Chương 13 MỐI ĐE DỌA LỚN NHẤT
Tháng 8 năm 2013, đã gần một năm kể từ ngày tôi rời khỏi rừng lần cuối. Tôi đang ở trong một chiếc xe tải dán nhãn CÔNG TY MAPLE GAS, sẵn sàng dành một tuần làm việc ở vòm đất Agua Caliente.
Maple Gas cho phép tôi tiến hành nghiên cứu mỏ dầu của họ. Họ cho tôi toàn quyền truy cập vào bất cứ dữ liệu, bản đồ và mẫu nào tôi cần, cũng như cho phép tôi thực hiện những phép đo lường nhiệt độ sâu trong lòng đất trong những giếng dầu của họ. Thông tin này giúp tôi hiểu hơn về địa chất cùng các lực kiến tạo trong khu vực, việc tiếp cận những giếng dầu của Maple nghĩa là tôi có thể có cái nhìn chưa từng có từ trước đến nay về nhiệt độ sâu trong đất quanh Sông Sôi. Maple cũng cung cấp cho tôi những dữ liệu vận hành thiết yếu, những chi tiết tiếp tục làm sáng tỏ thêm thực tế dòng sông là một đặc tính tự nhiên, không chịu tác động bởi các hoạt động mỏ dầu. Hơn nữa, điều khiến hội đồng tiến sĩ của tôi hài lòng chính là dữ liệu từ những giếng dầu đó sẽ có thể xác định được các địa điểm lưu lượng nhiệt chất lượng cao đầu tiên ở rừng Amazon thuộc địa phận Peru – giúp tôi tiến một bước gần hơn tới việc tạo ra bản địa nhiệt chi tiết đầu tiên của Peru.
Trong khi xe di chuyển, tôi nhìn ra ngoài cửa sổ. Những ngọn đồi nhấp nhô, những đồng cỏ rải rác những chú bò gặm cỏ trải dài ngút tầm mắt.
“Buồn phải không?” José, nhà địa chất học của Maple nói. Tôi nhìn anh, bối rối.
“Hãy nhìn quang cảnh giữa nơi đây và mỏ dầu – một thảm họa môi trường đang xảy ra trước mắt và dường như không ai thèm quan tâm,” José tiếp tục.
“Đây là rừng mưa nhiệt đới Amazon. Không nên có những đồng cỏ rộng lớn.”
Tôi nhìn ra những đồng cỏ một lần nữa. José nói đúng. Hàng năm, tôi vẫn đi qua những vùng đất này kể từ lần đầu tiên tới dòng sông – vậy mà làm sao tôi lại bỏ qua chi tiết ấy? Khi nghĩ về nạn phá rừng, tôi luôn hình dung ra một khu đất hoang cằn đầy bùn, những con đường mòn vì máy kéo và những gốc cây trơ trụi – không phải những đồng cỏ uốn lượn như tranh. Không thể tin được tôi đã không thấy những gì ở ngay trước mặt. Một cảm giác buồn nôn giận dữ cuộn lên trong lòng tôi.
José hơn 40 tuổi một chút và đã làm việc tại các mỏ dầu ở khắp Peru. Anh có phong thái ung dung, thái độ vui vẻ dễ khiến người khác có ấn tượng sai lầm là anh không suy nghĩ chín chắn. “Điều khó chịu là mọi người vẫn dễ dàng ghét bỏ các công ty dầu mỏ, như thể chúng tôi chỉ muốn tàn phá thiên nhiên. Người ta không nhận ra trong bốn mươi năm qua, phong trào nhà môi trường toàn cầu đã thay đổi cách thức chúng tôi làm việc. Chúng tôi được giám sát và phải chịu trách nhiệm về những sơ suất nhỏ nhất – nhưng những kẻ chiếm đất và ‘những nông dân chăn gia súc’ biến mất ngay khi họ gặp rắc rối. Những tên tội phạm này xâm phạm rừng, săn trộm động vật và đốn hạ những cây lớn giá trị. Chúng bán những thứ này với giá rẻ mạt, rồi tưới xăng, đốt rừng cho đến khi chẳng còn lại gì! Khi cỏ mọc trở lại, chúng thả vài con bò trên các “đồng cỏ”. Đó là một chiến lược kinh doanh khôn ngoan nhưng hoàn toàn vô lương tâm – chúng không phải đối mặt với hậu quả! Nếu cứ tiếp tục làm vậy, những khu rừng nguyên sinh duy nhất còn sót lại sẽ là các công viên quốc gia và các mỏ dầu được bảo hộ trong rừng Amazon.”
“Các mỏ dầu?” tôi hỏi.
“Một công ty đang hoạt động có thể gặp rắc rối lớn nếu không tuân thủ từng chữ trong các nghị định thư về môi trường,” José nói. “Trước khi khai thác, Bộ Môi trường yêu cầu chúng tôi tiến hành một loạt nghiên cứu tác động môi trường và xã hội, bao gồm cả các kế hoạch khắc phục sau khi công việc kết thúc. Chúng tôi phải xem xét thực vật, động vật, cộng đồng, không khí, đất và hàng loạt yếu tố khác – trong cả mùa khô và mùa mưa để đảm bảo không bỏ sót con vật di trú hay một vấn đề thời vụ nào. Trong khi khoan, chúng tôi phải xác định những cây sẽ bị di dời và không được phép đốn bất kỳ cây to nào mà không có sự cho phép đặc biệt. Không phải tất cả mọi công ty đều mẫu mực – nhưng hầu hết đều cố gắng. Thời thế đã thay đổi từ thời “miền tây hoang dã”, khi các công ty dầu mỏ không phải chịu trách nhiệm về bất cứ sự phá hủy hay ô nhiễm nào mà họ gây ra.”
Chúng tôi tiếp tục lái xe trong sự im lặng thân thiện.
Giờ đây, tôi nhìn ra ngoài cửa sổ với cặp mắt khác: những đồng cỏ này thực sự là một Amazon hậu tận thế. Nó để lại trong tôi cảm giác lạnh lẽo, trăn trở với sự phức tạp của vấn đề. Tôi ước toàn bộ Amazon được bảo hộ nhưng tôi hiểu điều này là phi thực tế. Mọi người cần một con đường thoát nghèo và cơ hội để cải thiện đời sống. Tăng trưởng kinh tế là chương trình nghị sự chính trị trọng yếu với Peru lúc này, nhu cầu quốc tế ngày càng tăng đối với các loại nông sản và nguyên liệu thô được coi là chìa khóa quan trọng để tham gia thương mại quốc tế (một ấn tượng được củng cố bởi các công ty đa quốc gia luôn đói khát những nhà cung cấp mới với mức giá chấp nhận được). Để đáp ứng nhu cầu này, chính phủ khuyến khích sự phát triển ở nhiều vùng Amazon thông qua các quyền sở hữu và giấy phép. Tuy nhiên, không phải mọi sự phát triển đều được thực hiện có trách nhiệm và nhìn chung, sự phát triển ở cấp địa phương, quy mô nhỏ thường không được giám sát. Điều này đặc biệt đúng trong những vùng có tình trạng nghèo đói nghiêm trọng – quan tâm tới môi trường thường không được xem xét.
Tôi vật lộn với sự phức tạp khủng khiếp của vấn đề trước mặt – Amazon là vùng đất đa dạng, bằng khoảng 90 phần trăm diện tích nước Mỹ. Ngay khi bạn tìm cách khái quát hóa nó, lập tức bạn có thể bị chứng minh là sai. Mỗi khu vực khác nhau phải đối mặt với những hoàn cảnh khác nhau. Bên cạnh đó cũng có những yếu tố lịch sử cần xem xét: Cuộc chinh phục và dịch bệnh châu Âu được coi là đã xóa sổ từ 80 đến 90 phần trăm cư dân Amazon bản địa. Những người sống sót phải đối mặt với những “los caucheros” (ông trùm cao su) – đặt cạnh sự tàn bạo của những kẻ này, những kẻ chinh phục trở nên dễ chịu hơn rất nhiều. Có lẽ những đồng cỏ bên ngoài cửa sổ kia không phải là cảnh duy nhất của một Amazon hậu tận thế. Quá khứ không biện minh cho tình trạng lạm dụng môi trường hiện nay, nhưng nó giúp đặt tình huống vào đúng bối cảnh. Người vùng Amazon (dù sống theo truyền thống, trong sự cô lập hay trong xã hội hiện đại), người không phải vùng Amazon và sự phối hợp trọn vẹn giữa họ, mỗi người có mối quan hệ riêng với rừng và với thế giới toàn cầu hóa, hiện đại. Dù phức tạp, tất cả mọi người cùng chia sẻ một tiền đề: khu rừng nắm giữ những giá trị, có thể là tiền, sinh thái học hoặc sự tồn tại truyền thống, nó có giá trị nào đó.
Để bảo tồn vùng đất về lâu dài, rõ ràng Amazon cần có các mô hình bảo tồn được lên kế hoạch một cách cẩn thận, cho phép người dân địa phương thu lợi từ sự phát triển nhạy cảm với hệ sinh thái của vùng đất. Các tổ chức quốc tế và Peru đang làm việc cật lực để bảo vệ những khu rừng nguyên sinh – nhưng nhìn những khoảng rừng đã bị xóa sạch, tất cả những gì tôi có thể nghĩ được là làm thế nào chúng ta có thể bảo vệ được những gì còn sót lại của rừng? Làm sao chúng ta có thể khôi phục lại rừng đã mất? Đây là những vị trí tiền tiêu của nạn chặt phá rừng – rừng để ngỏ cho việc khai thác, dễ dàng tiếp cận bằng những con đường và trung tâm cư dân lân cận.
Một pháp sư Shipibo từng nói với tôi: “Mối đe dọa lớn nhất đối với rừng là những người bản địa đã quên mất mình là người bản địa – những kẻ đã quên truyền thống kính trọng rừng và họ lợi dụng rừng vào những mục đích ích kỷ riêng.” Pháp sư Shipibo này là một thành viên rất được kính trọng trong cộng đồng của ông và là một con thuyền chở đầy tri thức truyền thống cũng như văn hóa Shipibo. Khi nói những lời đó với tôi, ông đang khoác trên người đầy đủ “bộ trang phục phương Tây”: cặp kính hiện đại, áo lót ba lỗ bên dưới chiếc sơ mi có cổ, quần âu đen được là cẩn thận và đôi giầy da thanh lịch. Bề ngoài, ông không hề khác bất kỳ người Peru hiện đại với di sản bản địa nào ở Lima. Chứng kiến một nhân vật quyền năng vùng Amazon trong trang phục hoàn toàn phương Tây và đưa ra một thông điệp bất ngờ như thế đã dạy cho tôi điều gì đó quan trọng. Chúng ta không thể bắt tay bảo tồn vùng rừng Amazon với những cái nhìn định kiến rằng tất cả người Amazon đều đang sống hài hòa với rừng, mặc trang phục truyền thống và những anh chàng bảo tồn “tốt” và “xấu” rập khuôn. Đúng vậy, quá khứ là đáng trách: Amazon từng bị tàn phá bởi những căn bệnh châu Âu, những tên trùm cao su từng gây ra những tội ác không kể xiết, các cấu trúc xã hội truyền thống đã bị đảo lộn bởi sự lan toả của toàn cầu hóa – nhưng người đàn ông Amazon đứng trước mặt tôi đây không phải là nạn nhân héo hon của hoàn cảnh, đó là một bậc thầy sống sót, một chiếc thuyền chở đầy ắp văn hóa của cộng đồng mình. Người dân kiêu hãnh của ông là những bậc thầy thích nghi với cuộc sống trong những điều kiện khó khăn của rừng, nơi họ học cách làm chủ các loài thảo mộc để chữa lành hoặc gây hại theo những phương thức cạnh tranh với những phòng thí nghiệm dược phẩm tiên tiến nhất. (Đọc các tác phẩm của tiến sĩ Plotkin hoặc tiến sĩ Wade Davis để biết thêm về điều này.)
Những người Amazon đã sống sót qua thời Inca, thời Tây Ban Nha và những ông trùm cao su – giờ đây, họ đang thích nghi rất giỏi với thế giới hiện đại. Định nghĩa lại chính họ trong sự pha trộn giữa truyền thống và hiện đại để không chỉ tồn tại mà còn thịnh vượng. Còn nữa, ngồi với pháp sư Shipibo khiến một điều trở nên rõ ràng – không có sự khác biệt nào giữa ông và tôi. Người của “ông” và người của “tôi”. Tất cả chúng ta chỉ đang cố gắng sống hạnh phúc; tất cả chúng ta đều muốn được yêu thương và thành công; tất cả chúng ta đều có hi vọng và giấc mơ. Tất cả chúng ta đều là cư dân bản địa của hành tinh Trái đất. Chúng ta lựa chọn sống thế nào trong “những khu rừng” của mình là quyết định cá nhân của mỗi người – nhưng chúng ta không thể giả vờ rằng những quyết định của mình không tác động tới môi trường được.
Những lời của José cho tôi hi vọng – có lẽ phát triển có trách nhiệm có thể sẽ đảo ngược tình thế. Đại sư và những người khác ở Mayantuyacu có nói Maple là một “láng giềng tốt bụng”. Biết đâu các công ty dầu mỏ và khí đốt có thể trở thành những nhà vô địch của rừng, có thể chúng ta sẽ tìm ra cách để phồn thịnh kinh tế sánh đôi cùng kiểm soát môi trường. Sự “được và mất” của việc thích nghi với những mô hình mới, sự cân bằng tinh tế giữa truyền thống và hiện đại, ý tưởng khó hiểu của “bản địa quên mất mình là bản địa” và sự đổi hướng bất ngờ mà các công ty dầu mỏ, trong hoàn cảnh thích hợp, có thể đóng vai trò như những người bảo vệ rừng – chúng phức tạp hơn nhiều so với những gì tôi từng hình dung. Tôi thấy cần phải có một giải pháp mà ở đó, việc người dân địa phương và các công ty dầu mỏ có thể cùng tồn tại với sự khỏe mạnh của khu rừng là vấn đề được mọi người quan tâm hàng đầu.
Có một giải pháp ẩn trong những chi tiết này – nhưng giờ nó đã vượt quá sự hiểu biết của tôi.
Giọng nói của José cắt ngang dòng suy nghĩ của tôi: “Vòm đất Agua Caliente kìa!” Anh nói và chỉ tay về phía địa hình rộng lớn nhô lên khỏi khu rừng trước mặt chúng tôi. Từ khoảng cách này, sự trái ngược hoàn toàn giữa những khu vực bị tàn phá và khu rừng nguyên sinh của vòm đất thật rõ ràng.
“Hầu hết các vùng đất xung quanh đã bị phá sạch, vì vậy rừng của chúng tôi trở thành một ốc đảo cho động vật hoang dã trong khu vực. Chúng tôi phải liên tục đề phòng những kẻ săn trộm, khai thác gỗ và đặc biệt là những kẻ đốt rừng. Chúng tôi có các đường ống dẫn khí trong khu vực.” José nói.
“Tôi thực sự rất yêu khu rừng này,” anh nói tiếp. “Tôi đã làm việc ở đây nhiều năm và nó giúp tôi cho giáo dục con cái, nuôi sống gia đình. Trái tim tôi tan vỡ khi thấy rừng đang biến mất. Bọn họ sẽ nhanh chóng phá hủy hết toàn bộ khu rừng xung quanh mỏ dầu. Tôi sợ điều sẽ xảy ra khi mỏ dầu không còn đem lại lợi nhuận nữa và các nhà đầu tư quyết định rút đi. Rừng già của chúng tôi sẽ không tồn tại được lâu.”
Khu rừng tươi tốt, xinh đẹp bỗng nhiên lấn át hai bên đường. Chúng tôi đang đi vào địa phận rừng của Maple. Chẳng bao lâu chúng tôi đã tới giếng dầu Agua Caliente trên đỉnh vòm đất. Một vài toà nhà gỗ lớn tạo thành khu đồn trại theo phong cách tiền đồn “Châu Mỹ xích đạo” giữa thế kỷ XX. Mọi thứ đều sạch sẽ, gọn gàng và được giữ gìn cẩn thận. Những tấm bảng thông báo được sơn lớn nhắc nhở nhân viên xử lý rác thải đúng cách, bảo vệ môi trường và không làm phiền động vật hoang dã. Ai mới đến cũng phải trải qua một ngày huấn nghiêm túc về an toàn và trách nhiệm với môi trường trong rừng, tôi cũng không ngoại lệ.
Việc nghiên cứu thực địa của tôi tiến triển tốt và đến cuối tuần, tôi đã có được các mẫu và các phép đo lường cần cho các phân tích. Còn một điều phải làm trước khi tôi rời đi: thăm Đại sư. Bởi Maple Gas và Mayantuyacu đều tìm cách bảo vệ rừng khỏi những kẻ đốt rừng, tôi đưa José đi cùng.
Đi từ mỏ dầu đến Mayantuyacu rất khó khăn. Không có đường và con đường trực tiếp nhất là xuyên qua rừng. Mặc dù nó chỉ cách vị trí giếng dầu cực Bắc khoảng một dặm* nhưng địa hình lại cực kỳ hiểm trở và bị bao phủ bởi rừng nguyên sinh, điều khiến tôi rất vui. Sau khoảng hai giờ đi bộ gian khổ qua khu rừng nguyên sinh rậm rịt, lá rụng dày, địa hình gồ ghề, chúng tôi đến Mayantuyacu trong cơn mưa nặng hạt. Như mọi lần, tôi lướt nhìn vách đá để tìm dấu hiệu báo rằng tôi đã đến: cây bảo hộ vặn xoắn khổng lồ, Came Renaco. Tôi nhìn xuyên qua màn mưa ào ào, kinh hoàng nhận ra cây biểu tượng của Mayantuyacu đã bị gẫy làm đôi. Nửa trên của cây vẫn gắn một phần với thân, nhưng phần đầu Gorgon của cái cây vĩ đại đã nằm bất lực trong dòng sông dậy sóng. Tôi biết điều này hẳn có ý nghĩa với Mayantuyacu – với Đại sư.
* 1,61 kilomet.
Tôi để José lại ở maloca, chạy vội tới nhà Đại sư và thấy ông đang cuộn tròn trên chiếc võng. Ông ngước lên ngạc nhiên. “Andrés!” ông nói. Ông từ từ đứng dậy và chào đón tôi với một cái ôm yếu ớt. Ông nhìn không được khỏe.
“Ngài không sao chứ?” Tôi hỏi.
“Con đã thấy Came Renaco chưa?” ông hỏi, trông ông thật tuyệt vọng. “Tất cả chúng ta đều già đi. Ta buồn và hơi ốm một chút. Ta không ngại bị bệnh – nó dạy ta rằng ta vẫn còn nhiều thứ để học. Giờ hãy nói cho ta biết, làm thế nào mà con tới đây được?”
Tôi giải thích mọi thứ – Các tài liệu Moran, nghiên cứu thực địa với Maple, chuyến đi xuyên rừng. Với một chút e ngại, tôi hỏi Đại sư liệu ông có sẵn sàng gặp nhà địa chất học của Maple không. Không chút do dự, ông đồng ý. “Maple là láng giềng tốt – cả họ và chúng ta đều giữ mình và không làm phiền đến nhau. Đưa cậu ta đến đi.”
Chúng tôi ngồi cùng nhau ngoài hiên nhà Đại sư khi tôi giới thiệu hai người. Đại sư và José nhanh chóng chia sẻ tình yêu rừng và mối quan ngại của mình về những mối đe dọa mà rừng phải đối mặt.
“Maple sẽ không ở đây mãi mãi,” José nói với Đại sư. “Dần dần, dầu cũng sẽ hết và con rất lo sợ cho rừng sau khi công ty rời đi. Nếu ngài chưa từng cân nhắc đến việc tìm cách bảo vệ nơi này, con thật lòng mong ngài hãy bắt đầu nghĩ tới việc đó. Con biết Andrés đang giúp ngài đưa ra một kế hoạch bảo tồn và công việc cậu ấy đang làm để đưa ra các tài liệu về dòng sông là rất cần thiết. Bộ Môi trường có văn phòng ở Pucallpa cũng có thể giúp.”
Đại sư bình thản lắng nghe và gật đầu sau khi José ngừng nói. Ông biết cần phải làm gì.
Một giờ sau, José và tôi bắt đầu lên đường tới sông Pachitea, nơi Francisco Pizarro sẽ đưa chúng tôi tới bến tàu của Maple bằng thuyền. Trời đã tạnh mưa và chúng tôi nhanh chóng rảo bước trên con đường mòn quen thuộc xuyên qua khu rừng mà tôi biết rất rõ.
Được nửa đường tới Pachitea, một cảnh tượng xa lạ khiến tôi đột nhiên dừng lại: một mảng rừng lớn – biến mất. Tất cả những gì còn lại của những cây cổ thụ to lớn đáng ngưỡng mộ là đống mùn cưa và những mẩu gỗ vụn vương vãi quanh những gốc cây khổng lồ.
Tôi đứng lặng lẽ bên rìa khu đất trống, nhìn vào đống đổ nát trước mắt. Mới chưa đầy một năm mà phần lớn rừng của Sông Sôi đã biến mất.
José kiểm tra hiện trường. Tức giận và buồn bã, anh nói: “Hẳn là phải có một lượng cây gỗ rất tốt ở đây. Nếu không, tất cả chỗ này đã bị đốt trụi. Tôi chắc chắn đó là điều sẽ xảy ra tiếp theo.”