Chú Thích
[1] Một con thú trong thần thoại, sẽ có lời chua ở dưới.
[2] Tức quẻ đơn.
[3] Tức quẻ kép. Có người nói rằng: Phục Hy chỉ đặt ra tám quẻ đơn, còn sáu mươi tư quẻ kép là do Văn Vương đặt ra.
[4] Có người nói Phục Hy đã có đặt tên cho sáu mươi tư quẻ kép.
[5] Chớ có lầm với Lời Thoán của Khổng Tử. Trong bản dịch này, Lời Thoán của Văn Vương ở ngay đầu các quẻ, trên nó không có gì nữa. Còn Lời Thoán của Khổng Tử tức là Thoán Truyện thi ở liền dưới Lời Thoán của Văn Vương và bắt đầu bằng bốn chữ “Lời Thoán nói rằng.”
[6] Chớ lầm với Lời Tượng của Khổng Tử. Trong bản dịch này, Lời Tượng của Khổng Tử, tức là tượng truyện, đầu bài bằng chữ “Lời Tượng nói rằng”, còn Lời Tượng của Chu Công thì ở ngay đầu các hào, trên nó chỉ có những chữ số mục.
[7] Theo Khổng Dĩnh Đạt, tính là chất của trời sinh, ví như cứng, mềm, lanh, chậm…, mệnh là cái mà người ta bẩm thụ, ví như sang, hèn, thọ, yểu… Vậy chữ tính mệnh này chỉ về sinh mạng.
[8] Mờ tối và sáng sủa.
[9] Tiêu đi và lớn lên.
[10] Chu Hy chua rằng: Theo lẽ mà nói, thì dù là thể chất, nhưng có công dụng vẫn ở bên trong, “thể chất và công dụng một nguồn”, là nghĩa như thế. Theo Tượng mà nói, thì dù là rõ rệt đấy, nhưng cái huyền vi cũng không thể ở ra bên ngoài. “Rõ rệt và huyền vi không hề cách nhau” là nghĩa như thế.
[11] Chu Hy chua rằng: Phàm các sự vật, nên theo chính chỗ tụ hội của nó mà suy, để tìm một con đường thôi mà đi. Hội thông là nghĩa như thế.
[12] Chu Hy chua rằng: Điển lễ chỉ là việc thường.
[13] Theo sử Tàu, Phục Hy là một ông vua nước Tàu trong thời thượng cổ, hiện không thể biết ông vua ấy cách xa ngày nay mấy nghìn hay mấy vạn năm.
[14] Vua đầu nhà Hạ, trước lịch tây hơn hai nghìn năm. Theo sử Tàu, trong đời vua Nghiêu, nước Tàu bị lụt đến chín năm luôn. Vua Vũ đào sông, khai ngòi, chữa được nạn ấy.
[15] Tức là lịch định ngày tháng.
[16] Chỉ về chín châu. Sau khi vua Vũ chữa được nước lụt, liền chia nước Tàu ra làm chín khu, mỗi khu gọi là một châu.
[17] Chỉ về các khu tỉnh điền. Theo sách Mạnh Tử, đời Chu chia đất cho dân cày cấy đều theo hình vuông, mỗi khu là chín trăm mẫu, giới hạn giống như chữ 井 (tỉnh), trăm mẫu chính giữa là ruộng công, còn tám trăm mẫu chung quanh cấp cho tám nhà. Đó là phép “Tỉnh điền”.
[18] Văn Vương nhà Chu.
[19] Tức ông Cơ Tử, người đã diễn lại chín “trù”, và đem truyền cho Vũ vương nhà Chu.
[20] Như số một ở dưới số năm thì có số sáu, số hai ở bên cạnh số năm thì có số bảy, v.v. coi hình Lạc Thư ở trên sẽ rõ.
[21] Chu Hy chua rằng: “Sinh số của trời đất, chỉ có đến năm là hết. Năm đối một, hai, ba, bốn, thì thành sáu, bảy, tám, chín, cuối cùng lại đối với năm thành mười.
[22] Hoàng Miễn Trai chua rằng: “Từ một đến mười, chỉ nói về sự nhiều ít của số lẻ, số chẵn, không phải nói về thứ tự. Trời được số lẻ làm ra nước, cho nên nói rằng: “số một sinh ra hành Thủy”. Số một cùng cực thì thành số ba, cho nên nói rằng: “số ba sinh hành Mộc”. Đất được số chẵn mà làm ra lửa, cho nên nói rằng: “số hai sinh ra hành Hỏa”. Số hai cùng cực thì thành ra số bốn, cho nên nói rằng: “Số bốn sinh ra Kim”, sao lại như vậy? Là vì dùng một cạnh mà vặn cho tròn, thì thành ba cạnh, thế là số một cùng cực thì thành số ba; dùng hai cạnh mà bẻ cho vuông thì thành bốn cạnh, thế là số hai cùng cực thì thành số bốn… Số sáu hoàn thành hành Thủy cũng giống như tượng quẻ Khảm (☵); một hào Dương ở giữa, tức là số một của trời sinh ra hành Thủy; số sáu của đất bao bọc ở ngoài. Dương ít, Âm nhiều, thì Thủy mới thịnh. Số bảy hoàn thành hành Hỏa cũng giống như tượng quẻ Ly (☲), một hào Âm ở giữa, tức là số hai của đất sinh ra hành Hỏa, số bảy của trời bao bọc ở ngoài, Âm ít, Dương nhiều thì Hỏa mới thịnh. Khảm thuộc về Dương, Ly thuộc về Âm, ở trong là cái đế sinh, ở ngoài là cái đế làm cho thành.
[23] Số để sinh sản.
[24] Số để hoàn thành.
[25] Hai chữ “một” giữa là đơn vị (unité).
[26] Hai chữ “một” giữa là đơn vị (unité).
[27] Hà Đồ chẵn thừa mà lẻ thiếu, tức là số trời hai nhăm (năm nhân với năm), số đất ba mươi (năm nhân với sáu). Lạc Thư lẻ thừa mà chẵn thiếu, tức là số trời hai nhăm (năm nhân với năm), số đất hai mươi (năm nhân với bốn). Hà Đồ để trống số mười lăm ở giữa, Lạc Thư để trống số năm ở giữa, thì số Âm, Dương đều đúng hai mươi. Chu Hy chua vậy.
[28] Chu Hy nói rằng: Ngôi của Lão Dương (số Dương già tức là Thái Dương) ở số một, ngôi của Lão Âm (số Âm già tức là Thái Âm) ở số bốn; nay Hà Đồ để số chín của Lão Dương ở ngoài số bốn, mà số sáu của Lão Âm thì lại ở ngoài số một, đó là Lão Âm Lão Dương ở lẫn nhà nhau. Ngôi của Thiếu Âm (số Âm non) ở số hai, ngôi của Thiếu Dương (số Dương non) ở số ba, mà Hà Đồ để số tám của Thiếu Âm ở ngoài số ba, số bảy của Thiếu Dương thì lại ở ngoài số hai, đó là Thiếu Âm Thiếu Dương ở lẫn nhà nhau.
[29] Hồ Ngọc Trai chua rằng: Lạc Thư tuy là ngang dọc có số mười lăm thật ra, đều là những số bảy, tám, chín, sáu, đắp đổi tiêu lớn: Số một được năm thành sáu, mà đắp đổi tiêu lớn với số chín ở phương Nam; số bốn được năm thành chín, mà đắp đổi tiêu lớn với số sáu ở Tây Bắc; số ba được năm thành tám, mà đắp đổi tiêu lớn với số bảy ở phương Tây; số hai được năm thành bảy mà đắp đổi tiêu lớn với số tám ở Đông Bắc. Nhưng số tiến lên là lớn, lui đi là tiêu, số lớn đã lui thì phải tiêu đi, số tiêu đã tiến thì phải lớn lên. Sáu tiến lên chín thì chín lớn mà sáu tiêu, chín lui làm sáu thì chín tiêu mà sáu lại lớn, bảy tiến lên làm tám, thì tám lớn mà bảy tiêu; tám lui làm bảy thì tám tiêu mà bảy lại lớn. “Bỏ trống số năm, chia sẻ số chín”, nghĩa là đem số năm ở giữa mà trừ với các số ở ngoài thì các bề ngang, bề dọc đều chỉ còn mười; đem số mười đó chia sẻ đi, thì chín là số thừa của một trừ mười, tám là số thừa của hai trừ mười, bảy là số thừa của ba trừ mười, sáu là số thừa của bốn trừ mười. Thế là “ba năm lộn góp, tới đâu cũng gặp số hợp”.
[30] Chu Huy chua rằng: Đem hình tứ tượng mà xem, thì Thái Dương ngôi ở một mà số là chín, Kiền được số ấy, Đoái được ngôi ấy, cho nên Kiền là chín mà Đoái là một; Thiếu Âm ngôi ở hai, mà số là tám, Ly được số ấy mà Chấn được ngôi ấy, cho nên Ly là tám, mà Chấn là hai; Thiếu Dương ngôi ở ba mà số là bảy, Khảm được số ấy, Tốn được ngôi ấy, cho nên Khảm là bảy, mà Tốn là ba; Thái Âm ngôi ở bốn, mà số là sáu. Khôn được ngôi ấy. Tốn được số ấy, cho nên Khôn là sáu, mà Tốn là bốn. Nay chia số “hợp” của sáu, bảy, tám, chín để làm Kiền, Khôn, Ly, Khảm mà để vào bốn ngôi chính, theo thứ tự của một, hai, ba, bốn để làm Chấn, Đoái, Tốn, Cấn bù vào chỗ trống của bốn góc.
[31] Tên chín mục trong thiên Hồng Phạm Kinh Thư tức là chín “trù” (chín loài) vì không dính đến Kinh Dịch, cho nên không cần chua rõ.
[32] Tức là chín mục nói trên của thiên Hồng Phạm.
[33] Tức là phép bói Dịch bằng cỏ thi (dùng năm chục sợi cỏ thi để gieo quẻ).
[34] Tức Âu Dương Tu, một nhà học giả đời Tống.
[35] Một thiên trong Kinh Thư.
[36] Tức là Thiệu Ung, một học giả đời Tống.
[37] Tức là Trời, Đất và Người.
[38] Chỗ có dấu chấm.
[39] Chỗ trống không.
[40] Tức là vạch ra tám quẻ.
[41] Tức là sáu quẻ Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khảm, Đoái.
[42] Chu Hy chua rằng: Điều này nói về hình vẽ tròn. Chấn tiếp với Khôn, ấy là Chấn mới giao Âm mà một “Dương” sinh. Tốn tiếp với Kiền, ấy là Tốn mới tiêu Dương mà một “Âm” sinh.
[43] Từ Tiến Trai nói rằng: Một khi chạy vòng, từ quẻ Phục đến quẻ Kiền là Dương, tức là cuộc đầu của sự sinh ra các vật cho nên Chấn, Đoái, Âm ở trên mà Dương ở dưới. Đó là cái nghĩa giao thái, ấy là nói về sự động, công dụng của Thái Cực do đó mà vận hành. Từ quẻ Cấn đến quẻ Khôn là Âm, tức là cuộc trót của sự làm thành các vật, cho nên Tốn, Cấn Dương ở trên mà Âm ở dưới. Đó là cái nghĩa tôn ty, ấy là nói về sự tĩnh, thể chất của Thái Cực do đó mà đứng vững.
[44] Ngày ba mươi của mỗi tháng.
[45] Ngày mồng một của mỗi tháng.
[46] Tuần thượng huyền và tuần huyền của mỗi tháng.
[47] Tuần rằm của mỗi tháng.
[48] Dôi ra và rụt đi.
[49] Ông Tư Trai nói rằng: Mão là cửa của mặt trời, Thái Dương ở đó mà ra. Dậu là cửa của mặt trăng. Thái Âm ở đó mà ra. Chẳng những mặt trời mặt trăng ra vào nơi đó, lớn ra, thì đến công việc trời đất mở ra, các vật tuy đầu ở Dần mà tới Mão cửa càng mở càng rộng; công việc trời đất đóng khép các vật, tuy đầu ở Tuất mà tới Dậu thì cửa đã khép chặt. Một năm thì Xuân, Hạ, Thu, Đông, một tháng thì hối, sóc, huyền, vọng, một ngày thì ngày và đêm, độ đi đều phải do ở cửa đó. Ấy là tả cho cùng cực cái công dụng của Khảm và Ly lớn lao đến vậy.
Chu Hy nói rằng: Theo hình vẽ ngang (tức là hình vẽ thứ tự tám quẻ của Phụ Hy) mà xem thì có Kiền một mới có Đoái hai, có Đoái hai mới có Ly ba, có Ly ba mới có Chấn bốn, mà rồi Tốn năm, Khảm sáu, Cấn bảy, Khôn tám cũng theo thứ tự đó mà sinh ra. Đó là Kinh Dịch sở dĩ thành ra. Mà hình vẽ tròn (tức là hình vẽ phương vị tám quẻ của Phục Hy), thì phương tả từ đầu Chấn là Đông chí, đến giữa Ly, Khảm là Xuân phân, đến cuối Kiền là Hạ chí, đều tiến lên mà được những quẻ đã sinh, cũng như từ ngày nay mà kể lại các ngày trước vậy, cho nên nói rằng: “Kể cái đi rồi là thuận” phương hữu của nó thì từ đầu Tốn là Hạ chí, đến giữa Khảm Cấn là Thu phân, cho đến cuối Khôn thì giao với Đông chí, đều là tiến lên mà được những quẻ chưa sinh, cũng như từ ngày nay mà kể ngược đến ngày chưa tới, cho nên nói rằng: “Biết cái sắp tới là nghịch”. Nhưng nếu nói theo tận gốc cái chỗ Kinh Dịch sở dĩ dựng nên thì trước sau, đầu, trót, của nó như hình vẽ ngang và những chữ về phía hữu của hình tròn mà thôi, cho nên nói rằng: “Dịch là kể ngược”.
[50] Mỗi vạch trong một quẻ là hào.
[51] Tức Thiệu Ung.
[52] Chu Hy nói rằng: Đoạn này nói về hào thứ nhất. Một hào lẻ bên tả là Dương, một hào chẵn bên hữu là Âm, vẫn gọi hai Nghi.
[53] Chu Hy nói rằng: Đoạn này nói về hào thứ nhất sinh hào thứ hai. Nửa hào Dương dưới giao lên với nửa hào Âm trên, thì sinh ra một lẻ và một chẵn về hào thứ hai trong phần Âm, thành ra Thiếu Dương, Thái Âm; nửa hào Âm trên giao xuống với nửa hào Dương dưới, thì sinh ra một lẻ một chẵn, về hào thứ hai trong phần Dương, thành ra Thái Dương, Thiếu Âm, gọi là hai Nghi sinh ra bốn Tượng.
[54] Chu Hy nói rằng: Đoạn này nói về hào thứ hai sinh hào thứ ba: Dương là Thái Dương, Âm là Thái Âm, cứng là Thiếu Dương, mềm là Thiếu Âm. Nửa Thái Dương dưới giao với nửa Thái Âm trên thì sinh ra một lẻ, một chẵn về hào thứ ba trong phần Thái Âm, thành ra quẻ Cấn, quẻ Khôn; nửa Thái Âm trên giao với nửa Thái Dương dưới thì sinh ra một lẻ, một chẵn về hào thứ ba trong phần Thái Dương thành ra quẻ Kiền, quẻ Đoái, nửa Thiếu Dương trên giao với nửa Thiếu Âm dưới thì sinh ra một lẻ, một chẵn về hào thứ ba trong phần Thiếu Âm thành ra quẻ Ly, quẻ Chấn, nửa Thiếu Âm dưới giao với nửa Thiếu Dương trên thì sinh ra một lẻ, một chẵn về hào thứ ba trong phần Thiếu Dương thành ra quẻ Tốn, quẻ Khảm. Đó là bốn Tượng sinh ra tám Quẻ. Kiền, Đoái, Cấn, Khôn do ở Thái Dương Thái Âm sinh ra, cho nên gọi là bốn Tượng của trời; Ly, Chấn, Tốn, Khảm do ở Thiếu Âm Thiếu Dương sinh ra, cho nên gọi là bốn Tượng của đất.
[55] Chu Hy nói rằng: Trong hình vẽ này phía tả thuộc về Dương, phía hữu thuộc về Âm. Từ Chấn một hào Dương, Ly, Đoái hai hào Dương, Kiền ba hào Dương là Dương ở trong Dương, đi xuôi; từ Tốn một hào Âm, Khảm Cấn hai hào Âm, Khôn ba hào Âm, ở trong Âm đi xuôi, Khôn không có Dương, Cấn Khảm một hào Dương, Tốn hai hào Dương, là Dương ở trong Âm, đi ngược; Kiền không có Âm, Đoái, Ly một hào Âm, Chấn hai hào Âm là Âm ở trong Dương, đi ngược.
[56] Ông Từ Trai nói rằng: Hình Tiên thiên tròn, phía tả là Dương, phía hữu là Âm. Hai mươi quẻ phía hữu là Dương, bắt đầu từ hào Chín Đầu quẻ Phục, biến mười sáu lần đến hai hào Dương là quẻ Lâm; lại biến tám lần đến ba hào Dương là quẻ Thái, lại biến bốn lần đến bốn hào Dương là quẻ Đại Tráng, lại biến một lần đến năm hào Dương là quẻ Quái, có quẻ Kiền làm chỉ cho những quẻ ấy. Sự tiến của khí Dương, trước thong thả mà sau nhanh chóng, nó tiến dần dần, thế là “Dương ở trong Dương đi xuôi. Khí Dương chủ về bốc lên, từ dưới lên trên, cho nên là xuôi. Từ quẻ Phục đến quẻ Vô Vọng ba mươi hào Dương, từ quẻ Minh Di đến quẻ Đồng Nhân ba tám hào Dương, từ quẻ Lâm đến quẻ Ly, cũng tám hào Dương, từ quẻ Kiền đến quẻ Thái ba sáu hào Dương. Ba mươi là Dương còn nhỏ, hai tám là Dương đã to, mười sáu thì Dương rất thịnh. Khi Dương ở Bắc thì nhỏ, ở Đông thì to, ở Nam thì thịnh, thế cũng là xuôi, Dương xuôi Âm ngược, không nói cũng biết. Nhưng hào Dương ở hai quẻ phía hữu thì trái hẳn thế. Vì thế mới nói: “Cái lẽ chân thật cùng tột xét theo hình vẽ, có thể biết được.”
[57] Hồ Ngọc Trai nói rằng: Từ quẻ Phục đến quẻ Kiền ở về phía tả hình vẽ, là phương Dương, cho nên Dương nhiều mà Âm ít. Từ quẻ Cấn đến quẻ Khôn ở về phía hữu hình vẽ, là phương Âm, cho nên Âm nhiều mà Dương ít. Một vạch Dương bên tả đối với một vạch Âm bên hữu; một vạch Âm bên tả đối với một vạch Dương bên hữu. Đối nhau để dựng nên thế, Âm, Dương đều có một nửa. Theo đó mà xét, thì trong khoảng trời đất, Âm, Dương đều chiếm một nửa, vốn không có lẽ “tiệt nhiên là Dương, tiệt nhiên là Âm”. Có điều tạo hóa quý Dương rẻ Âm. Thánh nhân phò Dương nén Âm, cho nên trong khi tiêu lớn, sự khác nhau của thứ ngay (Dương) thứ gian (Âm) không thể không phân biệt cho kỹ.
[58] Hồ Ngọc Trai nói rằng: “Khảm, Ly là giới hạn của Âm, Dương”. Đó là theo ngôi Dần, Thân mà nói. Nói về bốn mùa thì Xuân là Dương, bắt đầu từ tháng Dần, ấy là Ly ngang vào Dần mà là giới hạn của khí Dương; Thu là Âm, bắt đầu từ tháng Thân, ấy là Khảm ngang vào Thân mà giới hạn của khí Âm. “Số thường vượt qua” nghĩa là: Ly tuy ngang vào với Dần mà giữa Mão mới hết, Khảm tuy ngang vào với Thân mà đến giữa Dậu mới hết. Đó là vượt qua giới hạn Dần, Thân, mà Âm, Dương thừa ra. “Dụng số không quá mực giữa”, nghĩa là lấy Dần, Thân không lấy Mão, Dậu. Bởi vì, ở ngôi Tý tuy Dương đã sinh, nhưng chưa ra khỏi đất, đến Dần khí ẩm nóng mới làm việc; ở ngôi Ngọ, tuy Âm đã sinh nhưng chưa làm hại cho Dương, đến Thân khí giá rét mới làm việc. Thế là dụng số không quá Dần Thân là chỗ chính giữa.
[59] Những điều thầy trò truyền trao cho nhau, không có ở trong kinh điển, gọi là tâm pháp.
[60] Chỉ về các sự biến hóa.
[61] Chỗ này Trần Tân An có giải thêm rằng: Trong câu “Cái học tiên thiên tức là tám pháp, hình vẽ đều bắt đầu từ giữa”. Chữ “đều” đó là cớ làm sao? Ãy là nói gồm tất cả hình vuông hình tròn. Tròi đất định ngôi, đó là hình tròn bắt đầu từ giữa Sấm (chỉ về quẻ Chấn) dùng để làm cho động, gió (chỉ về quẻ Tốn) dùng để làm cho tan; đó là hình vuông bắt đầu từ giữa. Giữa là ngôi của năm và mười ký ngụ. Cho nên hình tròn khi xoay về tả bắt đầu từ Khôn, khi xoay về hữu bắt đầu từ Kiền, đó là chỗ giữa khởi đầu ở ngôi nhất định của trời đất. Hình vuông chỗ giao nhau của Tây Bắc và Đông Nam, bắt đầu từ Chấn và Tốn; chỗ giao nhau của Đông Bắc và Tây Nam bắt đầu tử Hằng và Ích chúng; chỗ gặp nhau của Nam và Bắc bắt đầu từ Hằng Chấn và Tốn ích; chỗ gặp nhau của Đông và Tây bắt đầu từ Chấn Ích, Hằng Tốn: đó là cái giữa khởi đầu ở sự động, tan của sấm và gió. Theo đó mà bàn, thì tròn là hình động, lấy ngôi nhất định làm bản thể; vuông là hình tĩnh, lấy sự động tan làm công dụng, cho nên động mà không động, tĩnh mà không tĩnh. Đó là tâm pháp của môn học tiên thiên đấy chăng? Điều đó không thể không tìm cả ở trong hình vẽ.
[62] Các quẻ đều tính từ dưới lên trên, cho nên những nét dưới nhất của mỗi quẻ đều gọi là hào Đầu. Hào Dương (tức những gạch liền) thì gọi là “Chín”, hào Âm (tức những gạch đứt) thì gọi là “Sáu”. Rồi coi dưới đây sẽ rõ.
Nghĩa là quẻ Khôn lấy một hào đầu của quẻ Kiền thì thành ra Chấn. Những câu ở dưới theo đó mà suy, sẽ hiểu.
[63] Xem 62.
[64] Hồ Ngọc Trai nói rằng: ba con trai (tức Cấn, Khảm, Chấn) là Dương giống Kiền, mà lại quy cho Khôn tìm mới được; ba con gái (tức Tốn, Ly, Đoái) là Âm, giống Khôn, mà lại quy cho Kiền tìm mới được, là sao? Bởi vì ba con trai vốn là thể Khôn, mỗi con được một hào Dương của Kiền mà thành ra, đó là Dương gốc ở Âm, cho nên phải quy cho Khôn; ba con gái vốn là thể Kiền, mỗi con được một hào Âm của Khôn mà thành ra, đó là Âm gốc ờ Dương, cho nên phải quy cho Kiền. Thiệu Tử bảo: “mẹ chửa con trai lớn mà thành quẻ Phục, cha sinh ra con gái mà thành quẻ Cấn, cái nghĩa “Âm, Dương căn cứ lẫn nhau” coi đó có thể thấy rõ.
[65] Chu Hy chua rằng: Đây nói về ý Văn Vương thay đổi hình vẽ các quẻ của Phục Hy. Bởi vì từ Kiền Nam, Khôn Bắc giao lại với nhau thì hóa Kiền Bắc, Khôn Nam mà thành quẻ Thái; từ Ly Đông, Khảm Tây giao lại với nhau thì hóa Ly Tây, Khảm Đông mà thành ra quẻ Ký Tế. Kiền, Khôn giao nhau từ chỗ “thành ra” trở lại chỗ “sinh ra”, cho nên biến đổi lần nữa, thì Kiền lui về Tây Bắc, Khôn lui về Tây Nam; Khảm, Ly biến đổi thì phương Đông tự tiến lên mà sang phương Tây, phương Tây tự lui xuống mà sang phương Đông, cho nên, Kiền khôn đã lui thấy được ngôi Kiền mà Khảm được ngôi Khôn. “Chấn làm việc” là nó phát sinh ở phương Đông.“Tốn thay mẹ” là nó trưởng dưỡng ở Đông Nam.
Hồ Ngọc Trai nói rằng: Kiền Nam, Khôn Bắc, Ly Đông, Khảm Tây, đó là ngôi quẻ tiên thiên. Kiền, Khôn do chiều Nam Bắc giao nhau: Khôn Nam, Kiền Bắc thấy Khôn ở trên, Kiền ở dưới, cho nên hai đàng giao nhau thành ra quẻ Thái, Ly Khảm do chiều Đông, Tây giao nhau: Ly Đông, Khảm Tây, thì Khảm ở trên, Ly ở dưới, cho nên hai đàng giao nhau mà thành ra quẻ Ký Tế. Trong quẻ Tiên thiên, Kiền ở ngôi Ngọ mà đây lại nói Kiền sinh ở Tý, là vì Kiền là Dương, bắt đầu sinh ở quẻ Phục, quẻ Phục chính là ở giữa Tý: Khôn ở ngôi Tý mà đây lại là Khôn sinh ở Ngọ là vì Khôn là Âm, bắt đầu sinh ở quẻ Cấu, quẻ Cấu là giữa Ngọ, Ngọ là chỗ mà Kiền đã thành, nay lại lui xuống mà giao với Khôn ờ Tý, đó là “trở lại chỗ đã sinh”, cho nên đến khi đổi một lần mà thành ra quẻ hậu thiên thì Kiền lui về Tây Bắc, Khôn lui về Tây Nam. Trong quẻ Tiên thiên Ly nhằm ngôi Dần, mà đây lại nói Ly trót ở Thân, là vì Thân là ngôi của Khảm. Ly giao với Khảm mà trót ở Thân. Khảm nhằm ngôi Thân mà đây lại là nói Khảm trót ở Dần, là vì Dần là ngôi của Ly, Khảm giao với Ly mà trót ở Dần. Đông là bản vị của Ly, nó biến đổi đi, thì giao với Khảm mà ngoảnh sang Tây, ấy là “Đông tự tiến lên mà sang Tây”. Tây là bản vị của Khảm, nó biến đổi đi, thì giao với Ly mà ngoảnh sang Đông, ấy là “Tây tự lui xuống mà sang Đông”, cho nên biến đổi lần nữa thành quẻ hậu thiên, thấy tiến lên mà được ngôi của Kiền, Khảm lui xuống mà được ngôi của Khôn. Chấn thay cha, bắt đầu làm việc mà phát sinh ở phương Đông; Tốn thay mẹ kế tiếp làm việc mà trưởng dưỡng ở Đông Nam. Tiên thiên chủ về sự giao nhau của Kiền, Khôn Khảm Ly. Khi giao nhau thì nó biến đổi, không có định vị, đó là thì giờ của trời vô cùng, cho nên nói là “ứng với trời”. Hậu thiên chủ về sự giao nhau của Khảm, Ly, Chấn, Đoái, khi giao nhau nó không biến đổi mà có định vị, đó là phương hướng của đất có thường độ, cho nên nói là “ứng với đất”…
[66] Chu Hy nói rằng: Từng xét về hình vẽ này mà giải thêm rằng: Chấn Đông, Đoái Tây, tức là Dương chủ tiến lên, cho nên phải lấy con lớn (Chấn) làm trước mà để ở tả; Âm chủ lui xuống, cho nên phải lấy con nhỏ (Đoái) làm quí mà để ở bên hữu; Khảm ở Bắc tức là khoảng giữa của sự lui, con trai ở Bắc mà con gái ở Nam, ấy là “ở lẫn nhà nhau”. Bốn quẻ ấy đều ở ngôi chính của bốn phương mà là quẻ dùng vào việc, nhưng Chấn, Đoái trước mà Khảm Ly sau là Chấn, Đoái khinh mà Khảm, Ly trọng. Kiền ở Tây Bắc, Khôn ở Tây Nam là cha mẹ đã già mà lui về chỗ bất dụng, nhưng mẹ thì thân mà cha thì tôn, cho nên Khôn còn có việc làm mà Kiền thì hoàn toàn bất dụng; Cấn ở Đông Bắc, Tốn ở Đông Nam, là con trai nhỏ (Cấn) ở sau cuộc tiến mà con gái lớn (Tốn) ở trước cuộc lui cho nên cũng đều bất dụng; nhưng con trai chưa đến thầy học, con gái sắp đi lấy chồng, cho nên Tốn đã hơi quay về chỗ làm việc, Cấn thì hoàn toàn chưa dùng gì cả. Bốn quẻ này đều ở bốn góc, nhưng ở Đông (Tốn, Cấn) thì chưa làm việc, mà ở Tây (Kiền, Khôn) thì không làm việc nữa, cho nên Chương dưới (của thiên Thuyết Quái) nói khắp lượt sáu con mà không kể đến Kiền, Khôn. Đến như cuộc gặp nhau của nước (Khảm), lửa (Ly), sấm (Chấn), gió (Tốn), núi (Cấn), chằm (Đoái) thì dùng quẻ của Phục Hy. Đông Long Sơn nói rằng: Ly là mặt trời, mặt trời mọc ở Đông, cho nên trong quẻ tiên thiên, Ly ở về Đông: mặt trời soi thẳng ở Ngọ, là quãng giữa ngày, cho nên trong quẻ hậu thiên, Ly ở về Nam; Khảm là mặt trăng, mặt trăng mọc ờ Tây, cho nên trong quẻ Tiên thiên, Khảm ở về Tây, mặt trăng soi thẳng ở Tý, là quãng nửa đêm, cho nên trong quẻ Hậu thiên, Khảm ở về Bắc. Trong vòng tiên thiên các quẻ ấy ở về chỗ “sinh”, trong vòng hậu thiên, các quẻ ấy ở vào chỗ “vượng”. Chẳng những ngôi quẻ hậu thiên của Khảm và Ly đều theo thứ tự sinh vượng mà Chấn Thủy vượng ở Mão, Đoái Kim vượng ở Dần, Thổ thì vượng ở trung ương, cho nên Khôn vượng giữa quãng Kim Hỏa, Cấn đóng giữa quãng Thủy Mộc, Đoái là Âm Kim, Kiền là Dương Kim, cho nên Kiền tiếp với Đoái ở về Tây Bắc, Chấn là Dương Mộc, Tốn là Âm Mộc, cho nên Tốn tiếp với Chấn ở về Đông Nam, đều theo thứ tự sinh vượng của năm hành. Đó là chỗ dùng của Kinh Dịch.
[67] Hồ Song Hồ nói rằng: Số quẻ biến đổi của bài Bản Nghĩa trong Thoán Từ đã thích có mười chín quẻ. Tụng, Thái, Bĩ, Tùy, Cổ, Phệ Hạp, Bí, Vô Vọng, Đại Súc, Hàm, Hằng, Tấn, Khuê, Kiến, Giải, Thăng, Đỉnh, Tiệm, Hoán mà thôi. Và lại những quẻ đã thích, trừ ra hai quẻ Tụng, Tấn giống như hình vẽ, còn các quẻ khác đều không hợp cả. Ví như quẻ Tùy vốn từ các quẻ Khốn và Phệ Hạp, Ký Tế, Vị Tế đi lại, mà theo hình vẽ thì nó lại từ hai quẻ Bĩ, Thái đi lại, v.v. Là vì hình vẽ tùy theo Thoán Truyện làm ra, mà sự các quẻ biến đổi, thì không cách nào không thông, không thể câu chấp bằng sự nhất định. Từng xét về sự biến đổi trong hình vẽ này đều do hai quẻ sinh ra. Phàm những hào Dương biến ra hào Âm, hễ biến thì Dương từ phía dưới lên ở ngôi Âm, Âm từ phía trên xuống ở ngôi Dương, như quẻ Phục biến ra quẻ Sư, hào Đầu quẻ Phục, lên làm hào hai quẻ Sư, hào Hai Quẻ phục xuống làm hào Đầu quẻ Sư, v.v. Phàm những hào Âm biến ra hào Dương. hễ biến thì hào Âm từ phía dưới lên ớ ngôi Dương, hào Dương từ phía trên xuống ở ngôi Âm, như quẻ Cấn biến ra quẻ Đồng Nhân, hào đẩu quẻ Cấn lên làm hào hai quẻ Đồng Nhân, hào Hai quẻ Cấn xuống làm hào Đầu quẻ Đổng nhân, v.v.
[68] Thí dụ: số thẻ cầm tay là 19, đếm bốn chiếc một, được bốn lần, hết 16 chiếc, còn thừa ba chiếc. Hay là số thẻ cầm tay là 24 chiếc, đếm bốn chiếc một, được năm lần - vì bao giờ cũng phải để ra một số linh dư - hết 20 chiếc, còn thừa bốn chiếc. Số khác theo đó mà suy.
[69] Hồ Song Hồ nói rằng: Chu Tử từng bảo Kinh Dịch chỉ là môn sách bói toán, vốn không phải dùng để dạy đời. Nhưng nay hễ đọc một quẻ một hào, liền thấy cũng như bói được. Coi Tượng ngẫm lời, coi sự biến đổi ngẫm lời chiêm đoán mà lại dò tìm cái lẽ tại sao mà thế mới là khéo đọc. Vì vậy cho nên ở các quẻ Kiền, Khôn nên biết cái phận vua tôi, cha con; ở các quẻ Hàm, Hằng, nên biết sự phân biệt giữa vợ và chổng; ở các quẻ Chấn, Khảm, Cấn, Tốn, Ly, Đoái nên biết thứ tự người lớn người nhỏ; ở câu “Lệ trạch Đoái” nên biết sự giảng tập của bè bạn; cho đến những việc cấn thận sự nói năng, dè dặt sư ăn uống, phải có được ở quẻ Di; ngăn điều tức giận, chừa điều ham muốn, theo điều thiện, đổi điều lỗi, phải có được ở quẻ Tổn, Ích; không nịnh hót, không khinh nhờn, cẩn thận sự giao tế của bậc trên bậc dưới, để làm cái đạo toàn thân, phải có được ở Đại Truyện. Cứ thế mà suy, đọc đâu thì thu dụng đấy. Đó là ý tinh vi về sự theo trung, theo hiếu của đấng quân tử. Tuy rằng cầm thẻ mà bói, nhưng cái rễ gốc cũng không có gì hơn thế.
[70] Chỉ Đức Khổng Tử.
[71] Tây Hán, Đông Hán.
[72] Tức là sự suy đoán lành dữ.
[73] Vì là việc bất đắc dĩ mà phải làm.
[74] Tức là những thiên Thuyết Quái, Văn Ngôn, Hệ Từ.
[75] Tức là nói về sự bói.
[76] Coi lời giải nghĩa ở hai quẻ Kiền, Khôn dưới đây.
[77] Chữ 繫 “hệ” có nghĩa là buộc, là treo, là đèo. Hệ Dịch 繫易 nghĩa là đèo thêm lời nói vào các hào quẻ của Kinh Dịch.
[78] Những thứ thuộc về danh từ (nom), tình từ (adjectif) sách Tàu gọi là chữ thực, còn các loại khác đều là chữ hư.
[79] Tức là bỏ hết thành kiến, đứng vào địa vị khách quan.
[80] Chu Hy tự xưng.
[81] Truyện của Trình Di.
[82] Chỗ này Chu Hy bảo rằng; Tất cả sáu hào, không cạn nói cách hạn định. Và như “rồng lặn chớ dùng”, kẻ thứ nhân được hào đó thì nên đừng làm việc gì, ông vua được hào đó thì nên lui tránh; “rồng hiện ở ruộng” thứ nhân được hào đó cũng có thể làm việc; “lợi về sự, thấy người lớn" cũng như ngày nay người ta nói rằng “nên gặp quý nhân”, v.v. Kinh Dịch không phải là vật hạn định. Y Xuyên đã từng tự nói rằng: “Nếu mỗi hào chỉ nhằm một việc, thì ba trăm tám mươi tư hào đương được ba trăm tám mươi tư việc mà thôi”. Nói vậy rất hay, không biết làm sao đến đây lại giải như thế?
[83] Bởi vì hào này ở giữa quẻ dưới, cho nên gọi là trung chính.
[84] Tức là được ngôi hiển đạt quyền thế, chỉ về hào Chín Năm.
[85] Câu này ở hào Chín Hai và hào Chín Năm dưới đây đều có.
[86] Chữ “rồng lặn” trong hào Chín Đầu.
[87] Chữ "quân tử" trong hào Chín Ba.
[88] Săng sắc cũng như những tiếng “cần cật”, “kiền kiệt”, nghĩa là làm việc luôn không nghỉ.
[89] Hồ Vân Phong nói rằng: Hào Đầu hào Hai là ngôi của đất, cho nên ở hào Hai nói rằng: “ở ruộng”; hào Trên hào Năm là ngôi của trời, cho nên ở hào Năm nói rằng “ở trời”; hào Ba hào Tư là ngôi của người, cho nên ở hào Ba không nói rồng mà nói quân tử. Vậy thì chữ “ngôi của người” tức là ngôi của loài người, đối với ngôi của trời và ngôi của đất.
[90] Tức là quẻ dưới.
[91] Chỗ này Chu Hy bác rằng: Trình Tử bảo “người ở ngôi dưới mà đức làm vua đã tỏ” cũng là câu chấp. Phải biết đây là nói suốt cả người trên người dưới, vua có chỗ dùng của vua, tôi có chỗ dùng của tôi, cha có chỗ dùng của cha, con có chỗ dùng của con, các sự vật đều thế. Nếu như lời của Trình Tử, thì trong khoảng hàng nghìn trăm năm, chỉ có vua Thuấn vua Võ dùng được hào này.
[92] Tính cứng thuộc về Dương, Dương là biểu hiện của sự cứng mạnh. Hào này là hào Dương, lại ở ngôi lẻ, cho nên gọi “hai lần cứng”.
[93] Vì là ngôi chẵn, số chẵn thì thuộc Âm.
[94] Chỗ này Chu Hy bảo rằng: Hai câu “rồng bay ở trời" và "lợi về sự thấy người lớn”, trong thiên văn ngôn đã thích rõ ràng: “cùng tiếng ứng nhau, cùng khí tìm nhau, nước chảy chỗ ướt, lửa tới chỗ khô, mây theo rồng, gió theo hổ, thánh nhân dấy lên mà muôn vật cùng thấy”, ấy là rành rành cho thánh nhân là rồng; dùng chữ “dấy lên” để thích chữ “bay”, lấy chữ “muôn vật cùng thấy” giải câu “lợi về sự thấy bậc người lớn” chỉ là thiên hạ lợi về sự được thấy ông vua đức lớn. Ngày nay người ta lại làm ra một thuyết khác, e rằng không phải ý của thánh nhân.
[95] Đây là Trình Di hạn góp từ chữ “Thoán viết” trở xuống.
[96] Hai quẻ giống nhau làm thành một quẻ như Kiền, Khôn, v.v. là trùng.
[97] Hồ Vân Phong nói rằng: Cứng, mạnh, trung, chính, thuần, túy và tinh, chỉ hào Chín Năm mới đương được đức tính ấy. Còn phải gồm dùng sáu hào để phát huy ý nghĩa của nó, là muốn thông ra một cách rộng rãi, cho hết tình của sự vật mà thôi.
[98] Hồ Vân Phong nói rằng: Cứng, mạnh, trung, chính, thuần, túy và tinh, chỉ hào Chín Năm mới đương được đức tính ấy. Còn phải gồm dùng sáu hào để phát huy ý nghĩa của nó, là muốn thông ra một cách rộng rãi, cho hết tình của sự vật mà thôi.
[99] Chỉ về tên Khôn mà tượng là đất.
[100] Chỉ về chữ “Đại” chữ “Thủy” ở lời Thoán quẻ Kiền.
[101] Chỉ về chữ “Đại” chữ “Thủy” ở lời Thoán quẻ Kiền.
[102] Cẩn thận giữ gìn từ khi việc còn nhỏ tý.
[103] Theo lời Tiên Nho thì hai chữ 堅冰(Kiên băng) ở đây không thông, vì ở dưới đó còn có mấy chữ 蔭始凝也Âm thủy ngưng dã: khí âm mới đọng) thì chưa thể có váng rắn.
[104] Ngôi chẵn, số Âm.
[105] Bề tôi nhà Hạ muốn cướp ngôi vua nhà Hạ.
[106] Bề tôi nhà Hán mà muốn cướp ngôi nhà Hán.
[107] Em gái Phục Hy, đã có làm vua nước Tàu.
[108] Vợ Đường Cao Tốn, đã cướp ngôi vua nhà Đường.
[109] Chữ này Kinh văn không có. Đây theo truyện Trình Di thêm vào.
[110] Tháng một.
[111] Tháng mười.
[112] Tức là Khảm.
[113] Tức là Chấn.
[114] Chỉ về Chấn.
[115] Chỉ về Khảm.
[116] Chữ “Mông” có nghĩa là trẻ thơ, cũng có nghĩa là tối tăm.
[117] Chỉ về Cấn.
[118] Chỉ về Khảm.
[119] Chỉ về Cấn.
[120] Chữ 婦 (phụ) cũng có thể dịch là đàn bà.
[121] Cổ Nhạc Phủ chép rằng: Nước Lỗ có chàng Thu Hồ, lấy vợ năm ngày thì sang làm quan nước Trần. Năm năm mới về, giữa đường thấy người con gái hái dâu có sắc đẹp, chàng lấy làm thích, bèn xuống xe đưa vàng cho nàng để hòng ve vãn, nhưng nàng không nhận. Tới nhà, Thu Hồ đưa vàng cho mẹ, rồi gọi vợ lên thì chính là người con gái hái dâu mà chàng toan tính cho vàng. Ghét chồng có nết bất chính, nàng bèn ra sông tự trầm.
[122] Chỉ về Khảm.
[123] Chỉ về Kiền.
[124] Tụng nghĩa là kiện.
[125] Chỉ quẻ Khảm.
[126] Đồ mặc do mệnh trên ban cho.
[127] Chữ Sư (chữ Hán) có nghĩa là quân gia, là đông người, hay quần chúng.
[128] Chỉ quẻ Khảm.
[129] Chỉ quẻ Khôn.
[130] Oán vì chậm đến đánh xứ mình.
[131] Tức là việc binh.
[132] = nếu không.
[133] Chỉ về hào Năm.
[134] Hai ông này đều thích chiến tranh.
[135] 1953snake: Theo cụ Phan Bội Châu, "hậu phu" chỉ người hờ hững, rù rờ, lạc hậu.
[136] Vua Thang đi săn, giăng lưới rồi khấn rằng: “Muốn sang tả thì sang tả, muốn sang hữu… con nào không nghe lời thì vào lưới ta”.
[137] Súc nghĩa là chứa là nuôi.
[138] Văn Vương bị vua Trụ bắt giam ở ngục Dũ Lý.
[139] Nước của Văn Vương.
[140] Chữ 履(lý) nghĩa là giày lên, xéo lên.
[141] Chữ “xéo lên” này nghĩa là theo đó mà đi, không phải có ý đầy đọa như chữ “xéo lên” mà ta vẫn nói.
[142] Chỉ về lời Thoán của Văn Vương, tức câu 履虎尾, 不咥人亨(lý hổ vĩ bất chất nhân, hanh).
[143] Tần Thủy Hoàng.
[144] Hạng Vũ.
[145] Nước Trịnh bị nước Tống đánh.
[146] Đồng nhân nghĩa là cùng với người.
[147] Chỉ quẻ Ly.
[148] Mảnh tre có in tên, họ, chức, tước của bọn nội giám treo ở cửa cung. Người nào muốn vào, so thấy hợp mảnh tre ấy mới cho vào. Phép của đời Hán như vậy.
[149] Đây là dịch theo Truyện của Trình Di và Bản Nghĩa của Chu Hy. Theo đúng Nho văn thì phải dịch là “yên lặng mà đi”.
[150] Đại Hữu có nghĩa là cả có (có lớn).
[151] Dịch theo Bản Nghĩa của Chu Hy.
[152] Chỉ quẻ Cấn.
[153] Chỉ quẻ Khôn.
[154] Chữ 豫(Dự) có nghĩa là vui.
[155] Quẻ Đại Hữu và quẻ Khiêm.
[156] Chỉ quẻ Khôn.
[157] Chỉ quẻ Chấn.
[158] Chữ “tùy” nghĩa là theo.
[159] Chỉ quẻ Đoái.
[160] Chỉ quẻ Chấn.
[161] Nếu theo Chu Hy, chữ 時 (thì) ở dưới chữ 之 (chi) thì câu này phải dịch là “thì nghĩa của Tùy lớn lắm thay”.
[162] Chữ 蠱 (cổ) có nghĩa là giống bọ nuôi để hại người lại có nghĩa là làm mê hoặc người ta.
[163] Chỉ về hai quẻ Dự, Tùy.
[164] Là quẻ Tốn.
[165] Là quẻ Cấn.
[166] Tức là nhắc nhở, như nói phấn chấn.
[167] 臨 (lâm) nghĩa là tới, tức là tiến sát tới nơi.
[168] Tức tháng mười một âm lịch.
[169] Tức tháng sáu âm lịch.
[170] Chỉ quẻ Khôn.
[171] Chỉ quẻ Đoái.
[172] Chữ 觀 có âm là quan, nghĩa là xem; lại có âm là quán, nghĩa là bị xem.
[173] Tức là chính trị giáo hóa.
[174] 1953snake: Theo cụ Phan Bội Châu: "chung mạc chi lăng dã" có nghĩa là "cuối cùng không ai lăng vũ được mình".
[175] Chữ 剝(Bác), có nghĩa là gọt, có nghĩa là lột.
[176] Chỉ quẻ Cấn.
[177] Chỉ quẻ Khôn.
[178] Thuận là quẻ Khôn, đỗ là quẻ Cấn.
[179] Cũng như nói “đẽo giường tự chân”, mấy chữ “bằng” ở dưới cũng thế.
[180] Dời sang đường thiện.
[181] Chữ 復 (Phục) nghĩa là trở lại.
[182] Thương là người buôn bán, lữ là kẻ đi đường.
[183] Tức quẻ Khôn.
[184] Câu này dịch theo ý của Trình Di, đã dẫn vào ở chương trên.
[185] Chữ Vô vọng tức là không càn, tức là thành thật khống có càn quấy.
[186] Chỉ quẻ Chấn.
[187] Chỉ quẻ Kiền.
[188] “Tri” là ruộng vỡ cỏ một năm, “dư” là ruộng vỡ cỏ ba năm, tiếng ta không có tiếng nào đúng hai chữ đó. Trong việc làm ruộng của ta, có tiếng “ngả” chỉ việc bừa cho vở đất nát cỏ, và tiếng “ngấu” chỉ những ruộng đã thối cỏ liền bùn. Vậy hãy tạm dùng hai tiếng “ngả”, “ngấu” để định hai chữ “Tri”, “Dư”
[189] Tức đoạn Dịch truyện dưới đây.
[190] Đại Súc nghĩa là chứa lớn.
[191] Dị đoan nghĩa là mối khác. Tiếng của nhà Nho thì những học phái ngoài phái mình. Thiên học là học chuyên về một phương diện như hình danh học, âm dương học, v.v.
[192] Trong tiếng thể đạo, chữ thể là động từ (verbe), nghĩa là thể theo. Thế đạo tức uốn nắn, đo đắn cho đúng với đạo, như thể lấy đạo làm hình thể vậy. Nêu thể nào làm theo thể ấy, tức là tùy nghi.
[193] Chữ 頤 (Di) có nghĩa là mép, có nghĩa là nuôi.
[194] Tức là nói năng, ăn uống.
[195] Đại Quá có nghĩa là lớn quá thường.
[196] Sát thân thành nhân.
[197] Chữ 坎 (Khảm) có nghĩa là hãm, là hiểm, là hố sâu.
[198] Chữ “Bui” là một tiếng cổ của ta, nghĩa nó gần như tiếng “chỉ” “chỉ có” “chỉ vì theo”.
[199] Sự dùng của từng thì.
[200] Năm thước là một tầm.
[201] Mười thước là một trượng.
[202] 簋 (quỹ) là thứ đồ đan bằng tre hình tròn, ngày xưa người Tàu dùng để đựng xôi trong khi cúng tế, nay tạm dịch là rá.
[203] Chữ 離 (Ly) có nghĩa là mắc, lại có nghĩa là sáng.
[204] Chỉ quẻ Hàm.
[205] Chỉ quẻ Đoái.
[206] Tức là bỏ hết thành kiến.
[207] Tức là có thành kiến.
[208] Coi hào sau đây.
[209] Coi hào sau đây.
[210] Chỉ quẻ Đoái.
[211] Chữ 恒(hằng) nghĩa là thường thường lúc nào cùng như lúc nào.
[212] Độn nghĩa là trốn, là tránh đi.
[213] Lệ dùng chữ 小 (tiểu) chỉ kẻ tiểu nhân.
[214] Đây là dịch theo Chu Dịch Bản nghĩa, còn theo Dịch Truyện, chữ “thoát” đọc là “thuyết”, nghĩa là nói.
[215] Theo Chu Dịch Bản Nghĩa và lời Tượng, chữ này đọc là “phủ”.
[216] Động cựa và ngừng đậu.
[217] Chữ Đại Tráng nghĩa lớn mạnh.
[218] Văn Vương bị vua Trụ giam ở ngục Dũ Lý.
[219] Ông Cơ Tử là anh ruột vua Trụ; thấy vua Trụ càn dỡ, không thể can được, ông ấy giả rồ đi làm đứa ở, sau về với nhà Chu.
[220] Vua Thang nhà Thương đánh vua Kiệt nhà Hạ, vua Vũ nhà Chu đánh vua Trụ nhà Ân, đều là bầy tôi đánh vua.
[221] Vua Thang bị vua Kiệt giam ở ngục Hạ Đài, khi được tha ra liền dựng lên cơ nghiệp nhà Thương, vua Văn bị vua Trụ giam ở ngục Dũ Lý, khi được tha ra liền gây nên cơ nghiệp nhà Chu.
[222] Tức là theo lời văn mà chọn lấy nghĩa ý.
[223] Dương Hùng trước làm tôi nhà Hán, sau Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, lại làm tôi Vương Măng.
[224] Gia Nhân nghĩa là người nhà.
[225] “Trị” này nghĩa là kỷ cương, có trật tự, trái lại với chữ “loạn”.
[226] Những chữ “đến” trong đoạn văn này, theo ý của Trình Di, đều là rất mực, tột bậc.
[227] Kính mình nghĩa là giữ mình một cách nghiêm trang kính cẩn.
[228] Chữ “đến” nghĩa là đi tới.
[229] Chỉ về người làm vua.
[230] Nghĩa là làm cho thân mình chính đính ngay ngắn.
[231] Tức là đức Khổng Tử.
[232] Chữ 睽(Khuê) nghĩa là trái lìa nhau.
[233] Chữ 蹇(Kiển) chính nghĩa là khó khăn nhụt chậm.
[234] Chữ 蹇(Kiển) lại có nghĩa là què chân.
[235] Chữ 解 (giải) nghĩa là cởi ra, là giải tán, là gỡ ra.
[236] Tức là Lời Hệ mà Truyện của Trình Di dẫn vào dưới lời Tượng của hào này.
[237] Nghĩa là khe hở, chỗ hở.
[238] Tức đoạn Lời Hệ mà Truyện của Trình Di dẫn vào ở trên.
[239] Chữ 损 (tổn): Nghĩa là bớt đi, là hao tổn, trái với chữ 益 (ích).
[240] Coi lời chua quẻ Khảm.
[241] Đây là dịch theo ý của Trình Di, còn theo ý của Chu Hy thì chữ “dĩ” nghĩa là “thôi” không phải nghĩa “đã”.
[242] Đây là dịch theo Trình Di, còn theo Chu Hy thì 尚 này phải dịch như trên.
[243] Chỉ quẻ Đoái.
[244] Dịch theo ý của Chu Hy.
[245] Ý nói: dầu đem thẻ rùa mà bói cũng đúng như vậy.
[246] Đời xưa chưa có tiền tệ, người tiêu bằng mai rùa, hai chiếc mai rùa gọi là một bằng. Mười bằng tức là hai chục chiếc mai rùa.
[247] Tính cả hai quẻ làm một. Như quẻ Tổn, hào Hai và hào Năm là vạch liền, ở giữa đều là vạch đứt, gần giống như hình quẻ Ly.
[248] Đây là theo ý Trình Di, đổi chữ 木 (mộc) ở lời kinh ra làm chữ 益 (Ích) cho nên dịch là “đạo Ích”.
[249] Dời sang điều thiện nghĩa là bắt trước điều thiện của người ta.
[250] Câu này giống câu ở hào Chín Năm quẻ Tốn. Đây dịch theo ý Chu Hy, đã chứa ở quẻ Tổn. Nếu theo Trình Di thì phải dịch là “Hoặc ích đấy, mười bạn giúp đấy, rùa không thể trái”. Bởi vì trong văn chữ Nho, Trình Di chấm là: “Hoặc ích chi, thập bằng chi, qui phất khắc vi”, ở hào Chín Năm quẻ Tổn. Nhưng Chu Hy giải chữ 朋 “bằng” là “hai chiếc mai rùa” có căn cứ ở sách Thực Hóa Chí, còn Trình Di không căn cứ vào đâu.
[251] Nghĩa là xem bói cũng thấy là phải.
[252] Tức là thiên đô.
[253] Theo ý Chu Hy thì lời nói lệch nghĩa là mới nói một phần.
[254] Chữ “quải” nghĩa là quyết, chữ quyết lại có nghĩa là vỡ lở, vì vậy họ Trình mới giải bằng lối dây cà dây muống như vậy.
[255] Chữ “quải” nghĩa là quyết, chữ quyết lại có nghĩa là vỡ lở, vì vậy họ Trình mới giải bằng lối dây cà dây muống như vậy.
[256] Theo Chu Hy thì trong quẻ Quải này, chỉ có chữ (號) ở lời quẻ đọc là hiệu, nghĩa là gọi, còn các chữ (號) ở các hào, đều đọc là hào, nghĩa là kêu.
[257] Kinh Thư nói rằng: Vua Thuấn đánh rợ Miêu không được, bèn rút quân về, thôi vũ dùng văn, rối múa cái can cái vũ (hai thứ binh khí) ở hai thềm, bảy tuần mà rợ Miêu quy phục.
[258] Chữ 决 (quyết có nghĩa là tháo, như khơi nước tháo nước).
[259] Tức là khí Dương lớn lên.
[260] Dịch theo ý Trình Di. Theo Trương Trung Khê thì chữ “cư đức tắc kỵ” nghĩa là “ngừng đức thì kiêng” chứ không phải là ở đức phép kỵ, như ý Trình Di.
[261] Ý nói hai chữ đọc là 號 “hiệu” và một chữ đọc là hào.
[262] Ý nói hai chữ đọc là 號 “hiệu” và một chữ đọc là hào.
[263] Chia ra, tách ra, phân biệt.
[264] Tức là chữ 垢 (cấu).
[265] Tức là chữ 遘 (cấu).
[266] Theo Kinh Thư, vua Cao Tôn nhà Thương nằm mơ tháy một người hiền, thức dậy liền vẽ hình tượng người ấy sai sứ đi tìm, đến đất Phó Nham, gặp ông Phó Duyệt đương đắp tượng thuê ở đó, bèn mời về triều, cho làm tể tướng.
[267] Theo Sử Ký, vua Văn Vương khi sắp đi săn có bói một quẻ, lời quẻ bảo là sẽ gặp người hiền, quả nhiên khi đến Bàn Khê, gặp ông Khương Thượng ngồi câu ở đó, liền chở lên xe đem về và phong làm chức thượng phủ.
[268] Chữ “không thể đổ lỗi cho ai” thì khác hẳn những chữ “không lỗi” khác, mà cũng trái với văn pháp của chữ 無咎(vô cửu).
[269] Chữ (cách), xưa vẫn cắt nghĩa là “đến”, tiếng “đến” này có khi nói về quỷ thần. Khi cúng, được quỷ thần về hưởng, đó tức là “đến”.
[270] Ý nói ông vua có cách tụ họp khôn khéo, đến nỗi khi cúng tôn miếu quỷ tuần về hưởng thì là kết quả tột bậc.
[271] Nghĩa là tụ bạ bằng cách cẩu thả.
[272] Nghĩa là đi vào bằng cách bất chính.
[273] Kẻ cứu viện mạnh.
[274] Người bạn nghèo khốn.
[275] Chữ 升(thăng) nghĩa là lên.
[276] Theo ý của Chu Hy.
[277] Chữ 困 (Khốn) nghĩa là cùng khốn, mỏi mệt, thiếu thốn, bị hãm, bị mắc.
[278] Tức là vui với số phận tự nhiên.
[279] Nghĩa như thế nào thì yên lòng thế ấy.
[280] Coi thiên Hệ Từ dịch sau đây.
[281] Tức là che gối, đã chua ở trên.
[282] Chữ 井 (tỉnh) có nghĩa là giếng, có nghĩa là làng, lại có nghĩa là tề chỉnh rành rọt.
[283] Ta gọi mạch nước.
[284] Ông tổ nhà Chu.
[285] Theo Trình Di và Trương Trung thì hai chữ “giếng giếng” chữ trên là động từ (verbe), chữ dưới là danh từ (nom). Giếng giếng là “giếng cái giếng” cũng như nói “cuốc cái cuốc” “cày cái cày” “quạt cái quạt” vậy.
[286] Nghĩa là múc nước giếng mà dùng.
[287] Một thứ cỏ sàn ở phía Bắc nước Tàu, có hột như lúa, nhưng phần nhiều chỉ để nuôi gia súc.
[288] Dịch theo Trình Di.
[289] Chữ (cách) nghĩa là cải cách, thay cũ đổi mới.
[290] Chữ 鼎 (đỉnh) nghĩa là cái vạc.
[291] Sáng là tinh mắt, suốt là thính tai, hai chữ khác nghĩa nhau.
[292] Nghĩa là cái đạo cùng tột, không có ngừng đọng.
[293] Theo Trình Di thì chữ “hình ốc”, nghĩa là hình dáng đầm đìa. Đây địch theo ý Chu Hy. “Hình ốc” là tội nặng. Ở sách Chu Lễ Thiên Thu Quan, có chữ ốc tru (ốc tru). Trịnh Tư Nông chua rằng: “Ốc tru tức là giết cả ba họ”. Trần Kiến thích hai tự truyện của Hán Thư thì cho “ốc tru” là giết kẻ đại thần trong nhà, không để lộ ra. Vậy chữ “ốc tru” có thể dịch là giết kín hay là giết cả ba họ.
[294] Chữ 震 (chấn) nghĩa là chấn động, khiếp sợ.
[295] Tức là con hy sinh.
[296] Theo Trình Di, chữ này muốn chỉ về con trưởng của vua chúa.
[297] Chữ 艮 (cấn) có nghĩa là “ngăn, đậu”.
[298] Đậu là dừng lại, đứng lại, đỗ lại.
[299] Tức là chữ 趾 (chỉ) trong câu 艮 其 趾 (Cấn kỳ chỉ) ở đoạn trên.
[300] Tức là câu 艮其背 (Cấn kỳ bối).
[301] Nghĩa đen là đem chữ “trung” ở câu này kháp vần với chữ “cung” ở lời Tượng hào Tư và chữ “chung” ở lời Tượng hào dưới đây.
[302] Những chữ “dầy”, chữ “dốc” ở hào này là để dốc lòng, dốc sức, không có nghĩa khác.
[303] Chữ 漸 (tiệm) nghĩa là dần dần.
[304] Tức là tiêu đi, sinh là sinh ra.
[305] Ngô Lâm Xuyên nói rằng: Đợi lúc đáng tiến mới tiến, không phải chỉ ăn uống cho no mà tự nuôi mình mà thôi.
[306] Chữ 儀 (nghi) Trình Di giải nghĩa là khuôn phép, Chu Hy thì cho là miều cờ.
[307] Chữ 儀 (nghi) Trình Di giải nghĩa là khuôn phép, Chu Hy thì cho là miều cờ.
[308] Chữ 歸妺 (qui muội) nghĩa là em gái về nhà chồng.
[309] Con gái vua chúa lấy chồng, gọi là “gả xuống”.
[310] Đời xưa thường đựng các thứ rau dưa để cúng vào giỏ.
[311] Tức là con vật để cúng, như bò lợn, v.v.
[312] Chữ 豐 (Phong) có nghĩa là thịnh, là giàu, là lớn lao.
[313] Tức là xét án.
[314] Tức là ghép vào tội.
[315] Chỉ về hào giữa quẻ Ly.
[316] Chữ 沫 (mạt là bọt nước), nguyên văn chua rằng: “nên đổi ra chữ 昧 (mạt tên những sao nhỏ).
[317] Chữ 沛 (bái) nghĩa là nước trút xuống.
[318] Chữ 旆 (bái) là tên thứ cờ lớn.
[319] Chữ 旅 (lữ) nghĩa là đường đi, ở trọ, tức là kẻ hành lữ.
[320] Tức là cảnh trọ đậu cùng khốn.
[321] Tức là sự “nên phải” của từng thời.
[322] Tức là cẩn thận.
[323] Coi hào Chín Trên quẻ Tốn ở sau đây.
[324] Chu Hy muốn nói đi đường phải có đồ giữ mình, lại phải có tiền, như thế thì ở câu này, cứ để y nguyên chữ 資 (tư là của) cũng được.
[325] Tức là lời bàn của Từ Tiến Trai ở trên.
[326] Quẻ này trên Ly, dưới Cấn, nếu bỏ hào trên của thể Ly mà lấy hào trên của thể Cấn phụ vào thì thành thể Đoái, thế là đắp đổi thể Đoái; nếu bỏ hào dưới thể Cấn mà lấy hào dưới thể Ly phụ vào thì thành thể Tốn, thế là đắp đổi thể Tốn.
[327] Chữ 巽 (tốn) có nghĩa là núp, là vào, lại có nghĩa nhún nhường.
[328] Tức là khiêm tốn.
[329] Ngày xưa vua đi săn, thường dùng quân lính bổ vây, rồi cho xe ngựa xông vào, trên xe có người chuyên việc đánh xe, có người chuyên dùng cung tên bắn các thú vật.
[330] Nghĩa là cân nhắc đắn đo. Chu Hy muốn dùng chữ “quỹ” để thích chứ “quý” mà ghép cho nó có nghĩa.
[331] Trong Nho văn “đoạn” là chặt và “đoán” là quyết đoán vốn cùng một chữ mà đọc khác đi. Vì vậy Trình Di mới dùng cách dây cà dây muống mà giải chữ “phủ” là búa là ra nghĩa quyết đoán, cương quyết.
[332] Câu này Trình Di, Chu Hy không đồng ý nhau, theo Trình Di chữ (hồ) phải dịch là “chăng” mà theo Chu Hy thì nghĩa là chưng.
[333] Chữ 渙 (hoán) nghĩa là tan.
[334] Hai chữ “cùng” nghĩa khác nhau.
[335] Hai chữ “cùng” nghĩa khác nhau.
[336] Dịch theo Chu Hy.
[337] Dịch theo Chu Hy.
[338] Chữ 節 (tiết) nghĩa chính là dóng tre, nghĩa bóng là chừng mực, là tiết độ, là dè dặt, là nết cứng thẳng kiên nhẫn, như nói tiết nghĩa, tiết tháo, v.v.
[339] Chữ 中 孚 (trung phu) nghĩa là giữa tin hay trong tin.
[340] Dịch theo Chu Hy
[341] 小過 (tiểu quá) nghĩa là nhỏ quá, hay lỗi nhỏ.
[342] Tức là hơi quá mức thường.
[343] Tức là nết, tang và dùng.
[344] Chữ 既濟 (Ký Tế) nghĩa là sang sông, đã nên việc, hay đã xong việc.
[345] Dịch theo Trình Di. Theo Chu Hy thì chữ 茀 (phất) nghĩa là mui xe.
[346] 未濟 (Vị Tế) nghĩa là chưa sang hay xong.