← Quay lại trang sách

hai mươi bảy

Phiên tòa xử suốt từ sáng, nghỉ một lúc buổi trưa xử tiếp cho đến tối mới tuyên án. Hội Thọt bị ba nằm tù ở, gã tài xế sáu tháng.

Út thở phào:

- Không ngờ án của nó chỉ nhẹ thế thôi.

Chương nhìn theo Hội Thọt đang được hai người giám thị khiêng ra xe:

- Nó què nốt rồi, có được tha bổng cũng chỉ đến ăn mày mà thôi.

Út cười nhạt:

- Đáng đời nó, thằng nầy nguy hiểm nhất ở cái mồm, đáng lý ra phải cắt lưỡi nó...

Chương nắm lấy tay Út:

- Thôi chớ em...

Hai nguời ra khỏi tòa án, gã tài xế đi qua mặt Út vái một cái:

- Em cám ơn bà chủ đã thương tình gỡ tội cho em; mai mốt em về xin đến cám ơn bà chủ.

Út mỉm cười, nàng nắm chặt tay Chương:

- Bây giờ mình đi đâu hả anh?

Chương nhìn dọc theo đường Công Lý:

- Anh cũng không biết đi đâu nữa. Chiều nào chúng ta cũng gặp nhau.

Út đi sát vào Chương:

- Em không muốn sống thế nầy mãi, từ ngày ra đời đến nay em chưa bao giờ được hưởng sung sướng hoàn toàn, em chỉ sống tạm bợ. Em muốn yên phận.

- Em còn trẻ mà!

- Còn trẻ thật đó nhưng mệt mỏi quá rồi, em có cảm tưởng...

- Cảm tưởng gì?

- Già cỗi!

Chương mỉm cười, nắm chặt tay Út:

- Anh cũng vậy!

Út ngước nhìn lên, nhìn vào khuôn mặt phẳng lặng của người yêu. Nàng vòng tay ôm ngang hông Chương:

- Em không bao giờ đi ngoại quốc, em ở lại với anh, anh chịu không?

Chương im lặng, chàng hút một điếu thuốc lá, ngửa mặt nhả khói lên trời. Chàng nhìn thấy ngọn đèn điện vàng vọt làm cho tàng lá cây sao buồn hơn.

Út nói nhỏ:

- Anh, em muốn trở về xóm cũ, may ra dò được tin tức của má em, không biết tại sao chiều nay em nhớ bả quá.

Chương đưa Út băng qua đường:

- Mình sẽ đến đó!

Chương giơ tay vẫy một chiếc tắc-xi...

° ° °

Căn nhà tối tăm, đâu đó có tiếng muỗi đói kêu vo ve. Mùi bùn từ dưới bờ kinh xông lên hôi thối. Bà Sáu Họ nói với người lính trẻ ngồi đối diện:

- Cứ nước rút là mùi hôi thối xông lên, bác ở đây quen rồi, có lẽ anh hơi khó chịu.

- Dạ thưa bác, đời chiến binh như tụi cháu cũng khổ sở lắm, ít khi được thong thả.

Anh quân nhân mặc bộ quần áo rằn ri, một cánh tay băng treo bằng một chiếc khăn quàng quanh cổ.

Bà Sáu Họ mắt đã mờ, bà không nhìn rõ người ngồi trước mặt mình, bà có cảm tưởng như đứa con của bà ngồi ở đó mỗi lần về thăm. Mới tháng trước nó về đây ngồi với bà suốt một buổi chiều, nó bế đứa con nựng nịu, trao cho bà mấy ngàn bạc. Bây giờ bà lo lắng, chưa biết tính mạng nó ra sao.

Buổi chiều hôm nay nguời bạn của Tuyển về thăm, anh ta ngập ngừng nói về trường hợp của Tuyển, hy vọng đứa con trai bà còn sống thật mỏng manh.

Bà Sáu Họ vẫn hy vọng sự bất trắc có xảy ra cũng không đến nỗi cướp luôn mạng sống của đứa con bà. Nghĩ đến điều đó bà run run hỏi:

- Anh biết chắc còn nhìn thấy nó chớ?

- Dạ, trước khi trái lựu đạn khói tung ra cháu còn nhìn thấy thượng sĩ ở bên kia bờ ruộng, cháu lên tiếng gọi, ngay khi đó cháu bị trúng đạn quị luôn. Khi cháu tỉnh dậy cháu thấy mình nằm ở phi trường Đông Hà, cháu không kịp hỏi tin tức gì, và kế đó cháu và một số anh em bị thương được đưa về Pleiku, kế vô đây.

Người quân nhân đã nói đi nói lại trường hợp đó với bà cụ không biết bao lần. Bà cụ nuôi hy vọng thật mỏng manh. Khuôn mặt già nhòa bóng tối, những vết nhăn hình như sâu hơn, bà nhìn ra ngoài con kinh. Bà nghĩ thật nhiều đến những đứa con của mình. Bà xúc động giọng ướt nước mắt:

- Đời bác thiệt vô phước, suốt từ ngày lấy chồng đến giờ chưa từng được hưởng một ngày sung sướng. Con cái đứa chết đứa bỏ đi, bác chỉ còn biết hy vọng vào thăng Tuyển, nếu nó có mệnh hệ nào chắc bác không sống được.

Người quân nhân an ủi:

- Bác đừng lo lắng quá, chắc không thể có chuyện gi xảy ra đâu, nếu thượng sĩ có làm sao thì đã có tin về.

Bà Sáu Họ thở dài:

- Nơi hòn tên mũi đạn nó may rủi biết sao được.

Giọng bà run run:

- Tôi chỉ biết van vái Trời Phật, suốt đời tôi ăn ở hiền lành, Trời đày đọa tôi khổ quá rồi. Bây giờ tuổi già chỉ trông nhờ vào một đứa con mà Trời cướp nốt thì tôi chết mất...

Bà Sáu Họ bật khóc. Nước mắt loang ướt gò má răn reo. Người quân nhân đến bên cạnh, đặt tay lên vai bà giọng xúc động:

- Bác đừng buồn khổ, bác cho phép cháu được coi bác như mẹ, cháu không còn một người thân nào ở miền Nam nầy. Bố mẹ cháu đã chết cả ở miền Bắc.

Bà Sáu Họ ngẩng lên:

- Cậu ở Bắc mạn nào vậy?

- Cháu người Hà Đông!

Đôi mắt đã mờ của bà Sáu Họ chớp nhẹ:

- Bố thằng Tuyển cũng là người Bắc đó. Tôi thấy ổng nói ổng là người Thái Bình, tội nghiệp ổng... ổng không bao giờ còn thấy lại quê hương.

Bà Sáu Họ kể lể khúc nhôi, người quân nhân ngồi lặng nghe, anh ta thở dài:

- Bác trai mất lâu chưa?

- Mười mấy năm trời nay, từ đó gia đình nầy tan nát, con cái chỉ còn lại mình thằng Tuyển. Bây giờ nếu mất nốt nó tôi không còn biết bám víu vào ai...

Hình ảnh những đứa con lần lượt hiện ra trong đầu bà Sáu Họ. Bà lẩm bẩm:

- Hai đứa chết, một đứa con gái bỏ đi mất tích, còn thằng Tuyển, nó mất nốt thì thiệt ông trời xử với tôi ác độc quá..

Giọng bà Sáu Họ trở nên buồn bã. Bỗng đứa cháu nhỏ nằm ở giường cựa mình khóc. Bà Sáu Họ vội bế cháu lên, nựng:

- Muỗi đốt cháu phải không? Tội nghiệp cháu bà.

Đứa bé trai tỉnh dậy, đôi mắt nó mở lớn nhìn người quân nhân. Anh ta đưa hai tay ra, đứa bé toét miệng cười. Bà Sáu Họ cũng cười nói:

- Nó tưởng bố nó đấy!

Người quân nhân đỡ lấy đứa bé, nó cứ mở mắt nhìn người quân nhân đăm đăm, đôi mắt tròn to đen lay láy. Người quân nhân hôn vào má:

- Chú đây cháu!

Anh ta bế đứa bé đứng rung rung, vuốt ve trên lưng nó. Đứa bé sờ soạng trên mặt anh ta, Bà Sáu Họ nói:

- Mặt bố nó đầy sẹo.

- Dạ chắc có tật từ nhỏ?

- Không, khi đi lính rồi tôi mới thấy!

Người quân nhân nhớ đến Tuyển, đến khuôn mặt bị rạch nát của anh ta. Tuyển không bao giờ nói đến trường hợp bị thương đó. Khi Tuyển đổi về đơn vị thì anh em đã nhìn thấy những vết sẹo đó rồi.

Đứa bé hình như quen hơi quần áo nhà binh, nó chịu nằm yên trên vai người quân nhân. Bà Sáu Họ chợt ngóng ra con hẻm lầy lội:

- Tội nghiệp mẹ nó hôm nào cũng đi bán hàng đến mười một, mười hai giờ mới về. Tôi không dè thằng Tuyển lại có được con vợ ngoan thế. Anh chị sui của tôi cũng người Bắc đó. Ngày xưa, hồi còn ở Dầu Tiếng gia đình tôi và gia đình đẳng cũng là chỗ quen biết..

Bà Sáu Họ lại kể về trường hợp Tuyển lấy vợ, bà kết luận:

- Quả đất tròn cháu ạ!

- Dạ hôm đám cưới thượng sĩ cũng có cháu dự!

- Vậy hả?

Trời tối hẳn, bà Sáu Họ vào thắp ngọn đèn. Ánh sáng vàng vọt của ngọn đèn dầu soi tỏ căn nhà nhỏ, khuôn hình của một người đàn ông để trên bàn thờ úa vàng. Anh quân nhân đoán là ông Sáu Họ.

Đứa bé khóc, bà Sáu Họ đỡ lấy nó:

- Anh đưa tôi bồng, nó đói rồi!

Anh quân nhân nhìn đồng hồ:

- Muộn rồi, xin phép bác cho cháu về, cháu cố hỏi thăm tin tức thrợng sĩ, có gì cháu sẽ chạy lại cho bác hay liền.

Anh ta nhìn lại căn nhà nghèo nàn một lần cuối cùng rồi trở ra. Bà Sáu Họ thắp một nén nhang lên bàn thờ, bà van vái điều gì đó, bà không nhìn rõ khuôn mặt của chồng. Đứa bé đói khóc ngặt nghẽo, bà Sáu Họ phải bế nó ra đứng ở đầu cầu gỗ trên con kinh ru. Nước bắt đầu lên, một ngọn gió mát hây hây từ lòng kinh thoảng lên. Bà Sáu Họ áp đầu cháu vào vai ru nho nhỏ:

«Ầu ơ... ví dầu con cá nấu canh, bỏ tiêu cho ngọt bỏ hành cho thơm...

Ầu ơ.. ví dầu cầu ván đóng đinh, cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi... ầu ơ.»

Tiếng ru của bà Sáu Họ làm đứa bé nín khóc, đôi mắt của nó mệt mỏi khép lại. Một chiếc ghe thương hồ vừa ghé bến, bà Sáu Họ nghe có tiếng nói cười vẳng lên từ dưới bến. Mấy chục năm qua rồi, cảnh nghèo nàn ở khu nầy vẫn không có gì thay đổi. Những căn nhà lụp sụp mọc lên nhiều hơn, chen chúc như loài rong rêu bám vào thành phố...

Anh quân nhân ra khỏi ngõ hem, anh còn nghe tiếng ru của bà già đuổi theo bước chân mình... Anh chợt khựng lại khi thấy một đôi thanh niên nam nữ đi vào xóm. Hai người dắt tay nhau, người con gái nói:

- Thay đổi nhiều anh ạ, nhưng em vẫn còn nhớ lối...

Nàng chợt dừng lại:

- Anh có nghe tiếng gì không? Tiếng ru con, hệt như tiếng má ẵm ru em hồi nhỏ...

Anh quân nhân tiếp tục bước ra ngoài lộ, anh ta nhìn theo hai người, châm một điếu thuốc lá, nhả khỏi. Sợi khói mỏng manh tan trong không khí...

HẾT