Chương 14 PAITITI
Tháng 5 năm 2014, buổi tối đầu tiên tôi trở lại Mayantuyacu. Tôi ngồi dưới ánh đèn điện của maloca, chuẩn bị cho công việc thực địa. Chiếc máy tính xách tay của tôi đang được sạc điện trong tiếng ầm ì của chiếc máy phát điện tại Mayantuyacu. Đại sư nói rằng các linh hồn không thích tiếng ồn.
Tôi không nghi ngờ là một ngày nào đó Mayantuyacu sẽ có điện suốt ngày đêm, đường dây điện thoại và truy cập Internet. Những thứ này sẽ giúp đời sống cộng đồng dễ dàng hơn, hiệu quả hơn và thoải mái hơn, đồng thời hỗ trợ đắc lực việc giám sát cũng như những nỗ lực bảo tồn, bảo vệ khu vực. Tuy nhiên, tôi vẫn không thể không cảm thấy một chút e ngại về việc điều này sẽ thay đổi cuộc sống nơi đây ra sao.
Chín tháng kể từ lần cuối cùng tôi tới thăm, những thay đổi mạnh mẽ đã xảy ra – những thay đổi đúng như José đã dự đoán. Rừng đang biến mất.
Nhờ sự hỗ trợ của Google, bây giờ tôi có hình ảnh vệ tinh với độ phân giải cao của khu vực xunh quanh Sông Sôi. Một đồng nghiệp ở Google đã cảnh báo tôi rằng những hình ảnh đó không mới và rằng nạn phá rừng đã gia tăng đáng kể từ khi chúng được chụp. Anh ấy hoàn toàn đúng.
Những hình ảnh này, từ năm 2004, 2005, 2010 và 2011, cho thấy một thực tế rõ ràng: đốt rừng, đồng cỏ chăn thả gia súc và nạn phá rừng lan rộng qua từng năm. Chúng vẫn không giúp tôi chuẩn bị sẵn tinh thần cho chuyến đi rừng năm 2014 là mấy. Chín tháng trước, hành trình từ Pucallpa tới Mayantuyacu mất hai tiếng chạy xe, ba mươi phút đi pekepeke và một tiếng đồng hồ đi bộ xuyên rừng. Năm nay, phá rừng làm cho chuyến đi chỉ hết khoảng ba tiếng chạy xe thoải mái. Rừng dọc đường đi đã bị thay thế bởi các đồng cỏ, rải rác những phần cháy xém còn lại của những cây lớn và một vài con bò gặm cỏ.
Thật đau xót khi so sánh những hình ảnh vệ tinh với bức ảnh chụp trên không những năm 1940, khi cả khu vực này được bao phủ hoàn toàn bởi rừng rậm. Tuy nhiên, tôi không thể không nhận thấy các khu vực được kiểm soát bởi công ty dầu mỏ hầu như không thay đổi gì, dù việc khai thác rất mạnh.
Sự phát triển đang tới – nhưng nó không có nghĩa là tàn phá. Được thực hiện có trách nhiệm và ý thức, sự phát triển có thể bảo vệ khu vực này chứ không phải san bằng nó. Bên cạnh tôi là những chai mẫu trống rỗng và cuốn sổ tay sẽ được ghi kín các nghiên cứu thực địa trong tuần. Chứng minh bằng tư liệu chi tiết về những gì khiến hệ thống nhiệt địa lạ thường này độc nhất vô nhị như vậy là chìa khóa để đảm bảo tương lai của nó. Với mỗi điểm dữ liệu mới, tôi đang làm việc để cho thế giới thấy tại sao nơi đây lại là một điều tuyệt diệu đến thế, tại sao nó xứng đáng được bảo vệ – và để đảm bảo rằng bất cứ ai kiểm soát khu vực này cũng hiểu được tầm quan trọng của Sông Sôi. May mắn thay, tôi không cô độc trong nỗ lực này. “Bộ lạc” Mayantuyacu trải rộng ra rất xa bên ngoài khu rừng này cùng vô số khách nước ngoài từ khắp nơi trên thế giới, những người đã đến thăm địa điểm kỳ diệu này, đều là những người quan tâm tới khu rừng nhiều như tôi. Dòng sông đã đưa chúng tôi lại với nhau. Một nhóm người Canada đang làm việc với dân địa phương để giúp Mayantuyacu giảm thiểu tác động lên môi trường. Những người Ý cũng đang cộng tác với Mayantuyacu để xác định các đặc tính chữa lành của các thảo dược trong khi người Mỹ hợp tác nghiên cứu tầm quan trọng về nhân chủng học của nơi đây. Tôi vẫn tiếp tục các nghiên cứu của mình và đang tập hợp người Peru ở rừng cũng như ở các thành phố để giành được sự bảo hộ hợp pháp cho Sông Sôi.
Tôi tiếp tục làm việc cho tới khi chiếc máy phát điện im tiếng và ánh đèn chậm rãi lập lòe rồi tắt hẳn.
Với niềm tin và sự háo hức được bắt đầu việc nghiên cứu thực địa vào ngày mai, tôi cuốc bộ trở lại lều trong bóng tối. Khi mắt quen dần với đêm đầy sao, tôi ngỡ ngàng trước thế giới này mà mới đây, bên ngoài khu vực được ánh điện chiếu sáng, chỉ là một khoảng không đen thăm thẳm.
Một tuần trôi qua rất nhanh. Mỗi ngày, tôi thu thập các mẫu nước, đá và các khoáng sản. Tôi dự tính sẽ phân tích chúng khi trở lại phòng thí nghiệm, hi vọng hiểu rõ hơn mối quan hệ giữa nước và cấu tạo của đá, nơi nước chảy qua. Năm nay, lần đầu tiên, tôi nghiên cứu các sinh vật chịu cực hạn – tảo, vi khuẩn và các vi sinh vật khác – sống trong và xung quanh Sông Sôi với nhiệt độ có thể giết chết hầu hết các sinh vật.
Đêm trước khi rời khỏi Mayantuyacu, tôi ra khỏi lều và bước vào bầu không khí buổi tối mát mẻ. Đã đến lúc nói lời tạm biệt.
Đại sư nằm thư thái trên võng trong khi Luis, người hướng dẫn đi rừng trước kia của chúng tôi, ngồi trên một chiếc đệm sàn và nhả khói từ một điếu mapacho.
Mauro, học trò mới của Đại sư, ngồi trên một cái ghế nhựa thấp.
“Buenas noches,”* tôi lên tiếng.
* Xin chào (buổi tối).
“Bác sĩ trẻ!” Đại sư cười, đôi mắt thấp thoáng qua làn khói.
“Tuần qua, chúng tôi hiếm khi thấy cậu,” Mauro nói. “Tôi làm việc,” tôi đáp.
“Đúng đấy,” Luis nói. “Tôi đã thấy cậu ấy nhiều lần, lúc nào cũng một mình với dòng sông.” Sau đó, quay sang tôi: “Giờ cậu di chuyển trong rừng đã khác.”
Tôi ngạc nhiên. “Anh nhìn thấy tôi khi nào? Tôi tưởng lúc nào tôi cũng chỉ có một mình thôi chứ!” Luis mỉm cười tinh quái.
“Đúng vậy – Giờ con đã di chuyển khác rồi,” Đại sư nói. “Các nghiên cứu của con thế nào?” ông hỏi tôi.
Tôi kể đầy đủ cho ông nghe về nghiên cứu của mình. Ông chăm chú lắng nghe, háo hức tìm hiểu xem thời kỳ Đại Văn Minh chứng minh tầm quan trọng của một vấn đề thông qua các phép đo lường như thế nào. Tôi trình bày lại cách nhận diện quá trình và cơ chế tạo ra dòng sông sẽ xác định những khu vực nhạy cảm – cả ở trên cũng như dưới mặt đất – đòi hỏi sự bảo vệ nghiêm ngặt nhất và cam đoan với ông rằng cùng nhau, chúng tôi, những người Amazon và những người không phải Amazon, sẽ tìm ra cách tôn trọng các linh hồn và bảo vệ rừng.
“Đại sư,” tôi nói. “Kể từ lần đầu tiên tới thăm ngài, con đã rất ấn tượng khi Mayantuyacu nổi tiếng như thế nào với những người nước ngoài, trong khi lại hầu như không được biết đến ở Peru – điều gì đã xảy ra?”
Ông mỉm cười qua những vòng khói cuộn lên từ điếu mapacho. “Ban đầu, ta muốn nơi này chỉ dành cho người Amazon – để bảo tồn văn hóa và khu rừng của chúng ta. Nhưng con người bị quyến rũ bởi thời kỳ Đại Văn minh. Người trẻ thì chỉ muốn ở Lima, người già lại quên cách đối xử với rừng. Không biết phải làm gì, nên ta đã hỏi cây rừng và có một giấc mộng.”
Ông ngưng, nhìn xoáy vào tôi. “Có nhớ lần thứ hai đến đây, con đã có vấn đề về xoang và ta đã cho con thuốc chứ?”
“Có ạ – Ishpingo. Nó rất hiệu nghiệm.”
“Ishpingo là một cây lớn, với một linh hồn rất quyền lực. Trong giấc mộng, ta đang ngồi dưới một cây Ishpingo vĩ đại khi Linh hồn Ishpingo hiện ra trước mặt ta dưới hình dáng một người đàn ông da trắng cao gầy, mặc toàn đồ trắng, bộ râu trắng dài. Mọi thứ trên người đàn ông này đều tỏa ánh sáng trắng. Khi ta hỏi linh hồn tại sao lại xuất hiện dưới hình dáng đó, linh hồn đáp rằng sự cứu rỗi của khu rừng này sẽ đến cùng với những người nước ngoài. Ngày hôm sau, ta gặp bệnh nhân nước ngoài đầu tiên và giờ ta có những học trò nước ngoài. Linh hồn Ishpingo đã đúng: thế giới đã thay đổi và chúng ta cần học lẫn nhau – những phương thức cổ xưa và những phương thức của thời kỳ Đại Văn minh.”
Khu rừng này đúng là nơi của những truyền thuyết và tưởng tượng, tôi nghĩ.
Ngay lập tức, một chi tiết từ truyền thuyết của ông tôi hiện về – một chi tiết mà trong nhiều năm tôi đã muốn hỏi Đại sư. Chỉ là thời điểm chưa lúc nào thích hợp hoặc có lẽ tôi luôn sợ mình trông ngớ ngẩn. Nhưng giờ đây ngồi cạnh ông, tôi phát hiện ra rằng những truyền thuyết có thể là thật, cuối cùng tôi lấy hết can đảm.
“Ngài Đại sư,” tôi nói, “Paititi, thành phố vàng, có thực sự tồn tại không?”
Đại sư rướn mày ngạc nhiên. “Ý con là con đã không thấy nó?.”
Tôi nhìn ông, bối rối.
Đại sư cười vang, sau đó chỉ khu rừng bao quanh chúng tôi.
Đột nhiên, tôi hiểu ra. Khi những kẻ chinh phục hỏi về Paititi, người Inca đã không nói dối. Với người Inca, vàng là biểu tượng cho sự sống. Một thành phố vàng, theo đó, là thành phố của sự sống – và nơi nào có sự sống nhiều hơn Amazon? Sự báo thù của người Inca đến từ lối chơi chữ mà những kẻ chinh phục không bao giờ hiểu được ý nghĩa của nó.
Tôi cười lớn, lắc đầu kinh ngạc. Khu rừng này, dòng sông này còn hơn là một nơi cần được bảo vệ. Nó là minh chứng rằng thế giới vẫn còn đầy bí ẩn, rằng với tất cả tri thức của chúng ta, tự nhiên sẽ luôn luôn đi trước chúng ta vài bước.
Ánh sáng của chiếc đèn đeo trên trán chiếu xuyên qua bóng tối, dẫn tôi trở lại căn lều của mình. Đi ngang qua gốc cây Came Renaco, tôi dừng lại và rẽ sang các bậc đá dẫn xuống dòng sông. Tôi bước xuống bờ đá phía dưới đang bị nhấn chìm trong hơi nước. Chậm rãi, cẩn thận, tôi tìm đường lên được một tảng đá lớn giữa dòng nước dậy sóng.
Khắp xung quanh, khu rừng ngân lên những âm thanh của sự sống: ếch nhái ộp oạp, côn trùng rả rích, tán lá xào xạc, những âm thanh liên ngân hà của bầy dơi bay ngang qua. Ở chính giữa là dòng sông đang dâng trào cuồn cuộn. Vòng xoáy hơi nước bốc lên nhảy múa xuyên qua khí đêm mát mẻ để gặp gỡ vô vàn vì sao của dải Ngân Hà.
Tôi tự hỏi chúng tôi còn bao nhiêu thời gian trước khi ánh sáng văn minh xâm lược vùng đất này của Amazon. Nghiên cứu của tôi có đưa ánh sáng ấy đến đây nhanh hơn không? Trách nhiệm của tôi với khoa học là gì? Với những người sống ở đây? Với dòng sông thiêng này? Đại sư từng nói: “Chúng ta che giấu để bảo vệ” – nhưng bây giờ, chúng tôi đang làm điều ngược lại. Tôi nghĩ về những nhà thám hiểm mà những khám phá của họ đã đe dọa hủy hoại những thứ họ khám phá ra. Ở Peru, khi Hiram Bingham lần đầu tiên nhìn thấy Machu Picchu, ông có hình dung ra những tác động mình sẽ gây ra với văn hóa của đất nước này, nền kinh tế của nó, cũng như vị trí của nó trong hình dung của thế giới? Ông đã bao giờ dành một đêm ngồi một mình giữa đống đổ nát, tự hỏi: Chúng ta có thể bảo tồn được nơi này như thế nào nếu tiết lộ nó với thế giới? Bản năng của tôi mách bảo rằng con đường đến bảo tồn nằm trong việc cho thế giới thấy họ cần phải bảo vệ tuyệt tác tự nhiên này. Nhưng nếu tôi sai thì sao?
Đứng trên tảng đá, tôi nhận ra nghiên cứu về dòng sông đã dạy tôi về bản thân mình nhiều hơn về địa chất, đặc tính địa nhiệt hay văn hóa bản địa. Như Đại sư đã nói: “Dòng sông chỉ cho chúng ta thấy điều chúng ta cần thấy.” Một người bạn từng hỏi tại sao tôi cứ quay trở lại nơi này. Giờ đây, tôi nhận ra đó là bởi khi ở đây, bạn buộc phải để tâm, đối mặt với những giới hạn của chính mình và làm việc trong những giới hạn ấy. Mỗi bước đi phải được cân nhắc. Sai lầm sẽ có những hậu quả đau đớn. Xao lãng là một điều quá xa xỉ.
Đèn đeo trán tập trung sự chú ý của tôi vào một khu vực nhỏ mà nó chiếu sáng, khiến bóng tối ở ngoài kia dường như không thể xuyên thủng. Tôi mong đợi những điều kỳ diệu chắc chắn nằm ở ngoài kia, được che giấu trong bóng đêm hoặc được ẩn trong những điều bình thường. Đó chính là bài học của bóng tối: chính quan điểm của chúng ta tạo ra ranh giới giữa cái đã biết và cái chưa biết, linh thiêng và trần tục, những điều chúng ta cho là hiển nhiên và những điều chúng ta còn phải khám phá.
Tôi đã từng bỏ lỡ bóng tối.