← Quay lại trang sách

QUẺ HỎA THỦY VỊ TẾ

Ly trên; Khảm dưới

- GIẢI NGHĨA -

Truyện của Trình Di. Quẻ Vị Tế, Tự Quái nói rằng vật không thể cùng, cho nên tiếp đến là quẻ Vị Tế [346] là hết. Đã sang rồi là vật bị cùng. Vật đã cùng mà không biến đổi thì không có lý “chẳng thôi”. Dịch là biến đổi mà chẳng cùng, cho nên sau quẻ Ký Tế là quẻ Vị Tế mà hết. Chưa sang (vị tế) là chưa cùng. Chưa cùng có nghĩa là sinh sinh. Nó là quẻ Ly trên, Khảm dưới, lửa ở trên nước, không làm sự dùng cho nhau, cho nên là chưa sang.

- LỜI KINH -

未濟, 亨, 小狐汔濟, 濡其尾, 無攸利.

Dịch âm. Vị Tế hanh, tiểu hồ hất tế, nhu kỳ vĩ, vô du lợi.

Dịch nghĩa. Quẻ Vị Tế hanh, con cáo nhỏ hầu sang, ướt thửa đuôi, không thửa lợi.

- GIẢI NGHĨA -

Truyện của Trình Di. Thì Vị Tế (chưa sang), có lẽ hanh thông, mà tài quẻ lại có cách đem đến sự hanh thông, chỉ cố xử cho cẩn thận. Con cáo là vật có thể lội nước, ướt đuôi thì không sang được. Cáo già hay ngờ sợ, cho nên xéo nước thì còn nghe ngóng, sợ rằng hãm; cáo nhỏ chửa biết sợ hãi, cẩn thận, cho nên mạnh bạo mà sang. Chữ 汔 nên đổi thành chữ 仡 Kinh Thư nói 仡仡勇夫 (ngật ngật dũng phu: kẻ mạnh hăng hái), con cáo nhỏ quả quyết về sự sang thì ướt thửa đuôi mà không sang được. Trong thời chưa sang, cái đạo cầu sang nên rất cẩn thận thì có thể hanh thông. Nếu quả quyết như con cáo nhỏ thì không sang được. Đã không sang được thì không còn lại cái gì.

Bản Nghĩa của Chu Hy. Quẻ Vị Tế là lúc việc chưa thành. Nước lửa chẳng giao nhau, chẳng làm sự dùng cho nhau, sáu hào trong quẻ đều mất ngôi, cho nên chưa sang; 汔 (hất) nghĩa là hầu, hầu sang mà ướt đuôi là còn chưa sang. Kẻ xem như thế thì còn lợi gì?

- LỜI KINH -

彖曰: 未濟, 亨, 柔得中也. 小狐汔濟, 未出中也, 濡其尾, 無所利, 不續終也; 雖不當位, 剛柔應也.

Dịch âm. Tượng viết: Vị Tế hanh, nhu đắc trung dã. Tiểu hồ hất tế, vị xuất trung dã; nhu kỳ vĩ, vô sơ lợi, bất tục chung dã; tuy bất đáng vị, cương nhu ứng dã.

Dịch nghĩa. Lời Thoán nói rằng: Quẻ Vị Tế hanh, mềm được giữa vậy. Cáo nhỏ hầu sang, chưa ra khỏi trong vậy; ướt thửa đuôi, không thửa lợi, chẳng nối chót vậy; tuy chẳng đáng ngôi nhưng được cứng, mềm ứng nhau.

- GIẢI NGHĨA -

Truyện của Trình Di. Lấy tài quẻ mà nói, sở dĩ hanh được, là vì chất mềm được ngôi giữa. Hào Năm lấy chất mềm ở ngôi tôn, ở chỗ cứng mà ứng với hào cứng là được mực giữa của đạo mềm. Cứng, mềm được vừa phải thì ở thời chưa sang có thể hanh thông. Theo hào Hai mà nói, hào Hai lấy chất Dương cứng ở chỗ hiểm, là kẻ sắp sang, phía trên lại ứng với hào Năm, chỗ hiểm không phải nơi có thể yên, hào Năm có lẽ nên theo, cho nên nó mới quả quyết về sự sang, như con cáo nhỏ vậy. Đã quả quyết về sự sang, cho nên có cái lo về ướt đuôi, chưa thể ra khỏi chỗ hiểm. Tiến mạnh thì lui chóng, lúc đầu tuy hăng hái về sự sang nhưng không thể tiếp tục mà làm cho trọn thì không đi đâu mà lợi. Tuy là Âm, Dương không đáng ngôi nhưng cứng mềm đều ứng với nhau, đương thời chưa sang mà có kẻ cùng với, nếu biết thận trọng thì có lẽ sang được. Hào Hai vì hăng sang cho nên ướt đuôi. Các hào trong quẻ đều không được ngôi, cho nên chưa sang.

- LỜI KINH -

象曰: 火在水上, 未濟. 君子以慎辨物, 居方.

Dịch âm. Tượng viết: Hỏa tại thủy thượng, Vị Tế. Quân tử dĩ thận biện vật, cư phương

Dịch nghĩa. Lời Tượng nói rằng: Lửa ở trên nước, là quẻ Vị Tế. Đấng quân tử coi đó mà cẩn thận phân biệt các vật, ở phương.

- GIẢI NGHĨA -

Truyện của Trình Di. Nước, lửa chẳng giao với nhau, không giúp nhau làm ra sự dùng, cho nên là chưa sang. Lửa ở trên nước là không phải nơi. Đấng quân tử coi tượng “ở không đáng” đó để cẩn thận xử với sự vật, phân biệt sự xứng đáng của nó, khiến nó đều ở thửa phương, nghĩa là đâu vào nơi chốn của nó.

Bản Nghĩa của Chu Hy. Nước, lửa khác giống, thứ nào ở vào nơi chốn của thứ ấy, cho nên đấng quân tử coi tượng đó mà xem xét phân biệt các việc, các vật.

- LỜI KINH -

初六: 濡其尾, 吝.

Dịch âm. Sơ Lục: Nhu kỳ vĩ, lận.

Dịch nghĩa. Hào Sáu Đầu: Ướt thửa đuôi, đáng thẹn.

- GIẢI NGHĨA -

Truyện của Trình Di. Hào Sáu lấy chất Âm mềm ở dưới, đóng chỗ hiểm mà ứng với hào Tư, ở chỗ hiểm thì không yên, có ứng thì chí đi trở lên, nhưng mình đã Âm mềm mà hào Tư không phải là tài giữa chính, không cứu mình để sang. Giống thú vượt nước, ắt phải ngỏng đuôi, đuôi ướt thì không sang được, ướt thửa duôi là không thế sang. Không lượng tài lực mà tiến, rút lại, không thế sang, đang thẹn tiếc vậy.

Bản Nghĩa của Chu Hy. Lấy chất Âm, ở ngôi dưới, đương thời chưa sang, chưa thể tự mình tiến lên, cho nên tượng, chiêm như thế.

- LỜI KINH -

象曰: 濡其尾, 亦不知極也.

Dịch âm. Tượng viết: Nhu kỳ vĩ, diệc bất tri cực dã.

Dịch nghĩa. Lời Tượng nói rằng: Ướt thửa đầu, cũng chẳng biết cực vậy.

- GIẢI NGHĨA -

Truyện của Trình Di. Chẳng lượng tài lực mà tiến, đến chừng ướt đầu, ấy là “chẳng biết” đến tột bậc.

Bản Nghĩa của Chu Hy. Chữ 極 (cực) chưa rõ nghĩa là gì. Xét vẫn trên, dưới cũng không hợp, e là chữ 敬 (kính) nay đã chừa lại đó.

- LỜI KINH -

九二: 曳其輪, 貞吉.

Dịch âm. Cửu Nhị: Duệ kỳ luân, trinh cát.

Dịch nghĩa. Hào Chín hai: Kéo thửa bánh xe, chính bền, tốt.

- GIẢI NGHĨA -

Truyện của Trình Di. Ở quẻ khác, hào Chín ở ngôi Hai là ở chỗ mềm được mực giữa, không có nghĩa là quá cứng. Ở quẻ Vị Tế, đấng thánh nhân cốt lấy tượng quẻ làm răn để tỏ đạo thờ trên kính thuận, quẻ Vị Tế là lúc đạo vua khó nhọc, hào Năm lấy chất mềm ở ngôi vua mà hào Hai là tài Dương cứng ở chỗ ứng nhau với nó, tức là kẻ gánh vác trách nhiệm vậy. Cứng có nghĩa lấn mềm, nước có tượng thắng lửa, đương thời khó nhọc, kẻ nhờ cậy được là người bề tôi có tài, càng nên hết đạo kính thuận, cho nên răn rằng: kéo thửa bánh xe thì được chính mà tốt. Kéo ngược bánh xe, bớt thế của nó, hoãn sự tiến của nó, tức là răn đừng dùng cứng thái quá. Cứng quá thì hay xúc phạm người trên, mà thiếu đường kính thuận. Quách Tử Nghi, Lý Thạnh nhà Đường, đương khi gian nan chưa nên việc, biết kính thuận đến tột bậc, vì vậy mới được chính đạo mà giữ được sự tốt lành cho tới cùng. Ở hào Sáu Năm thì nói chưng tốt sáng láng, hết cái phải của đạo làm vua; ở hào Chín Hai thì răn phải kính thuận hết sự chính của đạo làm tôi, ấy là hết đạo trên, dưới vậy.

Bản Nghĩa của Chu Hy. Lấy hào Chín Hai ứng nhau với hào Sáu Năm mà ở ngôi mềm được chỗ giữa, tức là kẻ biết tự thôi mà không tiến, được sự chính đáng trong đạo làm kẻ dưới, cho nên tượng, chiêm của nó như thế.

- LỜI KINH -

六三: 未濟, 征凶, 利涉大川.

Dịch âm. Lục Tam: Vị tế, chinh hung, lợi thiệp đại xuyên.

Dịch nghĩa. Hào Sáu ba: Chưa sang, đi hung, lợi về sang sông lớn.

- GIẢI NGHĨA -

Truyện của Trình Di. Chưa sang đi hung, ý nói chỗ hiểm không có đồ dùng để ra chỗ hiểm mà đi thì hung. Ắt phải ra chỗ hiểm đã, rồi mới đi được. Hào ba lấy tài Âm mềm chẳng giữa chính mà ở chỗ hiểm, chẳng đủ để sang, chưa có cách sang được, chưa có đồ dùng để ra chỗ hiểm, mà cứ đi, vì vậy mới hung. Nhưng quẻ Vị Tế có cách sang được, rồi cũng có lẽ ra khỏi chỗ hiểm, phía trên có kẻ Dương cứng ứng với, nếu quá chỗ hiểm mà đi theo nó thì sẽ sang được, cho nên lợi về sang sông lớn.

Bản Nghĩa của Chu Hy. Âm mềm chẳng giữa chính, ở thời chưa sang mà đi thì hung. Nhưng nó lấy chất mềm cưỡi kẻ cứng, sắp sửa ra khỏi thể Khảm, có tượng về sang sông, cho nên tượng, chiêm của nó như thế. Nghĩa là kẻ đi có thể vượt nước mà không thể đi cạn. Hoặc có người ngờ rằng trên chữ 利 (lợi) còn có chữ 不 (bất)?

- LỜI KINH -

象曰: 未濟征凶, 位不當也.

Dịch âm. Tượng viết: Vị tế, chinh hung, vị bất đáng dã.

Dịch nghĩa. Lời Tượng nói rằng: Chưa sang, đi hung, ngôi chẳng đáng vậy.

- GIẢI NGHĨA -

Truyện của Trình Di. Hào Ba đi thì hung, vì ngôi không đáng Ý nói nó là kẻ Âm mềm chẳng giữa, chẳng chính, lại không có tài ra khỏi chỗ hiểm. Nếu vượt quá được chỗ hiểm để theo kẻ ứng với mình thì có lợi.

- LỜI KINH -

九四: 貞吉, 悔亡. 震用伐鬼方, 三年有賞于大國.

Dịch âm. Cửu Tứ: Trinh cát, hối vong. Chấn dụng phạt Quỷ Phương, tam niên hữu thưởng vu đại quốc.

Dịch nghĩa. Hào Chín Tư: Chính bền, ăn năn mất, chấn dùng đánh nước Quỷ Phương, ba năm có thưởng chưng nước lớn.

- GIẢI NGHĨA -

Truyện của Trình Di. Hào Chín Tư là chất Dương cứng, ở ngôi đại thần, trên có ông vua trống giữa sáng thuận, lại đã ra khỏi chỗ hiểm, chưa sang nhưng quá giữa rồi, tức là có cách sang được. Làm cho thiên hạ quá sự gian nan, nếu không có tài cứng mạnh thì không làm nổi, hào Chín tuy là Dương mà ngôi Tư, cho nên răn phải chính bền thì tốt, mà sự ăn năn sẽ mất; không chính bền không sang được, là có ăn năn. Chấn là động đến tột bậc. Người xưa dùng sức nhiều nhất là việc đánh nước Quỷ Phương, cho nên lấy nó làm nghĩa, sức siêng mà đánh xa, đến chừng ba năm, rồi mới nên việc.

Bản Nghĩa của Chu Hy. Lấy hào Chín ở ngôi Tư, chẳng chính mà có ăn năn. Có thể gắng mà chính bền thì sự ăn năn sẽ mất. Nhưng vì nó là tư chất không chính bền, thì sự ăn năn sẽ chết [?]. Do nó muốn gắng mà chính bền, nếu không do đức dương cứng dùng sức lâu thì không thể được, nên là tượng “đánh nước Quỷ Phương ba năm mà được nhận thưởng”.

- LỜI KINH -

象曰: 貞吉悔亡, 志行也.

Dịch âm. Tượng viết: Trinh cát, hối vong, chí hành dã.

Dịch nghĩa. Lời Tượng nói rằng: Chính bền tốt, ăn năn hết, chí được thi hành vậy.

- GIẢI NGHĨA -

Truyện của Trình Di. Như tài hào Tư, hợp được với thời mà lại thêm đức chính bền thì có thể thực hành chí mình, thế là tốt lành mà sự ăn năn sẽ mất. Việc đánh nước Quỷ Phương, là chính bền đến tột bậc vậy.

- LỜI KINH -

六五: 貞吉, 無悔, 君子之光, 有孚, 吉.

Dịch âm. Lục Ngũ: Trinh cát, vô hối, quân tử chi quang, hữu phu, cát.

Dịch nghĩa. Hào Sáu Năm: Chính bền tốt, không ăn năn, sự sáng của đấng quân tử, có tin tốt.

- GIẢI NGHĨA -

Truyện của Trình Di. Hào Năm là chủ sự văn vẻ sáng sủa, ở ngôi cứng, ứng với kẻ cứng, đã ở chỗ giữa, lại trông bên trong có hào Dương làm kẻ giúp đỡ, tuy lấy chất mềm ở ngôi tôn nhưng [nếu] nó xử được rất khéo, rất chính thì không làm gì [mà] không được; đã được trinh, chính, cho nên tốt lành mà không ăn năn. Giữ cho chính bền những cái vẫn có của nó, không phải lời răn, dùng cách mà sang thì không chỗ nào không sang được. Hào Năm là chủ sự văn vẻ sáng sủa, cho nên khen nó sáng láng, đấng quân tử đức sáng đã thịnh, mà công với sự, thật xứng đáng ở chỗ đó, tức là có tin. Trên nói “tốt” là vì chính bền, mềm mà chính bền là sự tốt lành của phần đức; dưới nói “tốt” là vì công đã sáng mà có tin, tức là thời có thể sang.

Bản Nghĩa của Chu Hy. Lấy hào Sáu ở ngôi Năm cũng không phải chính nhưng nó là chủ văn vẻ sáng sủa, ở giữa mà ứng nhau với kẻ cứng, trống rỗng trong lòng để cầu kẻ dưới giúp mình, cho nên được chính mà tốt và không ăn năn, lại có đức sáng láng được thịnh, tin thật mà không càn, đức là tốt mà lại tốt.

- LỜI KINH -

象曰: 君子之光, 其暉吉也.

Dịch âm. Tượng viết: Quân tử chi quang, kỳ huy cát dã.

Dịch nghĩa. Lời Tượng nói rằng: Sự sáng của đấng quân tử, thửa tia sáng tốt vậy.

- GIẢI NGHĨA -

Truyện của Trình Di. Sáng thịnh thì có tia sáng, tia sáng tức là ánh sáng tan ra. Đấng quân tử chưa chất đầy đủ mà sự sáng đến chưng có tia, tức là hay đến tột bậc, cho nên lại nói là tốt.

- LỜI KINH -

上九: 有孚于飲酒, 無咎, 濡其首, 有孚, 失是.

Dịch âm. Thượng Cửu: Hữu phu vu ẩm tửu, vô cữu, nhu kỳ thủ, hữu phu, thất thị.

Dịch nghĩa. Hào Chín Trên: có tin chưng uống rượu, không lỗi, ướt thửa đầu, có tin, đúng là mất.

- GIẢI NGHĨA -

Truyện của Trình Di. Hào Chín lấy chất cứng ở ngôi Trên, là cứng tột bậc; ở trên thể sáng, là sáng tột bậc. Đã cứng tột bậc mà lại sáng nữa thì không phải là nóng nảy mà là quả quyết. Sự sáng có thể xét lý, sự cứng có thể đoán nghĩa, ở cùng cực của thời chưa sang, không được ngồi để sang, không có thể sang được thì nên vui thời thuận mệnh mà thôi; nếu ở chót cuộc Bĩ thì có thể xoay thời vận lại, chưa sang thì không có lẽ cũng cực mà tự sang được, cho nên sự đậu là chỗ cùng cực của sự chưa sang, chí thành yên với mệnh mà tự vui thì có thể không lỗi. Uống rượu tức là tự vui, nếu không vui với cảnh mình ở thì bực tức, chán nản, tức là vào chỗ hung cữu. Nếu theo sự vui mà đắm đuối, công dỡ quá lẽ đến ướt thửa đầu, cũng không phải là biết yên với cảnh mình ở. "Có tin" tức là tin ở trong lòng, "mất" có nghĩa là mất sự nên đáng. Như thế thì có tin là lỗi. Người ta ở cảnh hoạn nạn, biết là không thể sang được mà phóng túng bừa bãi, không chịu quay lại há phải là kẻ yên với nghĩa mệnh?

Bản Nghĩa của Chu Hy. Lấy chất cứng sáng ở chỗ cùng cực của cuộc chưa sang thì thế có thể làm việc, mà biết tự tin, tự nuôi để đợi mệnh trời đó là cách không lỗi. Nếu phóng túng không quay lại như con cáo lội nước mà ướt đầu thì là tự tin thái quá và tự mình làm mất cái nghĩa của mình.

- LỜI KINH -

象曰: 飲酒濡首, 亦不知節也.

Dịch âm. Tượng viết: Ẩm tửu nhu thủ, diệc bất tri tiết dã.

Dịch nghĩa. Lời Tượng nói rằng: Uống rượu ướt đầu, cũng chẳng biết tiết độ vậy.

- GIẢI NGHĨA -

Truyện của Trình Di. Uống rượu đến chừng ướt đầu là không biết tiết độ lắm. Sở dĩ đến thế, là tại không biết yên với nghĩa mệnh, nếu biết yên thì đã không mất thường độ.

o0o