những tên khủng bố Hezbollah bị thiêu rụi dưới danh nghĩa ‘tai nạn’ chứ?”

Ba gói C4. Họ không biết nghi phạm đã dùng bao nhiêu cho các thiết bị IED trong lỗ khoan ở Northeast Geo. Họ sẽ phải giả sử hắn còn lại một ít cho ít nhất một vụ “động đất” nữa. Hắn còn có cả các lehabahs khác. Hắn định gây ra bao nhiêu vụ thảm sát nữa đây?

Mulbry hỏi tiếp, “Vậy, Lincoln, làm ơn giải thích. Tất cả những chuyện này là thế nào?”

“Ông có theo dõi các vụ động đất ở New York không? Và cả hỏa hoạn?”

“Có, chắc chắn rồi. Tin chấn động ở mọi nơi mà.”

Sachs giải thích rằng thủ phạm đã tạo ra các vụ động đất giả đi kèm với hỏa hoạn.

“Vậy là hắn đã dùng các thiết bị kia cho mục đích đó. Hừm. Thông minh thật.” Với tư cách là người đứng đầu AIS, nhiệm vụ của ông ta là nghĩ ra những cách thay thế để tiêu diệt kẻ thù. Động đất giả làm hỏa mù cho việc phóng hỏa chính xác là công cụ thích hợp cho AIS. Mulbry thực sự bị ấn tượng. “Tại sao?”

Rhyme nói, “Điều đó thì chúng tôi chưa rõ. Ước đoán tốt nhất là để ngăn chặn việc khoan địa chất. Ai đó không muốn hoạt động khai thác địa nhiệt được diễn ra. Chúng tôi không nghĩ đó là một dạng khủng bố liên quan đến chính trị.”

Mulbry nói, “Tôi đồng ý. Việc vận chuyển C4 và các quả bom khí làm ta phải nghi ngại - bất kỳ thứ gì tương tự luôn gây nghi ngờ, tất nhiên rồi - nhưng các thuật toán của chúng tôi đã sàng lọc thông tin tình báo và không thể định vị chỗ chất nổ với một tên khủng bố nào đã biết. Mặc dù vậy, chúng tôi vẫn sẽ để mắt đến khả năng đó.”

“Làm ơn,” Sachs nói.

“Nhân tiện, tôi đang nói chuyện với anh?”

“Vâng, Daryl?”

“Tôi đã nhận được email về mật mã hệ thập nhị phân - rằng không có ai ở NYPD hay FBI New York biết có kẻ từng dùng nó. Nhân tiện, cảm ơn anh lần nữa vì đã kiểm tra. Thực ra, ta lại có thêm thông tin về vấn đề này. Chúng tôi không bao giờ có thể giải mã tin nhắn nhưng đã truy ra được mô hình di chuyển của vài tin trong số đó. Nó dẫn tới một khách sạn - một cơ sở lưu trú dài hạn - gần sông Seine ở Paris. Tả ngạn. Anh tới đó chưa?”

“Chưa. Nói tiếp đi.”

“Đáng kinh ngạc - mùi và cảm giác hoàn toàn khác hẳn. Và lịch sử văn hóa nơi đó nữa chứ. Hemingway, Simone de Beauvoir, Jean-Paul Sartre, các nhà hiện sinh. Tôi lạc đề mất rồi.”

Đúng thật.

“Mấy nhân viên EVIDINT của tôi đã vào trong và, trời ơi, cứ như chỗ đó đã bị chà sạch sẽ vậy. Và tôi nói theo nghĩa đen đấy: Beaucoup de* thuốc tẩy và le Windex cho ADN lẫn dấu vân tay. Có nhiều dấu vết giấy ráp đã xóa sạch cái gì đó khỏi sàn nhà và Keo Gorilla nhồi xuống những chỗ dấu vết có thể còn bị lưu lại, rồi kéo chúng ra. Ý tôi là, thực sự, dù kẻ này hoặc tổ chức này là ai, họ cũng cực kỳ, cực kỳ giỏi. Nhưng họ đã bỏ qua một thứ, một mẩu kim loại rất nhỏ. Không xuất hiện trong cơ sở dữ liệu nào về các bộ phận kim loại. Tự làm. Chúng tôi đã quét nó. Dính phóng xạ. Không đến mức bom nguyên tử nhưng có thể là một phần của một quả bom bự. Tất cả chúng tôi đều lo ngại. Anh ngó qua xem có được không?”

Tiếng Pháp, nghĩa là “rất nhiều”

“Chắc chắn rồi, Daryl. Nói cho tôi biết: Trông nó thế nào?”

“Co giãn, đàn hồi, màu bạc. Thường thấy trong các ngòi nổ cơ học. Đang có xu hướng tránh khỏi những thứ điện tử. Anh biết đấy, EMP - xung điện từ - có thể vô hiệu các kíp nổ điện tử.”

“Gửi qua đây ngay nhé.” Anh đọc cho ông ta địa chỉ.

Ngay khi họ vừa cúp máy, điện thoại của Rhyme lại reo. Đó là đội Hiện trường ở Queens. Anh nghe điện và nói chuyện qua loa ngoài với một nhà phân tích ở đó. Người này báo cáo rằng cuộc kiểm tra dưới tầng hầm căn hộ nhà Claire Porter gần Cadman Plaza cho thấy các dấu vân tay trên và quanh đường ống ga là của sĩ quan cảnh sát hoặc đã có từ rất lâu rồi. Và dù sao cũng không cho ra kết quả nào trên dữ liệu IAFIS cả. Khóa hầm ở đó có thể dễ dàng bị bẻ gãy bằng các dụng cụ đơn giản, và dù kẻ nào đã gây ra thì rõ ràng hắn đã mang đi mọi thứ của hắn khi bỏ đi. Cảnh sát khu vực cho anh biết cuộc thẩm vấn các cư dân lẫn người thuê nhà ở các tòa nhà gần đó cũng không tìm được người nào đã từng trông thấy một người đàn ông đội mũ cứng, mặc áo bảo hộ cả.

Trong lúc anh đang nói chuyện với viên thanh tra ở Brooklyn, Lon Sellitto đã gọi đến.

Rhyme gọi lại cho anh ta ở trụ sở One Police Plaza và bấm nút loa ngoài.

“Có tin đây. Vimal đã giấu điện thoại của cậu ta lên chiếc xe buýt. Cảnh sát tuần tra tìm được nó ở tận Pennsylvania. Nó được nhét vào túi của một cô gái nào đấy. Vậy là cậu ta đã lại biến mất lần nữa. Thằng bé thông minh thật đấy.”

“Chà.” Rhyme thở dài. Đúng là thông minh thật.

Sachs nói, “Cậu ta đã đi trước chúng ta hai tiếng, dù đang nhắm đến đâu. Cậu ta sẽ chọn tàu Amtrak hoặc một phương tiện công cộng để tới Jersey, tới một bến xe Greyhound nhỏ hơn ở đó. Hoặc Westchester.”

Rhyme kể cho anh ta nghe cuộc nói chuyện với Mulbry. Anh bảo Cooper gửi danh sách những cái tên trên bốn cuốn hộ chiếu mà họ nghi là nghi phạm đã sử dụng để đi tới đây.

“Được rồi, Line. Tôi sẽ ra lệnh thẩm vấn các khách sạn.”

Rhyme nhắc anh ta là dù thế, điệp viên của họ vẫn nghĩ nghi phạm sẽ dùng thêm một nhận dạng khác.

Sellitto nói, “ừ, tôi cũng đoán vậy. Nhưng ta vẫn phải làm thôi.”

“Giờ anh sẽ thấy việc này khá thú vị, Lon ạ.” Rhyme báo cáo về chất nổ mà Mulbry đã tìm hiểu được.

“Bom khí ga của tình báo Israel cơ à? Chết tiệt.”

“Daryl vẫn đang kiểm tra.”

Sellitto nói, “Có chuyện anh nên biết nà, Line: ESU và Đội phá bom đã nói chuyện với văn phòng thị trưởng. Họ quyết định không gửi robot xuống các lỗ khoan ở công trường địa nhiệt để rà phá, mà thay vào đó chỉ chặn đầu ở miệng hố thôi. Họ nghĩ rằng một vụ nổ khác ít nhất sẽ cho những người nằm trong bán kính của nó mười phút cảnh báo để sơ tán. Và sở cứu hỏa cũng cử thêm xe tải và nhân lực tới nằm vùng quanh công trường - vì nó là trung tâm của các cuộc tấn công. Nếu có một kíp nổ khác, họ sẽ sẵn sàng đi ngay đến nơi báo hỏa hoạn đầu tiên. Và…”

Im lặng.

“Lon?”

“Quỷ tha ma bắt,” trung úy lẩm bẩm.

“Sao thế?”

“Vừa thấy trên điện tín: Nghi phạm 47 lại có một nạn nhân khác.”

Sachs hỏi, “Cặp đôi đã đính hôn à?”

“Không.” Một khoảng dừng, chắc trong lúc Sellitto đọc. “Nhưng có liên quan. Theo kiểu gì đấy. Hẳn là thế. Nạn nhân là Kirtan Boshi. Trạc tuổi Vimal, người Ấn Độ. Làm việc trong ngành kim cương. Một thợ cắt học việc. Y như Vimal. Không thể là trùng hợp được.”

“Tình huống thế nào?” Sachs hỏi.

“Tầng hầm của một quán cà phê ở quận Thời trang. Cách nơi cậu ta làm việc một dãy nhà.” Sellitto ngừng lời. “Vài nhân viên vừa mới phát hiện thi thể nhưng có vẻ như cậu ta bị giết quãng giờ nghỉ trưa ngày hôm nay. Thằng khốn đã chọc vỡ khí quản của cậu ta. Giết cậu ta bằng một con dao rọc giấy.”

“Kirtan có thể là một người bạn của Vimal và biết chỗ cậu ta sống. Rất có thể cậu ta đã khai ra địa chỉ.”

“Phải. Cậu ta đã bị tra tấn. Kinh khủng lắm. Nghi phạm còn cắt ngón tay đeo nhẫn của Kirtan và nhét nó vào miệng cậu ta. Sau khi chết, nhưng vẫn kinh.”

“Khốn nạn thật,” Sachs lẩm bẩm.

Rhyme nhìn sang cô.

“Chúng ta đã cố tìm kiếm người biết về Vimal trong mọi cửa hàng ở quận Kim Cương, Jackson Heights, các nơi ở Queens và Brooklyn. Nhưng em chưa bao giờ nghĩ đến việc đi tìm thợ cắt kim cương ở quận Thời trang cả. Vậy mà hắn lại nghĩ ra. Hắn chơi trên cơ em.”

Chúng ta mới đúng, Rhyme lặng lẽ chỉnh lại. Hắn đã chơi trên cơ chúng ta. Nhưng anh biết những lời ấy có rất ít ý nghĩa với cô. Bất kể thất bại nào có dính dáng tới cô, cho dù phần của cô nhỏ bé cỡ nào, cô cũng vơ vào mình.

Sellitto nói, “Hắn đã có địa chỉ nhà Lahori và không biết thằng bé đang bỏ trốn. Amelia, báo đội bảo vệ của cô ở nhà họ phải tránh khỏi tầm nhìn và đề phòng tên Bốn mươi Bảy xuất hiện.”

“Tôi sẽ báo,” Sachs nói. “Mặc dù tôi nghĩ hắn quá thông minh nên sẽ không rơi vào một cái bẫy như thế.” Cô thở dài. “Tôi sẽ kiểm tra hiện trường ở cửa hàng cà phê.”

Sellitto cho cô địa chỉ và cô vội vã rời khỏi phòng khách, lơ đãng mặc áo khoác. Một lát sau, Rhyme nghe tiếng động cơ chiếc xe to lớn của cô nổ và tiếng bộ lốp nghiến khi cô lao mình vào dòng xe.

Mắt anh hướng về phía tiếng động ngoài cửa sổ, nhìn ra bầu trời hoàng hôn mờ mịt.

Vậy là tuần trước, Nghi phạm 47 đã dành trọn một ngày đặt các quả bom để nhái các vụ hỏa hoạn sau động đất. Có thể còn vài quả nữa tồn tại, và dù có tuyên bố các nhà chức trách đã biết vụ động đất là giả thì cũng không thể thay đổi thực tế là chúng được định giờ phát nổ.

Và thậm chí nếu kế hoạch của hắn có bị bại lộ ngay bây giờ, Nghi phạm 47 cũng chẳng có động cơ gì để phải tháo các thiết bị hay cho cảnh sát biết chúng ở đâu.