mười
Hai Đoan đứng dậy cài nút áo, vuốt lại mớ tóc rối.
Gã đàn ông cũng đứng dậy, gã dềnh dàng đứng ở sau những tĩn nước mắm không, xếp cao nghệu như một trái núi ở bờ sông. Nơi hành nghề của Hai Đoan là một cái ghế bố kê khuất sau bức tường tĩn nước mắm. Nàng hối thúc:
- Đưa tiền để tôi đi!
Gã đàn ông vuốt lại quần áo:
- Đi đâu mà gấp quá vậy?
Hai Đoan nhìn ra mé sông, mặt sông tối om, thấp thoáng những chiếc ghe thương hồ cắm neo ở phía trên con kinh. Gã chơi bời này ở trên đó. Gã vẫn còn như tiếc rẻ phút ái ân vừa qua, bàn tay gã không để yên. Gã kiếm chuyện để kéo dài hành động đó:
- Bằng lòng đi với anh một đêm không?
Hai Đoan hất tay gã ra:
- Không được! Trả tiền đi!
- Em khó quá!
- Không khó khăn gì hết, nhưng con tôi còn nhỏ, tôi không thể để nó ở nhà một mình.
Gã đàn ông móc tiền một cách chậm chạp. Hai Đoan hối:
- Lẹ lên, lính vô thấy mẹ!
Hai Đoan giật phắt tiền trên tay hắn, nhét vào túi rồi quay đi, mặc cho gã gọi với đằng sau lưng.
Hai Đoan đi qua một con hẻm nhỏ, thằng bé đứng đợi ở đó chìa tay:
- Tiền chị!
Hai Đoan ấn vào tay nó hai chục bạc, nó níu Hai Đoan lại:
- Ê còn tiền dắt mối nữa chớ, đây mới là tiền chị mướn «phòng» của tôi..
Hai Đoan đành phải đưa thêm một chục bạc nữa:
- Mày ăn ngon ơ!
Phòng của thằng oắt con là cái ghế bố kê ở mé sông sau những tĩn nước mắm xếp cao. Suốt từ tối đến giờ, chị Hai Đoan đã mướn phòng của nó đến năm lần. Thằng oắt con háy mắt với Hai Đoan một cách đểu giả:
- Nữa không, tôi đi rước cho...
Chị Hai Đoan lườm nó:
- Thôi mày ơi, tao sức mấy!
- Chị dở ẹc, nhiều em tới hai mươi mấy lần lận mà đâu có hề hấn gì.
Chị Hai Đoan hứ một tiếng rồi bỏ đi. Thằng nhỏ gắn điếu thuốc lên môi phì phèo hút, nhìn theo người đàn bà...
Chị Hai Đoan nhẩm đếm lại só tiền kiếm được trong túi mình. Hơn bốn trăm đồng bạc, chị đủ nuôi chồng trong khám một tuần lễ dư dã.
Dù Hai Dậu ở tù, vợ anh ta là Hai Đoan cũng muốn cho chồng mát mặt. Tội nghiệp, chắc anh thèm nhậu lắm. Chị Hai Đoan có thể gởi thức ăn vào cho Hai Dậu, còn rượu thì không thể được.
Hai Đoan nghèo quá, một nách con mọn, chị thương chồng, nhưng không thể có tiền môt cách lương thiện để nuôi chồng. Chị đành cắn răng đi vào sau bức tường tĩn nước mắm, mỗi tuần một đêm.
Hai Đoan nghĩ đến những ngày sống bên chồng, chồng chị là một gã đàn ông hiền lành, không ngờ lại nhúng tay vào vụ giết người gớm ghiếc. Nghĩ đến hai cái xác của Tư Thung và của Tám Thạch, Hai Đoan lại rùng mình. Chị cũng không hiểu nguyên do ra sao? Khi Hai Đoan vào khám thăm chồng, nàng hỏi nguyên do, Hai Dậu chỉ cười nhạt:
- Hạng sâu mọt đó để sống làm chi.
Hai Dậu không nói gì hơn, anh ta hỏi thăm về gia đình, nhắn nhủ nàng nuôi con, thỉnh thoảng qua thăm mẹ hắn. Hai Đoan đành gạt nước mắt trở về. Cho đến ngày hôm nay, Hai Đoan vẫn không biết gì hơn về tội lỗi của chồng. Những kẻ thối mồm trong xóm lại được dịp nói xấu gia đình Hai Dậu:
- Trông mặt thằng đó thì biết liền, cái bản mặt sát nhân, nó toan tống tiền thầy Tư Thung nhưng không được nên giết đại. Anh em thằng này toàn quân trộm cướp giết người không hà...
Có người lại đến dụ khị Hai Đoan bỏ chồng:
- Tôi đoán không sai đâu, chồng mầy thế nào cũng bị tử hình, mày còn đeo đuổi chi vậy?
Chị Hai Đoan buồn bã:
- Tôi không thể bỏ ảnh, ảnh là người rất yêu vợ thương con, tôi nghĩ có nguyên nhân gì đây.
Thiên hạ càng nói xấu Hai Dậu bao nhiêu, Hai Đoan càng thương chồng bấy nhiêu. Lần đầu tiên nằm trong tay một người đàn ông lạ để lấy tiền nuôi chồng, Hai Đoan khóc tấm tức. Sau nàng quên đi... nàng chai như đá, nàng coi những người đàn ông chỉ là phương tiện kiếm tiền không hơn không kém.
Chị Hai Đoan dừng lại dưới một cột đèn sáng, móc cái thực đơn từ trong khám gởi ra. Tội nghiệp, hắn không bao giờ dám đòi hỏi quá đáng. Thực đơn của Hai Dậu chỉ ghi vỏn vẹn có 5 gói thuốc Lào, hai gói thuốc Bastos đỏ, một bao trà và 5 đồng bạc kẹo.
Những bức thư của Hai Dậu viết cho vợ thật thảm thiết: «Em hãy lo cho con, cố gắng nuôi nấng nó nên người. Còn anh, em cứ coi nlư là đã chết rồi. Hẹn tái ngộ em ở kiếp sau. Em hãy phụ rẫy anh đi, em đừng bấu víu hy vọng gì vào người chồng đau khổ nầy nữa...» Bức thư của Hai Dậu thật buồn.
Chị Hai Đoan nghĩ đến đứa con của mình và Hai Dậu. Đứa nhỏ èo uột, bệnh hoạn luôn. Nhưng chị thương yêu nó, nó là kết tinh của tình yêu. Suốt từ ngày lấy Hai Dậu, chị chưa hề được hưởng sự no ấm. Hai Dậu không làm đâu yên chỗ, hắn kém giao thiệp và thường hay nổi nóng với chủ. Nơi nào Hai Dậu cũng làm việc, cao lắm là được ba tháng rồi hắn lại thất nghiệp hằng hai, ba tháng trời. Buổi tối hắn lang thang ra quán nhậu ngồi đến hai ba giờ đêm mới về. Hắn lầm lì thấy dễ sợ. Trước ngày Hai Dậu giết Tư Thung và Tám Thạch, hắn càng lầm lì hơn.
Chị Hai Đoan rẽ vào một con hẻm nhỏ, hai bên nhà cửa san sát, nói đúng ra là những túp lều bẩn thỉu. Bao nbiêu năm trời nay chị Hai Đoan chưa ngoi ra khỏi nơi đó. Chị cũng không hy vọng gì, chị yên phận với một đời sống.
Chị Hai Đoan rẽ vào nhà mẹ chồng, bà Sáu Họ còn thức. Và đang chơi với thằng Èo.. Thấy mẹ, nó buông bà nội, giơ tay ra đón.
Chị Hai Đoan ôm lấy con, thằng nhỏ rút tìm vú mẹ.
Bà Sáu Ngọ hỏi con dâu:
- Mày đi đâu mà lâu quá vậy?
- Tôi đi mượn tiền!
- Được không?
- Đủ để nuôi ảnh một tuần.
Bà Sáu Họ thở dài:
- Tội nghiệp nó, không dè thằng đó lại liều lĩnh như vậy? Mầy có hiểu tại sao không?
Chị Hai Đoan lắc đầu:
- Tôi không hiểu, không hiểu tại sao ảnh lại như vậy... Tôi không thấy ảnh nói gì hết.
Chị Hai Đoan không nói đến chuyện ấy nữa. Chị nghĩ đến những món quà gì mình sẽ mua được cho chồng.
Chị than phiền:
- Khuya quá, nên tôi chưa mua được gì cho ảnh, sáng mai tôi đi mua sớm.
Bà Sáu Họ cũng nói:
- Tao chẳng làm gì có tiền, con Út đi bán xổ số chẳng được bao nhiêu. Nó có nhín nhút được ít tiền, tao mua thịt làm cho thằng Hai một nồi thịt kho. Mai đi mầy mang đi luôn.
Chị Hai Đoan chợt nhớ đến thằng Ba Choát, chị hỏi mẹ chồng:
- Má có biết tin tức gì của chú Ba không?
Bà Sáu Họ lắc đầu:
- Không biết nó đi đâu biệt tăm mấy tháng trời nay, không chừng đi ăn trộm ăn cắp gì đó người ta đánh chết rồi.
Nói xong bà Sáu Họ thở dài. Bà nghĩ đến thân phận gần đất xa trời của mình, tủi thân mếu máo:
- Sao thân tao khổ thế nầy, con cái mỗi đứa một nơi, đứa mất tích. Tội nghiệp con Út mới chút xíu tuổi đầu mà phải đi kiếm tiền nuôi mẹ. Năm thì mười hoạ tao mới nhận được một bức thư của thằng Tuyển gởi về... Không biết bây giờ nó ra sao?
Đứa con chị Hai Đoan đã ngủ say, rời vú mẹ. Chị Hai Đoan đứng dậy:
- Thôi tôi về má!
- Ừ, mầy về! Nhớ ngày mai trước khi đi sang đây đã nghe!
Chị Hai Đoan dạ một tiếng, nàng bước ra cửa. Đứa con bị động thức giấc ọ ẹ khóc, tiếng khóc yếu ớt.
Chị Hai Đoan vỗ vỗ vào mông, nựng con:
- Ngủ đi con, ngủ đi, mai má cho con vào thăm ba...
Chị Hai Đoan bỗng dưng thấy lòng mình xót xa. Chị áp má vào lưng con, bước nhanh qua một vũng lội. Chị đẩy tấm liếp vào nhà.
Căn nhà tối om om, chị Hai Đoan quờ quạng tìm bao quẹt... Chị bật lửa, ánh sáng yếu ớt bùng lên. Chị châm lửa vào ngọn đèn dầu, bóng chị và đứa con hắt lên vách lung linh.
Đặt con vào giường, chị vén mùng quạt muỗi phành phạch. Chi tắt ngọn đèn, căn phòng chìm vào bóng tối dày đặc. Khi chị Hai Đoan nằm xuống, chị nghe tiếng mái chèo khua trên con kinh cạnh nhà. Âm thanh đó chìm vào trong giấc ngủ mệt nhọc của chị.
Sáng hôm sau chị Hai Đoan dậy sớm, chị ra chợ mua một giỏ đồ nặng cho chồng, rẽ vào nhà mẹ chồng lấy nồi thịt kho hột vịt.
Chị tới khám đường đã muộn, trời bắt đầu nắng gắt. Thằng Èo trên tay chị khóc nhài nhại. Chị Hai Đoan phải khó nhọc lắm mới đưa đuợc giấy thăm nuôi cho người tù công vụ. Mãi lúc đó chị mới yên trí.
Chị Hai Đoan và nhiều người đàn bà khác ngồi chờ đến phiên mình ở một căn nhà tôn ngoài khám đường. Ai nấy đều có vẻ mệt mỏi, nóng ruột. Những giỏ đồ tiếp tế có đính thẻ bài xếp hàng ngay ngắn để chờ chuyển vào khám..Chị Hai Đoan cũng có phần nào hãnh diện vì giỏ đồ thăm nuôi của mình không đến nổi tồi quá, chiếc giỏ cũng đầy đặn.
Ngồi ngoài xa, nhưng chị Hai Đoan vẫn nghe rõ mồn một hồi chuông thăm nuôi reo vang trong phòng. Một tốp người trở ra, một tốp khác lại thay thế đi vào. Ruột gan chị Hai Đoan nóng như lửa đốt. Thằng con nhỏ khóc nhèo nhẹo, chị cởi nút áo, ấn vú vào miệng con, nó ẩy ra. Chị Hai Đoan dỗ dành:
- Nín đi con, lát vào thăm ba.
Chị dỗ chán chê, đứa nhỏ vẫn khóc, nó khóc to hơn. Chị Hai Đoan bực mình phát vào mông con chửi:
- Tổ cha bây khóc gì mà khóc dữ!
Đứa nhỏ ré lên, một người đàn bà ngồi bên cạnh bất mãn:
- Chị coi xem nó đau bụng đau bào gì không. Sao lại đánh nó?
Chị ta lấy ra lọ dầu cù-là Mạc-Su:
- Thoa bụng cho nó coi!
Đứa nhỏ đưọc thoa dầu khắp người một lát nó thôi khóc. Chị đàn bà nói:
- Chị thấy chưa, nó đau bụng tôi nói đâu có sai. Chị có mấy đứa con rồi!
- Em mới có một đứa!
- Hèn gì chị chưa kinh nghiệm...
Chị đàn bà bèn dạy chị Hai Đoan cách thức nuôi con Chị ta có vẻ tự mãn về phương pháp nuôi con của mình. Nhìn đứa nhỏ èo uột chị ta bắt mạch liền:
- Thằng nhỏ này bị sài đẹn, đưa đi thầy chỉ tốn thêm tiền không ích lợi gì, tốt hơn mình nên chữa chạy lấy!
Chị Hai Đoan tò mò hỏi:
- Mình chữa sao, có phải mua thuốc thang gì không?
- Không cần, chị nghe tôi, chị biết con mối không? Con mối mà buổi tối bò trên trần nhà bắt muỗi... Chị cho thằng nhỏ ăn hai con là khỏi...
Chị Hai Đoan trợn mắt lên:
- Ăn rắn mối!
- Phải chỉ ăn hai con thôi, nó vô trong bụng sẽ giết hết vi trùng. Nó lại là vị thuốc quí nữa bởi vì nó ăn toàn đồ bổ. Nó bắt nuỗi mà muỗi đâu có ăn gì bậy bạ nó hút máu, máu là chất bổ.. Chị nghe tôi, chỉ cần hai con, thằng bé sẽ hồng hào, khỏe khoắn...
Chị Hai Đoan nghe chị đàn bà bàn xuôi tai chị ta hỏi:
- Bắt hai con mối rồi mình phải làm thịt thế nào?
- Sao lại làm thịt, để hai con còn sống nguyên cho đứa nhỏ ngậm vào miệng, mình bấm vào đuôi con mối, nó chạy tụt vào cổ họng thằng nhỏ, nó vô trong bụng giết vi trùng, ăn giun...
Chị Hai Đoan ngồi há hốc miệng ra nghe, đứa nhỏ đã ngủ trên tay chị. Người tù công vụ cầm xấp đơn thăm nuôi ra gọi tên. Chị Hai Đoan nôn nả đứng dậy khi thấy gọi đến tên mình.
Chị đàn bà còn nói vói theo:
- Về nhớ làm như vậy nhé!
- Dạ!
Chị Hai Đoan cầm giấy hối hả băng qua bãi cỏ vào phòng thăm nuôi. Phòng thăm nuôi đông nghẹt người. Chị Hai Đoan vội vã tới trước tấm lưới dành một chỗ đứng tốt.
Một hồi chuông rung lên, đám tù từ trong phòng ra tấm lưới đứng. Họ đứng ở phía trong. Chị Hai Đoan nghển cổ lên kiếm tìm hình bóng thân yêu. Chị bỗng reo lên, giơ tay vẫy rối rít:
- Anh Hai Dậu ơi em ở đây kia mà!
Hai Dậu mặc bộ đồ bà ba trắng, anh tươi nét mặt chạy ngay lại phía vợ.
Mười ngón tay Hai Dậu bíu lấy tấm lưới sắt, cố kiễng người lên cho gần vợ con hơn:
- Em chờ có lâu không?
Chị Hai Đoan nước mắt đoanh tròng gật đầu:
- Hôm nay em gởi cho anh đủ ăn trong một tuần.
- Tiền ở đâu mà nhiều quá vậy?
Chị Hai Đoan nuốt nước mắt, chị nói nhỏ:
- Tiền của em, anh đừng nghĩ đến chuyện đó.
Hai Dậu nhìn đứa con:
- Thằng Èo có khoẻ không?
Chị Đoan không muốn chồng buồn nên nói dối:
- Khoẻ như thường!
Phòng thăm nuôi ồn ào, Hai Dậu nói chuyện phải hét lên. Anh ta nói thật vắn tắt những điều cần thiết. Anh hỏi về tin tức Tuyển, chị Hai Đoan lắc đầu:
- Không thấy chú về. À hôm vừa rồi má có nhận được thư của nó và một ít tiền do một người bạn mang về.
Hai Dậu chép miệng:
- Cả nhà chỉ có một mình thằng đó... Nếu viết thư cho nó biểu anh gởi lời hỏi thăm.
Như chợt nhớ ra Hai Dậu nói lớn:
- Thằng Ba Choát bị tù, anh mới gặp nó hôm qua ở trong này.
- Vậy hả?
- Về nói cho má yên tâm.
- Nó tội gì?
- Cũng ăn cắp ăn trộm chi đó, thành án rồi, hai năm tù.
Chị Hai Đoan thở dài; chị thương cho sự bất hạnh của gia đình chồng:
- Em gởi nhiều đồ ăn lắm, anh chia cho chú ấy, tuần sau em sẽ nuôi cả hai anh em.
Hai Dậu cảm động, anh ta lắc đầu:
- Thôi khỏi em à, tiền đâu mà nuôi lắm thế. Trong này đủ cả, anh em rất thương yêu nhau.
Chị Hai Đoan tấm tức khóc:
- Sao anh dại dột quá vậy, anh không thương vợ thương con.
Nước mắt Hai Dậu cũng ứa ra:
- Số mạng em ơi, anh đâu muốn làm khổ vợ con.
Một hồi chuông rung lên. Đám đông ồn ào, đã hết giờ thăm nuôi. Người giám thị ra lùa đám phạm nhân trở vào; nhiều người còn nán lại dặn dò dăm ba câu, mặc sự xô đẩy.
Chị Hai Đoan bỗng khóc òa lên, chị giơ cao đứa con để chồng nhìn thấy. Bóng Hai Dậu khuất dần sau khung cửa sắt. Chị Hai Đoan vẫn còn nhìn theo, đứa con chị cũng khóc, nó khóc vì quá sợ.
° ° °
Chị Hai Đoan dằn ngửa con ra giường.
Thằng Èo khóc ré lên. Chị Hai Đoan ngồi quặp lấy bụng thằng bé, chân chặn lên hai tay nó. Thằng Èo hết đường cựa quậy. Chị đè đùi lên chân con để nó không đạp được. Chị dùng hai bàn tay nựng con:
- Đừng khóc con, ngoan má chữa bịnh cho, tội nghiệp con tôi...
Bàn tay trái chị Hai Đoan bóp vào má con, khiến nó há miệng ra. Thằng bé nhổ phì phì, bọt sùi ra mép.
Chị Hai Đoan với tay lấy chiếc ly, trong đó đựng hai con rắn mối chạy lăng quang. Chị thò tay vào trong ly túm lấy một con. Thằng bé con trợn mắt lên khi nhìn thấy con rắn mối.. Chị Hai Đoan xách đuôi con vật lên lừa đút đầu con vật vào miệng thằng nhỏ, con vật ngo ngoe. Thằng nhỏ sặc sụa, uó vùng vẫy nhưng vùng vẫy không nổi.
Chị Hai Đoan bấm vào đuôi con vật, khiến con vật chạy tụt vào cổ họng thằng bé. Nó trợn trừng mắt lên, mặt đỏ tía, bật ho uốn cong người lên. Nó không khóc được nữa, nó thở hổn hển, miệng há ra, mặt tái đi.
Chị Hai Đoan quan sát sắc diện con, chị yên trí vì đứa nhỏ «chịu thuốc». Nó khóc ọ ẹ, tiếng khóc thật yếu, nó không còn đủ sức đạp nữa. Chị Hai Đoan túm nốt một con vật còn trong ly. Thằng bé lại khóc thét lên.
Chị Hai Đoan dỗ con:
- Còn một con nầy nữa thôi, chịu khó nuốt nốt đi con.
Thằng bé mệt lả, nó không khóc được nữa; nó cũng không còn sức để vùng vẫy. Nó mở mắt trắng dã nhìn con vật, miệng nó vẫn bị bóp mở ra để mẹ nó tự do lùa con vật vào. Chị Hai Đoan bấm vào cái đuôi, con vật chạy tụt vào cổ họng thằng bé một cách dễ dàng.
Chị Hai Đoan thở phào, chị ta bế con lên, đôi mắt đứa nhỏ trợn trừng, nó ho, ụa ra một chất nhớt vàng... Chị Hai Đoan mừng thầm vì «thuốc» không ra theo.
Thằng nhỏ nằm lả người đi. Một lát nó uốn cong mình, đạp đùng đùng, hai mắt nó trắng dã... Mặt nó xanh dần, nét xám hẳn lại. Chị Hai Đoan vội vã bồng con lên, nhét vú vào miệng con:
- Bú đi con, bú đi, mai là con khỏi liền.
Nhưng thằng nhỏ chỉ tộp vào vú mẹ rồi lại nhả ra. Thỉnh thoảng nó uốn cong người lên khóc ngằn ngặt.
Ngày hôm sau nó ỉa chảy liên miên, nó ụa mửa và không chịu bú. Tới ngày thứ hai người nó lả đi. Nửa đêm nó lên một cơn sài dữ dội, mắt trợn trừng bọt mép sùi ra. Chị Hai Đoan cuống lên. Nhưng không còn kịp nữa, sau giây phút dẫy dụa, nó co quắp tay chân rồi chết.
Chị Hai Đoan khóc ngất bên xác con..
- Trời ơi! Tôi đã giết con tôi...
° ° °
Những chiếc máy chụp hình đưa lên chụp lia lịa. Chị Hai Đoan giơ tay lên che mặt, những ánh đèn flash như những lằn chớp làm chị chóa mắt, chị ngã ngồi phịch xuống. Chị mơ hồ thấy có một bàn tay nào đó đỡ mình. Tiếng nói:
- Lấy đầu thoa cho chị ta, tội nghiệp!
Chị Hai Đoan dần dần tỉnh lại. Chị ta hốt hoảng kêu lên:
- Chồng tôi, trời ơi chồng tôi đâu, sao tuyên án tử hình chồng tôi?
Hai Dậu được điệu ra, hai hàng lính đứng dàn chào hai bên, mặt anh ta lạnh như tiền.
Tới trước mặt vợ, anh đứng đừng lại không chịu đi. Anh nhìn vợ bằng con mắt ráo hoảnh:
- Con đâu em!
Chị Hai Đoan lồng lộn trong tay người cảnh sát, chị khóc như mưa, chị nghe thấy câu hỏi của chồng, chị không biết phải trả lời làm sao. Tên tử tội hình như hiểu nỗi khổ tâm của vợ, anh ta an ủi:
- Thế là hết rồi, anh cám ơn em. Cố nuôi con nên người. Em nên tìm một người chồng khác có thể nương nhờ.
Nói đến đây, tên tử tội Hai Dậu ứa nước mắt. Hắn móc túi lấy ra một con chim phượng đan bằng sợi ny-lông rất đẹp:
- Em cầm về con chơi, anh đan trong khám cho con.
Hai người giám thị xô đẩy Hai Dậu, nhưng hắn cố sức nán lại:
- Cho tôi nói với vợ tôi lần cuối cùng...
Mấy anh phóng viên báo chí cũng hết lời can thiệp:
- Xin các ông cho hắn nói, anh có chống án không?
- Không!...Thôi em về đi, về đi anh sẽ phù hộ cho mẹ con em.
Chị Hai Đoan bíu lấy chồng:
- Anh ơi! Anh ơi sao anh chết thảm quá vậy? Các người ác quá, các người giết chồng tôi...
Một người phóng viên chen vào:
- Anh có xin Tổng thống ân xá không?
- Không, các anh dang ra!
Bàn tay Hai Dậu nắm lấy bàn tay vợ, siết mạnh:
- Anh đội ơn em! Cho anh gởi lời về hỏi thăm bà con lối xóm, chúc bà con sống bình an. Anh đã trả được mối căm thù cho họ. Anh giết Tư Thung.
Người phóng viên khác hỏi:
- Anh cho biết cảm tưởng, anh cần nói lời cuối cùng gì không?
- Tôi không có gì nói với các ông, các ông không hiểu gì hết.
Hai người giám thị không thể nhẫn nại được hơn nữa. Họ lôi Hai Dậu đi, chị Hai Đoan lết trên bậc cầu thang, bàn tay chị chới với... Hai Dậu được dìu xuống cầu thang ra xe. Lúc đó là buổi tối...
Chị Hai Đoan ôm món đồ chơi chồng làm cho con, chị khóc thảm thiết, chị cô đơn giữa tòa án rộng thênh thang. Chị nghe tiếng xe rồ máy, chị bíu lấy chân một bức tượng đồng đen. Bức tượng người đàn bà cầm chiếc cân đang nhìn xuống... Chị Hai Đoan khóc nức nở, chị kêu trời....
Buổi sáng sớm tinh mơ hai ngày sau, chị Hai Đoan đã ra pháp trường ngồi đợi, chị vẫn ôm con chim phượng hoàng do bàn tay khéo léo của chồng đan. Chị ta ngồi dưới cột đèn nhìn ra phía chiếc máy chém đen sì nổi bật trên bầu trời hừng sáng.
Pháp trường đặt tạm ở một con đường lớn gần chợ. Người ta không biết máy chém được mang đến từ hồi nào trong đêm. Máy chém đặt trên một cái bục gỗ có lính gác suốt con đường từ lúc 3 giờ đêm. Chợ bắt đầu nhóm họp, người hiếu kỳ mỗi lúc một bu đông.
Chị Hai Đoan ngồi đó, đôi mắt chị mở to, đôi mắt đó như không chớp, ráo hoảnh. Chị không còn nước mắt để khóc, chị khóc quá nhiều rồi. Khóc suốt hai ngày qua. Bây giờ thì chị bình tĩnh, bình tĩnh đến độ thản nhiên. Chị theo dõi từng công việc nhỏ của từng người có phận sự trong pháp trường. Chị nghe tiếng búa gõ lách cách, tiếng nói chuyện, tiếng bàn tán về tên tử tội của những kẻ hiếu kỳ. Họ kết tội chồng chị, chồng chị là một tên sát nhân cướp của.
Chị Hai Đoan lẩm bẩm:
- Em không tin anh là một con người như vậy, em chung sống với anh bao nhiêu năm trời, em hiểu anh, anh hiền lành như một cục đất.
Trong phiên tòa, Hai Dậu cũng chẳng hề tự bào chữa cho mình. Anh ta để mặc luật sư cãi thí muốn bênh vực sao thì bênh vực. Anh chỉ nhận: «Tôi có giết Tư Thung và Tám Thạch ». Ông công tố viện gắt gao buộc tội:
- Xét về lý lịch của bị can, tuy bị can chưa hề phạm pháp, nhưng bị can ra đời tại một nơi nói tiếng là có nhiều tay anh chị, những phần tử lưu manh. Không ít thì nhiều bị can bị thâm nhiễm những thói hư tật xấu. Xét về gia đình của bị can, một gia đình từng có anh em phạm pháp vì tội ăn trộm ăn cắp...
Ông ta phất tay áo đen:
- Tôi kết luận, bị can giết người để cướp của, không một lý do nào khác...
Chị Hai Đoan thở dài... Trời vẫn chưa sáng rõ.
Những người có phận sự đã bắt đầu tới pháp trường mỗi lúc một đông. Toán Cảnh sát gác đường làm việc một cách ráo riết hơn. Họ không cho một người nào lọt vào vòng vây Cảnh sát.
Chợt từ cuối đường đằng kia có tiếng còi ré lên. Đèn pha chiếu sáng rực một khoảng đường. Một xe Jeep Cảnh sát và hai chiếc mô-tô dẫn đầu phóng như bay, áp tải theo một xe bít bùng chở tử tội.
Hai Dậu thảng thốt:
- Tới nơi rồi hả?
Anh ta nhìn qua khung cửa mắt cáo, bầu trời mờ mờ sáng ngoài kia. Người giám thị già ngồi cạnh nhìn tử tội bằng đôi mắt tội nghiệp:
- Hút một điếu thuốc lá cho ấm lòng nhé!
Hai Dậu như một kẻ mất hồn, hắn đón lấy điếu thuốc mà tay run bần bật. Người giám thị trẻ bật lửa mồi thuốc cho tử tội. Hai Dậu rít một hơi thuốc, hắn thẫn thờ nhả khói:
- Ôi vợ tôi, con tôi!...
Tiếng nói của Hai Dậu buồn rười rượi như một tiếng than dài. Chiếc xe dừng lại. Bốn người lính võ trang tiểu liền tới cửa xe. Tấm cửa sắt mở, tử tội hiện ra với hai người giám thị áp tải. Tử tội mặc bộ đồ ba ba trắng bằng vải thô. Hắn run rẩy bước xuống xe, mắt nhìn ra máy chém. Hắn nói như kẻ mất hồn:
- Các người chém đầu tôi à, sao không bắn, tôi ngỡ là bắn?
Một vị linh mục đến gần tử tội, giơ chiếc thánh giá ra trước mặt hắn:
- Con có bằng lòng trở lại đạo không?
Hai Dậu ngơ ngác nhìn ra đám đông:
- Vợ tôi, con tôi đâu?
Vị Luật sư biện hộ cho Hai Dậu tới:
- Xin chia buồn, tôi đã cố hết sức...
Hai Dậu gật đầu, hắn bình tĩnh trở lại:
- Cảm ơn ông, ông nói dùm với vợ con tôi hãy làm lại cuộc đời.
Vị đại diện đến với Hai Dậu, ông ta bắt tay Hai Dậu thật chặt:
- Anh được quyền hưởng ân huệ cuối cùng.
- Một ly rượu Vĩnh Sanh Hòa.
Hai Dậu trả lời bình thản. Hắn được đưa ra một cái bàn gần đó. Không có rượu Vĩnh Sanh Hòa, vị đại điện pháp luật đưa cho Hai Dậu chai Whisky. Hai Dậu vừa uống rượu vừa nhìn chiếc máy chém. Người ta không biết hắn nghĩ gì, hắn thản nhiên và bình tĩnh coi như không có chuyện gì xảy ra.
Vị đai diện pháp luật nóng ruột:
- Gần tới giờ rồi, yêu cầu anh lẹ lên!
Tên tử tội nhìn ông ta bằng cặp mắt lạnh lùng:
-Tất cả các người đều có vẻ nóng ruột. Được, tôi sẽ chết cho các người coi!
Hai Dậu uống nốt ly rượu. Hắn đứng dậy. Một người phóng viên vượt được hàng rào Cảnh sát tới gần Hai Dậu:
- Anh nghĩ sao về việc làm của anh?
- Ông nói vụ giết người?
- Phải!
- Tôi hài lòng!
- Còn bản án?
- Xin hỏi ông chánh án, đó là nhiệm vụ của ổng!
Hai người lính áp tải không để cho Hai Dậu nói nhiều, họ dẫn anh ta đến máy chém. Người đao phủ đã đứng trên bục gỗ cao, đưa tay đỡ tên tử tội Hai Dậu. Ông ta còng quặt hai tay tử tội về phía sau, sửa soạn choàng chiếc băng đen lên mắt Hai Dậu. Hai Dậu nói nhỏ:
- Đừng bịt mắt tôi có được không?
Người đao phủ lắc đầu. Hai Dậu nhìn quanh xuống đám người phía dưới. Hình ảnh cuối cùng hắn ghi nhận được là đám đông và chiếc xe tang của hắn, buổi bình minh...
Lưỡi dao máy chém nâng cao, phản chiếu ánh sáng mặt trời sáng loáng....
Tên tử tội chỉ kịp rùng mình, người đao phủ đã đẩy hắn ngã sấp mặt xuống chiếc máng, chiếc máng tự động lăn vào đúng tầm, một cái ngoàm bằng gỗ ngoạm lấy cổ tử tội.
Lưỡi dao từ trên cao tuột dây, rơi phụp xuống như một lằn chớp. Người ta giật mình khi nghe tiếng phập ngọt và gọn....Cái xác giật mạnh rồi nằm yên...
Chờ cho máu từ cổ tử tội chảy hết, hai người phụ tá tới khiêng xác ra đặt vào chiếc áo quan thô sơ. Một người khác cúi xuống giỏ mạc cưa xách cái đầu lên.....
Ở phía đám người hiếu kỳ có kẻ xỉu.
Sau khi trả lại cái đầu cho cái xác, nắp áo quan được gắn kín lại. Chiếc áo quan được đưa xuống chiếc xe hơi đen. Chiếc xe có hai chiếc mô-tô hộ tống rú còi chạy trở lại khám đường.
Người đao phủ ngồi ở bậc máy chém, gắn một điếu thuốc lá lên môi. Anh ta bình thản đánh diêm châm thuốc, nhả một nạm khói. Nạm khói vương vất trong không khí, nắng đã lên cao. Đám đông hiếu kỳ theo lệnh Cảnh sát tản mác đi.
Người đao phủ ra lệnh cho đàn em:
- Tụi bây cho xe vòi rồng rửa ráy sạch sẽ rồi gỡ máy đem về. Tao phải đi ăn một tô phở...
Nói xong anh ta bước xuống khỏi bậc thang...Tàn điếu thuốc cong vòng rớt xuống áo anh ta. Anh thấy một người đàn bà ngồi ở lề đường, đôi mắt mở lớn nhìn anh ta trừng trừng. Chị ta bỗng hét lên một tiếng rồi ngất xỉu. Con chim phượng hoàng đan bằng sợi ny-lông ở tay chị rơi ra lề đường.
Anh ta nhặt lên ngắm nghía rồi trả vào tay chị ta. Anh quay lưng đi, người đàn bà cũng vừa tỉnh dậy. Chị nhìn theo gã đao phủ bằng đôi mắt ngơ ngác, bỗng chị toét miệng ra cười. Chị đứng dậy vừa đi vừa lẩm bẩm.
Bọn con nít tò mò chạy theo, bỗng chị ta dừng lại nhìn một đứa nhỏ gầy còm trên tay anh nó:
- Con ơi! Con của má!
Đám con nít hét lên:
- Bớ người ta, mụ điên!
Chị đàn bà cười lên sằng sặc đuổi theo bọn con nít.