← Quay lại trang sách

PHẦN I SINH RA TRONG KHỦNG HOẢNG Chương 1 CUỘC ĐẢO CHÍNH QUÂN SỰ
NGÀY 16 THÁNG 5
Han Yong-sup

Sự can thiệp của lực lượng quân đội Hàn Quốc vào chính trường ngày 16 tháng 5 năm 1961 là “sự kiện lịch sử không thể tránh khỏi”. Với việc chính quyền Chang Myon [12] được bầu lên bằng cách dân chủ (1960-1961) nhưng lại bị tê liệt bởi xung đột nội bộ giữa các bè phái, xã hội Hàn Quốc lúc này đang mong chờ một giới tinh hoa chính trị mới có thể vực dậy tình trạng kinh tế nghèo nàn, chính trị bất ổn và xã hội trì trệ. Quân đội đáp ứng yêu cầu này bằng một cuộc đảo chính và đã thành công nhờ sự bất mãn lan khắp công chúng. Những tài liệu về nền chính trị Hàn Quốc đã cho là như vậy. Dù vậy, khi nghiên cứu kỹ lưỡng hơn, vào thời gian đó bất cứ việc gì xảy ra đều là không thể tránh khỏi. Trái với những suy nghĩ trên, nếu có lực lượng nào đó đang hoạt động mạnh, thì lực lượng này sẽ chống đối chứ không phải là ủng hộ tham vọng của Park. Nhưng dù sao đi nữa thì kết quả vẫn là chiến thắng chính trị của ông. Lịch sử dường như có kết thúc mở chứ không phải bị dẫn dắt đến những sự kiện định trước bởi một thế lực không thể ngăn nổi nào đó.

Thứ nhất, Park vốn cũng chỉ là một lãnh đạo cỡ vừa trong quân đội Hàn Quốc, không có đủ tài năng để đòi hỏi sự trung thành của toàn thể quân đội. Thứ hai, liên minh đảo chính do ông chỉ huy vào lúc lên nắm quyền chỉ là một nhóm sĩ quan hỗn tạp, cả về gốc gác, thế hệ, tư tưởng và đơn vị phục vụ; điếu này gây trở ngại cho Park từ khi lập kế hoạch đảo chính, đến lúc chính thức can thiệp quân sự và cả khi thâu tóm quyền lực hậu đảo chính. Thứ ba, đã có những thế lực hùng hậu ngoài quân đội, đặc biệt là Mỹ, có thể lợi dụng sự chia rẽ nội bộ của liên minh đảo chính hỗn tạp này để chống lại kế hoạch của Park trong mỗi giai đoạn. Thứ tư, nguy cơ các lực lượng chống đối bên ngoài kết hợp với các đối thủ bên trong liên minh để cản trở Park là rất lớn ở giai đoạn đầu tiên, khi mà việc lên kế hoạch cho cuộc đảo chính gần như bị lộ mặc cho ông đã cố gắng kiểm soát các thông tin này. Thành công của cuộc đảo chính bất kể những vụ rò rỉ thông tin rõ ràng cho thấy sự yếu kém trong hoạt động giám sát dân sự của quân đội thời Chang Myon, từ đó đã tạo điều kiện cho phép sự can thiệp quân sự, nhưng nỗ lực đảo chính lý ra rõ ràng đã có thể bị đập tan ngay ở giai đoạn đầu nếu các đối thủ xem xét những thông tin rò rỉ và ngăn chặn các thủ lĩnh đảo chính.

Tuy nhiên, Park đã thành công trong việc phát động cuộc đảo chính ngày 16 tháng 5 và hoàn tất giai đoạn đầu tiên trong việc thâu tóm quyền lực hai tháng sau đó với việc lật đổ Chang Do-young [13] và những cộng sự của Chang trong quân đội. Để lý giải việc thâu tóm quyền lực của Park bất chấp khả năng thành công rất thấp, Chương 1 cho thấy tài năng của Park khi ông nỗ lực với cả những thuận lợi và khó khăn. Vị trí lãnh đạo cấp trung của ông trở thành lợi thế khi ông sử dụng chiến lược tiếp cận cấp đại tá và trung tá để làm lực lượng ủng hộ và sau đó tiếp cận lên các nấc thang cao hơn của hệ thống cấp bậc trong liên minh theo hai bước, bước đầu đưa Chang Do-young và các tướng lĩnh cao cấp khác vào các vị trí lãnh đạo hàng đầu để hợp pháp hóa cuộc đảo chính, sau đó loại bỏ họ, cáo buộc họ là lực lượng phản cách mạng, để dọn đường lên đỉnh cao quyền lực cho chính ông. Cũng như vậy, thành phần thiếu thống nhất và phức tạp trong liên minh của ông trở thành một lợi thế, khi ông nhận ra rằng chính sự thiếu thống nhất và phức tạp tương tự cũng làm yếu đi sức mạnh chính trị của các đối thủ và nỗi sợ hãi của họ về một cuộc lật đổ bất thành dường như đã ngăn cản họ công khai thách thức ông trong vai trò người điều phối ở giai đoạn lập kế hoạch cũng như ở bước loại bỏ các đối thủ trong giai đoạn củng cố quyền lực. Kết quả là Park nghĩ rằng ông có thể thành công với chiến thuật chia để trị trong việc củng cố các nền tảng quyền lực của mình và ông đã làm được điều đó. Hơn nữa, Park cũng hiểu rằng Mỹ hẳn sẽ lựa chọn chiến lược chờ đợi-và-quan sát hơn là ngăn cản một cuộc đảo chính nếu ông thỏa mãn được những lợi ích quan trọng của siêu cường này, trong đó bao gồm chủ nghĩa chống cộng quyết liệt. Nói cách khác, cuộc đảo chính thắng lợi do Park là một chiến lược gia am hiểu về cách sử dụng và phát triển quyền lực.

Cuộc phiêu lưu của Park Chung Hee

Park Chung Hee sinh vào tháng 11 năm 1917 trong một gia đình làm nông nghèo ở tỉnh Bắc Gyeongsang. [14] Ông trở thành thầy giáo sau khi tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm Daegu. Ông gia nhập quân đội Mãn Châu của Nhật Bản năm 1940 và nhập học Trường Sĩ quan Tân Kinh Mãn Châu, nơi ông gặp những thanh niên Hàn Quốc tham vọng khác mà nhiều người trong số này sẽ trở thành cộng sự trong kế hoạch đảo chính năm 1961. Sau khi tốt nghiệp vào tháng 3 năm 1942, ông nhập học khóa 3 của Học viện Quân đội Nhật Bản (JMA) ở Tokyo và tốt nghiệp lớp học viên nước ngoài vào năm 1944. Sau đó, Park được cử đến Quân đoàn Bộ binh Mân Châu số 8 với quân hàm thiếu úy. Khi Hàn Quốc được giải phóng khỏi ách cai trị của Nhật Bản, ông đến Bắc Kinh, tại đây những người lính Hàn Quốc từ các đơn vị khác nhau trở thành một phần trong lực lượng quốc phòng của Hàn Quốc (kwangbokkun) trước khi trở lại Hàn Quốc. Khi đó ông là đại đội trưởng Đại đội 2 của Tiểu đoàn Jeop-young-jin thuộc Lực lượng Đặc nhiệm 3. Tháng 9 năm 1946, Park nhập học Trường Bảo vệ Quốc phòng Joseon (Joseon kyongbi sagwan hakkyo), sau này đổi tên thành Học viện Quân sự Hàn Quốc (KMA), và trở thành học viên khóa thứ hai.

Binh nghiệp của Park trong quân đội mới hình thành của Hàn Quốc rất bất ổn. Sau khi tốt nghiệp KMA, ông được điều vào lực lượng Mỹ - Hàn để trấn áp cuộc bạo loạn Yeosu-Suncheon tháng 10 năm 1948. Cuộc nổi loạn này do các phần tử cánh tả trong quân đội tiến hành nhằm chống đối chỉ thị đàn áp cuộc nổi dậy của chủ nghĩa cộng sản ở đảo Cheju. Tuy nhiên, trước lúc thực hiện nhiệm vụ, Park đã bị bắt giữ bởi tên ông có liên quan đến các cuộc điều tra về các chi bộ cộng sản trong quân đội Hàn Quốc. Mặc dù không hề có bằng chứng cho thấy các chi bộ này có liên quan trực tiếp đến cuộc nổi dậy, nhưng chính Park đã là một thành viên chính thức của Đảng Công nhân Hàn Quốc trước năm 1948, điều này khiến ông trở thành mục tiêu trừng trị của quân đội. Ban đầu ông bị kết án tử hình vì mối liên hệ của ông với đảng của công nhân và vì cáo buộc cung cấp vũ khí cho những người tham gia cuộc nổi loạn. Phán quyết này sau đó đã được giảm xuống còn 20 năm tù. Tuy nhiên Park đã được trả tự do sớm hơn, khi ông cung cấp thông tin về các hoạt động bí mật của đảng này. Cấp trên trực tiếp của ông lúc đó, Thiếu tướng Paik Sun-yup, người đã tốt nghiệp Trường Sĩ quan Phụng Thiên Mãn Châu, đơn vị tiền thân của Trường Sĩ quan Tân Kinh và Chuẩn tướng Chang Do-young đã xóa án phạt này cho ông. Sau khi ra tù, Park được bổ nhiệm làm giám đốc các hoạt động quân sự và tình báo ở trụ sở chính của quân đội, đây là một vị trí dân sự.

Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) bùng nổ đã tạo cơ hội cho ông. Mười bốn tháng sau khi bị đuổi khỏi quân đội và chỉ ba ngày sau khi cuộc chiến bùng nổ, Park đã được phục cấp ở Suwon với quân hàm thiếu tá nhờ được Đại tướng Chang Do-young với Tổng tham mưu trưởng lúc đó là Trung tướng Jeong Il-kwon đề cử, ông này cũng từng là một học viên của Học viện Quân sự Nhật Bản. Với xung đột ý thức hệ tả-hữu cực độ đang làm rối loạn đất nước và việc thủ tiêu những lực lượng cánh tả ở Hàn Quốc cuối cùng đã xảy ra, điều đáng chú ý là Park không chỉ được tự do mà còn trở lại nghiệp nhà binh. Việc ông được phục cấp có lẽ minh chứng cho sự quý trọng cao mà ông đã tranh thủ được từ cấp trên của mình, mà vì đó họ đã phải chấp nhận rủi ro đối với sự nghiệp của chính họ nhằm bảo trợ cho ông trong những giai đoạn căng thẳng về ý thức hệ. Chủ nghĩa bè phái bên trong quân đội Hàn Quốc cũng có lợi cho ông khi nó khuyến khích những người lính tốt nghiệp từ Trường Sĩ Quan Tân Kinh và Phụng Thiên Mãn Châu cũng như Học viện Quân sự Nhật Bản ủng hộ nỗ lực thu hút các đồng sự của Park trong cuộc đấu tranh với những bè phái khác hoặc thậm chí trong chính nội bộ. Điểm mấu chốt nhất vẫn là Park đã chứng minh được lòng trung thành trong tư tưởng với Hàn Quốc và với các thủ lĩnh quân đội, ban đầu bằng việc phản bội các đồng chí cánh tả của ông trong cuộc nổi loạn Yeosu-Suncheon và sau đó là thoát thân về phía nam ở Cục Tình báo của tổng hành dinh quân đội trong giai đoạn đầu của cuộc chiến, khi chiến thắng của quân đội Triều Tiên là gần như không cần bàn cãi.

Khi quay lại binh nghiệp, Park - cũng như nhiều người khác cùng độ tuổi - nhanh chóng thăng tiến, từ thiếu tá lên đến hàm đại tá vào mùa xuân năm 1951. Trước đó, Park đã được đánh giá là sĩ quan có năng lực do ông đã dự kiến được sự xâm lăng của Triều Tiên vào tháng 12 năm 1949. Park được nhận Huân chương Công trạng Chungmu vào tháng 12 năm 1950 vì sự dũng cảm trong Trận chiến Trung-Đông, Huân Chương Công trạng Hwarang vào tháng 12 năm 1951 cho vị trí Giám đốc Trường Tình báo Quân đội và Huân chương Công trạng Chungmu vào tháng 5 năm 1953 cho vai trò tư lệnh pháo binh của Quân đoàn Hai. Sự nghiệp của Park cũng thuận lợi nhờ tình trạng thiếu sĩ quan có trình độ trong quân đội Hàn Quốc khi lực lượng này phải trải qua một quá trình tuyển quân ồ ạt trong cuộc chiến với Triều Tiên. Sau khi trở thành chuẩn tướng, sự thăng tiến của ông chậm lại, nhưng ở thời điểm quan trọng này, Đại tướng Paik Sun-yup, lúc này đang là tổng tham mưu trưởng, lại một lần nữa giúp Park xóa sạch những hồ sơ ghi nhận hoạt động cánh tả của ông. Mặc dù vậy, khó khăn của Park không hề giảm đi. Vào năm 1956, khi ông là sư đoàn trưởng Sư đoàn 5, một số cấp dưới của ông đào ngũ đi theo miền Bắc để chống đối những gian lận trắng trợn trong cuộc bầu cử của Tổng thống Lý Thừa Vãn (1948-1960). Cũng năm này, 59 người lính thuộc sư đoàn ông đã tử nạn trong một vụ lở núi. Vào năm 1957, khi ông chỉ huy Sư đoàn 7, một vụ cháy rất lớn đã xảy ra tại kho quân lương. Những tai nạn đó đáng lý ra đã chấm dứt sự nghiệp của hầu hết các sĩ quan, nhưng cũng giống năm 1948 và 1950, Park đã bám trụ nhờ sự giúp sức của cấp trên. Năm 1958, Paik Sun-yup lại một lần nữa can thiệp giúp Park được thăng cấp lên thiếu tướng khi hồ sơ cộng sản của ông một lần nữa trở thành trở ngại trước hội đồng bổ nhiệm. Chính từ cấp bậc này mà Park đã lập kế hoạch và khởi động cuộc đảo chính quân sự.

Thăng tiến trong bối cảnh xung đột bè phái

Vào những năm 1950, quân đội Hàn Quốc được chia thành ba nhóm theo khu vực địa lý. Nhóm Tây Bắc, gồm lực lượng bản xứ của các tỉnh vùng Pyeongan, được lãnh đạo bởi Paik Sun-yup và sau đó là Chang Do-young; Nhóm Đông Bắc, lực lượng tập hợp từ các tỉnh vùng Hamgyeong, lãnh đạo là Jeong Il-kwon và sau đó là Yi Yong-mun; và nhóm Trung-Nam, tập hợp từ các tỉnh trung tâm phía nam, lãnh đạo là Yi Hyeong-gun. Quân đội cũng bị chia tách theo trường đào tạo. Các sĩ quan tốt nghiệp từ Học viên Quân sự Nhật Bản mâu thuẫn với những cựu học viên Trường Sĩ Quan Phụng Thiên và Tân Kinh. Khi Song Yo-chan là tổng tham mưu trưởng vào năm 1960, ảnh hưởng của những cựu học viên JMA lấn át hẳn ảnh hưởng của nhóm Mãn Châu chống đối. Song vì các mâu thuẫn bè phái cũng như vì ông này đã ủng hộ Tổng thống Lý Thừa Vãn trong cuộc bầu cử gian lận năm 1960. Sau cuộc Cách mạng Sinh viên ngày 19 tháng 4 diễn ra sau cuộc bầu cử đó, thành viên của nhóm Trung-Nam, cùng với những cựu học viên của khóa KMA 5, đã tiêu diệt bè phái của Song Yo-chan, tuy nhiên đội ngũ này lại bị thay thế chỉ sau một năm từ chính nội bộ bởi cuộc lật đổ của Park - một cựu học viên của Trường Sĩ quan Tân Kinh - với sự trợ giúp của các cựu học viên trẻ hơn của KMA. [15] Các sĩ quan cao cấp của liên minh đảo chính năm 1961 đến từ Nhóm Tây Bắc và đã được đào tạo quân sự ở Trường Sĩ quan Phụng Thiên và Tân Kinh. Hai lãnh đạo của nhóm Tây Bắc-Mãn Châu này, Paik Sun-yup và Chang Do-young, đều là những người ủng hộ Park suốt những năm 1950. Với vai trò chỉ huy liên minh, mặc dù đến từ vùng Đông Nam, nhưng Park đã sử dụng nhiều sĩ quan cấp cao trong nhóm này. Bên cạnh việc từng học cùng trường, Park cũng có liên hệ với những người trong nhóm này thông qua KMA. Các vị tướng Yun Tae-il, Park Im-hang, Kim Dong-ha và Bang Won-cheol đã tốt nghiệp khóa đầu tiên của học viện này; Yi Chu-il học khóa 2; và Choi Ju-jong học khóa 3. Chuẩn tướng thủy quần lục chiến Kim Yun-gun đã tốt nghiệp khóa 6 của KMA. Những sĩ quan này cùng với Park sẽ tạo nên lực lượng hạt nhân lãnh đạo liên minh, với mục đích trở thành thành viên của Hội đồng Tối cao Tái thiết Quốc gia (SCNR) sau đảo chính. [16] Chính Kim Yun-gun đã huy động toàn bộ lực lượng thủy quân lục chiến của ông vượt sông Hàn vào rạng sáng ngày đảo chính. Sự ủng hộ của các tướng khác - Jeong Il-kwon, Shin Hyeon-jun và Paik Sun-yup, tất cả đều là cựu học viên của Trường Sĩ quan Tân Kinh Mãn Châu - cũng đều có thể trông cậy được khi các lực lượng này vượt qua sông.

Mặc dù các tướng lĩnh tham gia có cấp bậc gần tương đương, nhưng chính Park mới là người chỉ đạo chiến lược từ giai đoạn đầu tiên trong bước lập kế hoạch vì ông có được sự trung thành của các trung tá và đại tá dưới trướng đang chỉ huy các tiếu đoàn và trung đoàn. Để tổ chức các đơn vị hạt nhân do các sĩ quan cấp trung chỉ huy, Park đã khai thác triệt để các mối quan hệ cá nhân ông xây dựng được trong suốt sự nghiệp của mình. Khi còn là một chỉ huy đại đội ở KMA, ông đã có được niềm tin và lòng trung thành của các học viên trẻ bằng tính cách kiệm lời nhưng mạnh mẽ, tinh thần kỷ luật, sự độ lượng và lòng yêu nước. Cụ thể hơn, Park đã xây dựng mối quan hệ thân thiết với bốn học viên đầy tiềm năng tốt nghiệp khóa KMA 5 - Chae Myong-shin, Kim Jae-chun, Park Chi-ok và Mun Jae-jun - những người sẽ chỉ huy đội quân ở vị trí tiên phong của họ trong liên minh đảo chính vào rạng sáng ngày 16 tháng 5. Khi Park làm việc trong đơn vị tình báo ở tổng hành dinh với vai trò dân sự, ông cũng tạo được mối quan hệ với các sĩ quan lãnh đạo trẻ của khóa KMA 8 trong đó có Kim Jong-pil, đồng minh thân cận sau này của ông cùng với Seok Jung-sun, Yi Young-gun và Jeon Jae-gu, họ sẽ trở thành những người lập kế hoạch cho cuộc đảo chính và sau đó trở thành người sáng lập Cục Tình báo Trung Ương Hàn Quốc, mà sau này sẽ củng cố quyền lực của Park Khi được thăng hàm chuẩn tướng, Park bắt đầu đưa những người cộng sự tin tưởng này vào đơn vị của ông, đồng thời giành được niềm tin của những gương mặt mới như Yi Nak-seon, Yi Won-yup, Hong Jong-cheol, Ku Ja-chun, Kim Kye-won, ParkTae-jun, Yun Pil-yong và Han Byeong-gi. Với vai trò cầu nối giữa đội ngũ sĩ quan cao cấp Tây Bắc-Mãn Châu với nhóm sĩ quan trẻ khóa KMA 5 và 8, Park đã tự đặt mình vào trung tâm của liên minh này. Nhờ vậy thay vì chỉ là một người đại diện trong liên minh, Park đã trở thành nhân vật không thể thiếu trong công tác lập kế hoạch, điều này tạo nên một tổ chức thống nhất hơn hẳn các tổ chức đối thủ khác.

Park có vẻ như đã có ý tưởng đảo chính quân sự vào khoảng năm 1956, khi Lý Thừa Vãn tái đắc cử qua một cuộc bầu cử gian lận. [17] Như ông nhớ lại sau này, các bước chuẩn bị cho kế hoạch bí mật đã trở nên nghiêm túc hơn vào tháng 1 năm 1960 khi sắp đến một cuộc bầu cử tổng thống khác. [18] Khi các nhà hoạt động trong giới sinh viên khởi động một cuộc cách mạng vào ngày 19 tháng 4 năm 1960 để chống lại sự gian lận của cuộc bầu cử, chính quyền ngày càng tham nhũng và độc tài của Lý Thừa Vãn đã đàn áp bằng vũ lực, giết 183 người biểu tình chỉ trong một ngày 19 tháng 04. Cuộc đàn áp đẫm máu này đã làm sụp đổ Đảng Tự do, Lý Thừa Vãn bị trục xuất và phải đến sống lưu vong ở Hawaii. Cuộc cách mạng của sinh viên này đã ngăn Park tiến xa hơn nữa để thực hiện cuộc đảo chính. Như sau này ông hối tiếc, ông đã thua giới sinh viên trong kế hoạch này và phải chờ đến lúc chính quyền dân sự sau đó khủng hoảng để có cơ hội tiếp theo.

Thời cơ của Park xuất hiện vào năm 1961 khi ngày càng rõ ràng là nhiều lãnh đạo của Đệ nhị Cộng hòa (1960-1961), những người nắm chính quyền hai tháng sau sự sụp đổ của Lý Thừa Vãn, trở nên bất lực và tha hóa. Chính quyền dân sự bị chia rẽ nội bộ của Chang Myon đã phản bội kỳ vọng của nhân dân về một chính quyền minh bạch và hiệu quả. [19] Nhiều người đã cho rằng chính quyền dân sự này không thể nào giải quyết được các khủng hoảng chính trị, xã hội và kinh tế đang tàn phá đất nước. Xã hội Hàn Quốc đang mong chờ một đội ngũ lãnh đạo hiệu quả, và Park cùng các đồng sự của mình đã khai thác được khoảng trống quyền lực từ sau cuộc Cách mạng của Sinh viên ngày 19 tháng 4 này nhờ lực lượng tình báo, khả năng tổ chức và tài năng chính trị vượt trội của họ.

Quân đội trở thành lực lượng lãnh đạo

Lực lượng vũ trang non trẻ một thời của Hàn Quốc lúc này đã trưởng thành với 600.000 binh lính thiện chiến được trang bị hiện đại qua Chiến tranh Triều Tiên. [20] Công tác huấn luyện hàng trăm ngàn binh lính, cung cấp quân nhu cùng việc hoạch định và triển khai các hoạt động quân sự đòi hỏi nguồn lực hậu cần khổng lồ. Để thực hiện được những nhiệm vụ này, quân đội Hàn Quốc đã phải tăng cường kinh nghiệm quản trị và quản lý, điều này cho phép các lãnh đạo của cuộc đảo chính năm 1961 tự hào về trình độ quản lý “đi trước 10 năm so với khu vực tư nhân” của họ. Lực lượng đảo chính thậm chí còn khẳng định rằng quân đội là tổ chức dân chủ nhất ở Hàn Quốc với các lãnh đạo có xuất thân bình thường phấn lớn được huấn luyện ở Mỹ trong vô số các chương trình trao đổi quân sự; [21] nơi đây cũng là lò huấn luyện những người lính có xuất thân và điều kiện kinh tế đa dạng. Ở đất nước vốn nghèo nàn này, lại bị tàn phá bởi thực dân bóc lột, quân đội là một trong rất ít con đường cho những người trẻ tuổi tìm kiếm cơ hội tiến thân. Ngoài ra, các lực lượng vũ trang cũng thực hiện chức năng mạng lưới an sinh xã hội cho những người thất nghiệp.

Đặc biệt, các chương trình đào tạo ở Mỹ đã giúp các sĩ quan xác định vai trò của họ một cách toàn diện không chỉ trong công tác quốc phòng mà cả trong việc xây dựng đất nước. Định nghĩa toàn diện này về vai trò của quân đội chắc chắn không phải là mới với các cựu học viên Phụng Thiên và Tân Kinh, kể cả Park. Quân đội Hoàng gia Nhật Bản cũng đã xác định sứ mệnh của lực lượng vũ trang là xây dựng đất nước. Giờ đây, các lực lượng vũ trang Hàn Quốc được thụ hưởng chương trình đào tạo huấn luyện mới của quân đội Mỹ đã có thể kết hợp đặc tính quân phiệt Nhật Bản với tinh thần đề cao hiệu quả kỹ thuật của người Mỹ để nâng sứ mệnh từ việc bảo vệ đất nước khỏi tầm ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản lên việc xây dựng đất nước thành một quốc gia hiện đại. Khoảng cách từ tư tưởng này đến việc các lực lượng vũ trang cho rằng can thiệp quân sự vào các vấn đề chính trị và kinh tế quốc gia là hợp pháp và cần thiết theo sứ mệnh quân đội chỉ là một bước ngắn. Hơn nữa, các lực lượng vũ trang lại đang ngày càng xem thường đảng chính trị cầm quyền cũng như các đảng đối lập vốn đang mắc kẹt trong các vấn đề đảng phái. Đặc biệt, đội ngũ sĩ quan trẻ đã manh nha nổi loạn, chỉ trích các sĩ quan cao cấp đang dần bị tha hóa bởi các chính trị gia. Nhờ bị loại khỏi cuộc đấu tranh chính trị vì quân hàm thấp, các sĩ quan trẻ có thể đại diện cho sự trong sạch và không tha hóa trong tư tưởng. Đối với nhân dân Hàn Quốc đã phải chịu đựng triền miên những di chứng băng hoại của nền chính trị gồm các đảng dân sự chia rẽ, tha hóa và kém hiệu quả, các sĩ quan trẻ dần chiếm được sự quý trọng như một lớp lãnh đạo thay thế sẽ dẫn dắt đất nước.

Các sĩ quan trẻ ngày càng bất mãn do sự mất cân bằng trầm trọng trong hệ thống thăng bậc quân sự của Hàn Quốc. Do lực lượng vũ trang đã tăng trưởng đến trên 600.000 binh lính chỉ trong 5 năm sau khi thành lập nên đã tạo ra một khoảng cách rất lớn về thời gian cần thiết để được thăng cấp giữa các thế hệ tốt nghiệp KMA. Những ai mang quân hàm càng cao vào năm 1948 thì sau đó càng thăng tiến nhanh. Đối với những người nhập ngũ từ sớm, việc quân đội nhanh chóng mở rộng trong Chiến tranh Triều Tiên đồng nghĩa với cơ hội rất lớn để thăng tiến. Khi nắm giữ những vị trí cao hơn, họ phải ngăn không cho cấp dưới được lên nhanh như mình. Ví dụ, trong khi các học viên khóa KMA 5 lên đến hàm đại tá chỉ trong vòng 8 năm sau khi tốt nghiệp, thì học viên khóa KMA 8 lại phải trải qua 8 năm mà chỉ được thăng hàm từ thiếu tá lên đến đại tá. Vào cuối những năm 1950, sự bất công trong thăng tiến này đã khiến các trung tá và đại tá vô cùng bất bình. Chính những người này sẽ trở thành thành phần nòng cốt của cuộc đảo chính năm 1961.

Tình hình này đã đủ chín muồi để quân đội can thiệp vào chính trị, với cả những yếu tố “đẩy” và “kéo” cho phép các phe phái quân sự thách thức giới lãnh đạo chính trị dân sự. Tuy nhiên, để lực lượng quân đội chuyên nghiệp bị chính trị hóa này có thể đoạt được chính quyền và dẫn dắt xã hội cần phải có một vị chỉ huy có thể liên kết vô số bè phái quân sự vào một liên minh rồi truyền vào đó nguồn cảm hứng chung về sứ mệnh và mục đích bằng tầm nhìn, sức hấp dẫn, đầu óc chiến lược và khả năng tổ chức của mình. Vị chỉ huy đó chính là Park Chung Hee.

Đồng thời, không nên phóng đại sự ủng hộ mà các lực lượng vũ trang dành cho Park trong giai đoạn đảo chính. Điều ngược lại có vẻ đúng hơn bởi lực lượng chính thống của quân đội Hàn Quốc không hề ủng hộ, nếu không nói là chống đối cuộc đảo chính năm 1961. Và Park cũng không phải là một chỉ huy trời sinh của toàn bộ quân đội Hàn Quốc. Như nhiều hệ thống tổ chức có cùng quy mô, lực lượng vũ trang Hàn Quốc cũng có những xung đột nội bộ giữa các nhóm cạnh tranh. Vào thời điểm diễn ra đảo chính, Park chỉ là phó tư lệnh của Tập đoàn quân 2, không phải là một vị trí thích hợp để điều động binh lính trong một cuộc xung đột quân sự. Do đó, chính quyền lực tập hợp từ các nhóm khác nhau trong quân đội Hàn Quốc chứ không phải là năng lực riêng của Park đã cho phép ông vạch ra cuộc đảo chính và sau đó là củng cố quyền lực trong chính quyền quân sự. Chìa khóa đưa đến thành công của ông chính là chiến lược chia để trị nhằm vô hiệu hóa các đối thủ mặc dù họ có sức mạnh lớn hơn trong quân đội.

Từ cải cách quân đội đến cách mạng quốc gia

Trớ trêu thay, chính cuộc Cách mạng của Sinh viên ngày 19 tháng 4 năm 1960 đã đưa các lực lượng vũ trang lên vũ đài trung tâm của nền chính trị. Cuộc Cách mạng của Sinh viên không chỉ truyền tinh thần cải cách đến quân đội Hàn Quốc mà còn giao phó cho lực lượng này nhiệm vụ lập lại trật tự sau khi Lý Thừa Vãn mất chức ngày 26 tháng 4. Quân đội, đơn vị thực thi quân luật, giờ đây phải đối mặt với thử thách phải trực tiếp quản lý đất nước. Bất ngờ bị đẩy vào vũ đài chính trị đầy biến động và phải trực tiếp thực hiện cải cách cùng các lực lượng xã hội, các sĩ quan quân đội cuối cùng cũng được dẫn dắt tới việc hình thành quan điểm về những gì đang diễn ra trong nước. Đặc biệt, những sĩ quan trẻ tuổi đã tập hợp thành các nhóm để chia sẻ thông tin và quan điểm. Những cuộc họp đặc biệt này đã tạo điều kiện thuận lợi cho một cuộc đảo chính khi chúng là chất xúc tác cho quá trình phổ biến những ý tưởng cấp tiến và quan điểm cải cách về các vấn đề gây khó khăn cho quân đội cũng như đất nước.

Vấn đề tham nhũng đã bùng lên trong một thời gian dài. Dưới thời Lý Thừa Vãn, Đảng Tự do cầm quyền đã gây quỹ chính trị thông qua những cách thức bất hợp pháp để mua chuộc sự ủng hộ của các chính trị gia thuộc các đảng đối lập. Cũng như vậy, trong quân đội, các tướng lĩnh ngụy tạo các báo cáo tồn kho quân nhu để tham nhũng tài sản quân đội không chỉ cho mục đích cá nhân mà còn cho cả các quỹ chính trị này. Việc chính trị hóa quân đội cũng trở thành một vấn đề trầm trọng vì Lý Thừa Vãn đã thao túng lãnh đạo cấp cao của giới quân đội để gian lận trong các cuộc bầu cử. Các sĩ quan cao cấp thường xuyên chỉ thị cho cấp dưới bỏ phiếu ủng hộ Lý Thừa Vãn và Đảng Tự do của ông ta trong những cuộc bỏ phiếu công khai và bỏ phiếu thử. Dưới chế độ của Lý Thừa Vãn, khoảng 50 sĩ quan đã bị bắt giữ vì tội “can thiệp vào chính trị” khi họ không yêu cầu trung đoàn của họ bỏ phiếu cho đảng cầm quyền. Sau sự sụp đổ của Lý Thừa Vãn, các đại tá và trung tá trẻ tuổi bắt đầu yêu cầu các lãnh đạo quân đội cấp cao phải nhận trách nhiệm trong việc bỏ phiếu gian lận trong các lần bầu cử tổng thống năm 1956 và 1960. Chiến dịch cải cách bắt đầu được đẩy mạnh khi Thiếu tướng Park Chung Hee cùng với các sĩ quan trẻ yêu cầu tổng tham mưu trưởng Song Yo-chan từ chức vì đã can thiệp vào cuộc bầu cử tổng thống năm 1960. Về phương diện cá nhân, hành động của Park là một sự phản bội vì Song đã cứu sự nghiệp của Park nhiều lần trong suốt những năm 1950 và đã giúp Park được thăng hàm lên thiếu tướng năm 1958. Tuy nhiên, về phương diện chính trị, đây là một hành động rất xuất sắc, đưa Park vào vị trí trung tâm của cuộc cải cách quân đội trong hệ thống chính trị và biến ông trong chốc lát trở thành vị lãnh đạo tầm vóc quốc gia. Park đã có thể đường hoàng sát cánh với các lực lượng cải cách nhờ vào vai trò tướng hạng hai; bị loại ra khỏi các vị trí quyền lực và mạng lưới thân hữu chính trị suốt những năm 1950, ông hoàn toàn không dính líu đến tham nhũng. Lý lịch cánh tả trước đây của ông vẫn là một trở ngại, nhưng ông đã phản bác với các bằng chứng chống chủ nghĩa cộng sản trong Chiến tranh Triều Tiên rất rõ ràng. Không bị vấy bẩn bởi tham nhũng, Park được cất nhắc vào vị trí thuận lợi mà nhờ đó ông có thể lợi dụng các phong trào cải cách chống tham nhũng trên toàn xã hội làm phương tiện để gây khó dễ cho các tướng lĩnh cùng cấp khác và để xây dựng bè phái quân sự riêng của mình. Trong quá trình này, Park cũng tìm kiếm cộng sự, đồng minh và những người tâm phúc trong số những người ông đã tạo được lòng tin từ những năm 1950. Ở Seoul, các thành viên của khóa KMA 8 - trung tá Kim Hyeong-wook, Kil Jae-ho, Ok Chang-ho, Shin Yun-chang, Seok Chang-hui, Choi Chuy-myeong, Oh Sang-gyun, Kim Jong-pil - những người có quan hệ sâu sắc nhất với Park từ giai đoạn ba năm trong Cục Tình báo của tổng hành dinh quân đội, đã bí mật tập hợp để ủng hộ lời kêu gọi tổng tham mưu trưởng từ chức của Park. Động thái của họ đã đến tai các lực lượng an ninh quân sự và kết cục là họ bị bắt giữ với tội âm mưu tạo phản. Tuy nhiên, nguy hiểm cũng qua đi và Song Yo-chan từ chức vào ngày 19 tháng 5 năm 1960 khi chiến dịch chống tham nhũng bắt đầu được ủng hộ cả từ bên trong lẫn bên ngoài quân đội.

Sự hạ bệ tướng Song mới chỉ là khởi đầu của cuộc xung đột chính trị dữ dội trong quân đội. Tổng tham mưu trưởng mới là Choi Young-hui, một tướng lĩnh kỳ cựu cũng dễ bị phanh phui tội tham nhũng và âm mưu chính trị hóa quân đội như người tiền nhiệm. Ngày 19 tháng 8, các trung tá đến gặp thủ tướng mới nhậm chức Chang Myon để thảo luận về các tiêu chí bổ nhiệm Tổng tham mưu trưởng mới và Bộ trưởng Quốc phòng tiếp theo. Bước đi táo bạo này của họ đã gần như là một hành động bất tuân lệnh. Ngày 10 tháng 9, Kim Jong-pil và Kim Hyeong-wook, được những người đồng môn KMA giúp đỡ, cố gắng gặp Bộ trưởng Quốc phòng Hyeon Sok-ho để chất vấn về những biện pháp chính sách mà ông ta có thể sử dụng nhằm loại bỏ tham nhũng. Không chỉ yêu cầu về cuộc gặp mặt bị từ chối mà cả hai còn bị bắt vì tội bất tuân lệnh. Đêm đó, các lãnh đạo khác của phong trào chống tham nhũng đã tụ họp ở trung tâm Seoul để thảo luận về những biện pháp cụ thể nhằm thúc đẩy các hoạt động chống tham nhũng theo kế hoạch của riêng họ, bởi họ cho rằng việc kêu gọi lãnh đạo chính trị và quân đội là vô ích. Đây chính là khởi đầu của quá trình chuẩn bị cho cuộc đảo chính.

Trong mắt lực lượng chống tham nhũng, Đảng Dân chủ của Thủ tướng Chang Myon cũng bác bỏ ý tưởng cải cách như Đảng Tự do bị triệt hạ của Lý Thừa Vãn. Các trung tá bắt đầu cho rằng cách duy nhất để cải cách tổ chức quân đội không phải là thông qua thứ bậc quân đội, mà phải là gây áp lực thay đổi từ bên ngoài bằng cách thách thức các lãnh đạo chính trị quốc gia và khởi động cải cách chính trị. Bản chất của các vấn đề tham nhũng trong quân đội được xem là mang tính cấu trúc, chúng móc nối chặt chẽ với cấu trúc lớn hơn của quyền lực chính trị, kinh tế, và xã hội trong đất nước. Các chỉ huy của chiến dịch thanh lọc quân đội bắt đầu chuyển mục tiêu của họ từ việc thực hiện một cải cách nội bộ trong quân đội sang khởi động một cuộc đảo chính quân sự để thực hiện cải cách đất nước toàn diện. Tháng 5 năm 1960, các đại tá và trung tá của khóa KMA 8 được Park bật đèn xanh để chuẩn bị cho cuộc đảo chính. Park lúc đó là Tư lệnh Sở chỉ huy Hậu cần ở Busan, xét về địa lý thì quá xa để có thể chiếm đóng và kiểm soát thủ đô Seoul. Hơn nữa, ông chỉ chỉ huy một hoặc hai tiểu đoàn hạng nhẹ. Để đoạt được quyền hành, ông cần tập hợp một liên minh vũ trang, điều này ông cho rằng có thể thực hiện được bằng cách yêu cầu khóa KMA 8 kết nối với các trung đoàn khác qua mạng lưới đồng cấp. Sau khi đã kết nối với các trung tá và đại tá, những cựu học viên của khóa KMA 8 sẽ chỉ huy các tiểu đoàn và trung đoàn chiến đấu. Câu hỏi đặt ra là làm cách nào để kết nối những sĩ quan cấp trung có vai trò chiến lược nhưng lại đóng quân cách xa nhau thành một liên minh thống nhất để thực hiện cuộc đảo chính. Điều cần thiết là phải chen ngang vào thứ bậc quân đội và khiến lòng trung thành của các sĩ quan cấp trung này chuyển hướng khỏi lãnh đạo trực tiếp của họ. Park tính toán rằng lòng trung thành nảy sinh tự nhiên của các nhóm dành cho các trường đào tạo sẽ mạnh hơn tính kỷ luật theo luật lệ của trật tự quân đội.

Park đã sử dụng mối quan hệ với các tướng lĩnh học cùng trường trong nhóm Mãn Châu để tập hợp đội ngũ lãnh đạo cuộc đảo chính. Ông tiếp cận Thiếu tướng Kim Dong-ha của quân chủng thủy quân lục chiến, người học trên ông một năm ở Trường Sĩ quan Tân Kinh Mãn Châu, để bàn về việc khởi động cuộc đảo chính. Park cũng gặp Yi Chu-li, một cựu học viên khác của Trường Sĩ quan Tân Kinh, để tìm cách thuyết phục Chuẩn tướng Yun Tae-il của Sư đoàn 36 tham gia liên minh. Park có được sự ủng hộ của tổng biên tập tờ Nhật báo Busan trong việc tuyên truyền. Park cũng thăm dò ý định của tư lệnh Tập đoàn quân 2, Chang Do-young, bằng cách tranh luận về tính cần thiết của một can thiệp quân sự. Với tình trạng bất ổn chính trị thời điểm đó, các trung tá, đại tá và các vị tướng của liên minh đều có thể trực tiếp thỉnh cầu cấp trên về một cuộc lật đổ quân sự và bày tỏ sự bất mãn với những vấn đề chính trị và quân sự một cách công khai mà không sợ bị trừng phạt vì tội bất tuân lệnh. Âm mưu này có thể được thực hiện công khai vào thời điểm đó không chỉ vì Bộ Tư lệnh An ninh Quân sự chịu trách nhiệm kiểm soát hoạt động sĩ quan và duy trì kỷ luật quân đội vào lúc đó đã mất hiệu lực do dính líu tới các hoạt động phi pháp suốt chế độ của Lý Thừa Vãn, mà còn do Hàn Quốc lúc đó đang ở trong một cuộc cách mạng dân sự thật sự sau cuộc cách mạng của sinh viên ngày 19 tháng 4. Tất cả các thành phần xã hội thay phiên nhau thể hiện thái độ phẫn uất và bất bình thông qua các cuộc biểu tình và nổi loạn. Chính quyền Chang Myon đã mất kiểm soát nền chính trị Hàn Quốc và lực lượng chính trị lụn bại này là bằng chứng cho sự mất hiệu lực của Bộ Tư lệnh An ninh Quân sự.

Các sĩ quan bắt đầu lên kế hoạch cho cuộc đảo chính và tổ chức gấp rút vào tháng 10 năm 1960 với các thành viên nòng cốt giữ vai trò then chốt. Kim Jong-pil là Tổng thư ký trong khi Kim Hyeong-wook và Jeong Mun-sun điều phối hoạt động tình báo. Phòng nhân sự dưới quyền điều hành của Oh Chi-seong, các sự vụ kinh tế do Kim Tong-hwan đảm nhận, bộ phận pháp lý do Kil Jae-ho chỉ đạo. Ok Chang-ho, Shin Yun-chang, và U Hyong-ryong phụ trách hoạt động tác chiến.

Ngày 9 tháng 11, chín thành viên chủ chốt tổ chức cuộc họp thứ hai tại nhà riêng của Thiếu tướng Park Chung Hee ở Seoul. May mắn là ông đã được thuyên chuyển từ Busan về Seoul để giữ chức tư lệnh tác chiến ở tổng hành dinh, điều này giúp ông có thể tham gia thường xuyên các buổi họp chuẩn bị. Chức vụ mới này rõ ràng không cho Park quyền chỉ huy tác chiến các đội quân chiến đấu, nên ông vẫn phải dựa vào các trung tá và đại tá của khóa KMA 8 để xây dựng mạng lưới đồng cấp giữa các lực lượng tham gia đảo chính tiềm năng. Vào buổi họp quan trọng của tháng 11, các thành viên nòng cốt đã quyết định sẽ lấy phong trào chống tham nhũng làm lý do cho cuộc đảo chính. Chiến lược này được chọn vì hai nhân vật chính trong nhóm, Kil Jae-ho và Ok Chang-ho, đã bị bắt giữ vì liên quan đến phong trào đó. Trong nỗ lực mở rộng liên minh, Oh Chi-seong đã tìm được sự ủng hộ của đơn vị pháo binh trong Quân đoàn 6 và của trường Cao đẳng Lục quân. Trong khi các đại tá và trung tá tập trung vào việc tuyển chọn các sĩ quan trẻ và thành lập các chi bộ cách mạng trong và ngoài Seoul, thì Park tiếp tục xây dựng niềm tin ở các tướng lĩnh khác.

Kế hoạch đảo chính

Nhóm nòng cốt đã đưa ra bốn nguyên tắc chi phối áp dụng trong cuộc đảo chính:

• Mục đích là giải phóng nhân dân khỏi sự tha hóa chính trị và nghèo đói kinh tế bằng một “liều thuốc đặc hiệu” - cuộc cách mạng, chấp nhận sự thật rằng đất nước giờ đây đã mất đi động lực cải tổ quân đội trong hòa bình.

• Lực lượng cách mạng sẵn sàng đánh đổi cả mạng sống để vươn đến “chân lý vĩ đại”.

• Nhiệm vụ tổ chức cuộc cách mạng phải được giữ tối mật.

• Quyết định tiến hành đảo chính dựa trên phân tích khách quan về hiện trạng đất nước và kỳ vọng của nhân dân.

Với việc cho ra đời bốn nguyên tắc mơ hồ này, nhóm nòng cốt bắt đầu tổ chức các cơ quan trung ương và địa phương để thực hiện đảo chính. Từ tháng 11 năm 1960 đến tháng 5 năm 1961, Park tập trung vào việc thuyết phục thêm các tướng lĩnh chỉ huy các đơn vị chiến đấu và phục vụ chiến đấu ở mặt trận với Triều Tiên cũng như ở khu vực hậu phương tham gia phe đảo chính. Vào tháng 11, Chuẩn tướng Chang Kyong-sun từ tổng hành dinh quân đội và Han Ung-jin của Trường Tình báo ở Yongchon (người vốn có kế hoạch đảo chính riêng của ông ta) cũng tham dự. Nhằm ngăn chặn một cuộc đàn áp nhằm vào hoạt động tổ chức đảo chính, vốn đang trở thành một bí mật mở vào thời gian đó, Park đã cố gắng thuyết phục các sĩ quan ở Tổng cục Phản gián tham gia. Để có thể trang bị súng ống và xe tăng cho liên minh đảo chính, Park cũng cố gắng lôi kéo Sư đoàn 9, sư đoàn thiết giáp chủ lực ở vùng lân cận Seoul. Tuy nhiên, cả hai cố gắng này đều thất bại. Dù vậy, đội ngũ tổ chức đảo chính cũng được an ủi khi cả Tổng cục Phản gián và Sư đoàn 9 đều không báo cáo âm mưu này lên cấp cao hơn.

Đến cuối năm 1960, Park khởi động những buổi thảo luận khác bên cạnh các cuộc họp đang diễn ra với nhóm nòng cốt nhằm mở rộng lực lượng ủng hộ cho mình trong số các sĩ quan trẻ. Ông cố ý đặt mình vào vị trí điều phối hoạt động của các bộ phận khác nhau thuộc liên minh. Việc những người tham gia chỉ liên lạc và phối hợp thông qua Park khiến ông trở thành vị chỉ huy thật sự của liên minh. Mạng lưới rời rạc này cho phép Park tự do thao túng và linh hoạt điều chỉnh kế hoạch theo những thay đổi trong môi trường chính trị. Khi cuộc đảo chính thành công vào tháng 5 năm 1961, cũng cấu trúc này - một hệ thống kiểm soát và cân bằng quyền lực giữa các thành viên nòng cốt cấp trung, giữa các tá với các tướng, với Park ở vị trí trung tâm - đã hỗ trợ đắc lực cho ông trong việc củng cố quyền lực. Một thành viên trong một nhóm đồng cấp đã được Park mời vào liên minh hỗn tạp này là Thiếu tướng Yi Chu-li. Park đã gặp Yi ở Daegu vào cuối năm 1960 để đưa ra ba nguyên tắc chi phối cụ thể:

• Khi cuộc đảo chính đã nổ ra, hai người sẽ yêu cầu Trung tướng Chang Do-young, Tổng tham mưu trưởng, trở thành Chủ tịch Hội đồng Cách mạng để đưa toàn bộ tổ chức quân đội ra chống lưng cho cuộc đảo chính. Việc thực hiện kế hoạch đảo chính sẽ đặt dưới quyền kiểm soát của Park Chung Hee, người giữ vị trí tổng tư lệnh Quân đội Cách mạng.

• Park có nhiệm vụ tổ chức cơ quan đầu não của Quân đội Cách mạng bằng việc tuyển chọn các tướng lĩnh chiến đấu cho quân đội, trong khi Yi sẽ chịu trách nhiệm tập hợp các lực lượng hỗ trợ cho khu vực hậu phương.

• Đại tá Park Ki-seok sẽ hỗ trợ Yi trong công tác tổ chức Quân đội Cách mạng ở Daegu.

Ngày 10 tháng 4 năm 1961, Park đã liều lĩnh tiết lộ kế hoạch đảo chính với Chang Do-young. Phản ứng của Chang rất khó hiểu. Vị tổng tham mưu trưởng bác bỏ lời thỉnh cầu được đứng đầu liên minh của Park, nhưng ông lại không báo cáo âm mưu này với Thủ tướng Chang Myon. Ông cũng không ngăn cản cuộc đảo chính bằng việc hạ lệnh cho Tổng cục Phản gián và Tổng cục An ninh bắt giam những kè âm mưu. Hơn nữa, dù bị Chang bác bỏ thỉnh cầu, sau cuộc gặp Park có cảm giác rằng Chang đang ngầm ủng hộ cuộc lật đổ qua những cử chỉ khó nắm bắt và các biểu lộ không rõ ràng. Có lẽ hai bên đã hiểu lầm nhau, nhưng khả năng cao hơn là vị tổng tham mưu trưởng thấy rằng những kẻ chủ mưu đảo chính đã chuẩn bị lực lượng quá mạnh và ông không thể ngăn cản họ. Ngoài ra, sau này ông ta cũng có thể sát cánh với Park nếu cuộc đảo chính thành công. Dù động cơ của Chang Do-young là gì đi nữa thì thái độ không rõ ràng của ông đã cho phép Park thuyết phục những người khác tham gia liên minh bằng cách miêu tả Chang Do-young là “bàn tay vô hình” đằng sau cuộc đảo chính. Chiến lược ở đây là sử dụng Chang để tạo ra tính chính danh và sự ủng hộ của toàn quân cho kế hoạch đảo chính, điều chỉ có thể đạt được nhờ vị Tổng tham mưu này.

Park cũng thường xuyên viếng thăm Tư lệnh Sư đoàn 5 Chae Myong-shin và được ông này hoàn toàn ủng hộ vào tháng 5 năm 1960. Tháng 12 năm 1960, ông có được sự ủng hộ từ các vị tướng thuộc Tổng hành dinh Tập đoàn quân 2 ở Daegu. Sau đó, vào tháng 4 năm 1961, Park đến thành phố Kwangju tuyển Đại tá Yi Won-yup, sĩ quan chỉ huy của Học viện Hàng không Quân sự, để lan truyền thông báo cách mạng vào ngày đảo chính quân sự. Theo như kế hoạch, tổng hành dinh của cuộc đảo chính đặt tại Bộ tư lệnh Quân khu 6 ở Seoul. Trung tá Park Won-bin chịu trách nhiệm tổ chức các đơn vị đảo chính ở đây.

Tháng 3 năm 1961, nhóm nòng cốt gồm các trung tá và đại tá họp điều chỉnh kế hoạch tại nhà hàng Chungmu-jang ở Seoul. Họ thống nhất năm điểm cơ bản:

• Nhóm nòng cốt của cuộc đảo chính quân sự bao gồm các sĩ quan khóa 8 và 9 của KMA.

• Chỉ có những sĩ quan “đạt tiêu chuẩn”, không có dính líu đến tham nhũng hoặc tham gia chính trị, mới được nhận vào liên minh đảo chính.

• Danh sách sĩ quan đồng ý tham gia đảo chính sẽ không được công bố trong những người tổ chức đảo chính cho đến cuối tháng 3 năm 1961.

• Trong tháng 4, họ có thể triệu tập một cuộc họp gồm tất cả thành viên của liên minh đảo chính.

• Đại tá Oh Chi-seong chịu trách nhiệm liên lạc với khóa KMA 8 và Trung tá Kang Sang-uk chịu trách nhiệm liên lạc với khóa KMA9.

Khi hoạch định kế hoạch, những người tổ chức đảo chính rất quan tâm đến những hậu quả không mong muốn đối với an ninh quốc gia nên đã quyết định không huy động những đơn vị ở tiền tuyến. Họ chọn ngày kỷ niệm 1 năm cuộc Cách mạng của Sinh viên 19 tháng 4 làm ngày khởi sự vì họ kỳ vọng những bất ổn chính trị nghiêm trọng sẽ bùng nổ gần ngày này nhằm chống đối Chang Myon bất tài, đó sẽ là lý do tốt để quân đội hành động không phải chỉ để lập lại trật tự mà còn kế thừa và thực thi tinh thần dân chủ một năm về trước. Theo kế hoạch dự phòng, họ chọn một ngày khởi động khác vào giữa tháng 5 trong trường hợp kế hoạch giữa tháng 4 không thể thực hiện. Park chịu trách nhiệm điều động các lực lượng quân đội thường xuyên và dự bị ở vùng hậu phương. Bộ tư lệnh Quân khu 6, nơi các trung tá Park Won-bin và Ok Chang-ho chịu trách nhiệm chỉ huy quân đội vào ngày đảo chính, là nơi chỉ huy các lực lượng của Sư đoàn Lục quân 30 và 33 cùng các lực lượng quân sự đặc biệt đang đảm nhiệm vai trò phòng thủ Seoul. Thuyết phục được các lực lượng này đánh chiếm những vị trí chiến lược trong thủ đô là rất quan trọng đối với thành công của kế hoạch và vào cuối tháng 3 sự ủng hộ từ các lực lượng này đã được đảm bảo.

Park cũng đã có được nguồn tài chính ủng hộ lên đến 7,5 triệu hwan [22] — 76,5% tổng ngân sách cuộc đảo chính - từ những doanh nhân dân sự, trong đó có cả Kim Chong-rak (anh trai của Kim Jong-pil). Park đã sử dụng mối quan hệ với các doanh nghiệp nhỏ để huy động nguồn tài chính cho cuộc đảo chính.

Tuy nhiên, ngược với những kỳ vọng về bất ổn chính trị, khoảng thời gian kỷ niệm 1 năm cuộc Cách mạng của Sinh viên ngày 19 tháng 4 trôi qua mà không có vụ chống đối đáng kể nào xảy ra, điều đó khiến cho quân đội phải dời ngày tiến hành đến 12 tháng 5. Dự định này cũng bị hủy bỏ khi kế hoạch vô tình bị rò rỉ đến các lực lượng an ninh quân đội rồi được báo cáo lên Thủ tướng Chang Myon và Bộ trưởng Bộ quốc phòng Hyeon Seok-ho. Cuộc đảo chính được hoãn lại đến 3 giở sáng ngày 16 tháng 5 năm 1961.

Chính quyền Chang Myon hủy bỏ việc tiến hành điều tra những kẻ tổ chức đảo chính vì tổng tham mưu trưởng Chang Do-young đã tỏ thái độ nghi ngờ tính trung thực của bản báo cáo an ninh khi Thủ tướng hỏi ông ta về báo cáo này. Chang Myon hoàn toàn tin tưởng Chang Do-young như một người đồng đạo công giáo La Mã nên ý kiến của Chang Do-young đã ngăn Chang Myon ra lệnh tiến hành điều tra. Thực tế thì việc đã có những tin đồn về ý định đảo chính quân sự của một vài phe phái trong lực lượng vũ trang Hàn Quốc kể từ đầu năm 1961 cũng đã giúp ích cho Park vì Chang Myon cho rằng báo cáo an ninh về cuộc đảo chính ngày 12 tháng 5 lại là một báo động sai khác. Tuy nhiên, các báo cáo này đã khiến cho Trung tướng Yi Han-lim (thuộc Tập đoàn quân 1) và các tướng lĩnh không được chọn vào cuộc đảo chính bắt đầu giám sát chặt những động thái của Park.

Ngày 16 tháng 5 Park đến Bộ chỉ huy Quân khu 6 Lục quân để tự mình chỉ đạo cuộc đảo chính sau khi ông phát hiện ra kế hoạch đã bị bại lộ một lần nữa. Cảnh sát quân sự đã bao vây lực lượng đảo chính ở Quân khu 6 Lục quân theo lệnh của Tổng tham mưu trưởng Chang Do-young sau khi nhận được báo cáo của Tổng cục Phản gián về một cuộc nổi loạn của binh sĩ mà các sĩ quan Sư đoàn 30 đang âm mưu dưới sự chỉ huy của Quân khu 6 Lục quân. Park nỗ lực để gấp rút đảo ngược tình thế. Che giấu nỗi lo lắng, Park đọc một diễn văn xúc động trước các binh lính chống đối chính quyền: “Chúng ta mong đợi chính quyền dân sự khôi phục lại trật tự cho đất nước. Nhưng Thủ tướng và các Bộ trưởng lại đang lún sâu vào tệ tham nhũng mà ngày càng đẩy đất nước đến bờ vực sụp đổ. Chúng ta phải đứng lên chống lại chính phủ và cứu lấy Tổ quốc. Chúng ta có thể hoàn thành được những mục tiêu của mình mà không cần đổ máu. Hãy cùng tham gia Quân đội Cách mạng để cứu lấy đất nước.”

Bài diễn văn này thật sự là một thành công to lớn. Ngay cả những đơn vị cảnh sát quân đội được cử đi để bắt người cuối cùng cũng tham gia cuộc đảo chính. Sự mất niềm tin của quân đội vào chính quyền Chang Myon lúc này đã không thể cứu vãn được nữa, điều này giúp cho Park được nhiều sĩ quan quân đội ủng hộ như một tấm gương dũng cảm. Khi đã kiểm soát được Quân khu 6 Lục quân, ông trao nó lại cho Đại tá Kim Jae-chun để ông này tổ chức các lực lượng tiên phong chiếm Seoul. Sau đó Park đến Tổng cục Lực lượng Đặc nhiệm và Quân chủng Thủy quân lục chiến, ra lệnh cho họ vượt sông Hàn và cướp lấy Nhà Xanh, trung tâm của quyền lực tổng thống. Trước khi đến Tổng cục Lực lượng Đặc nhiệm, Park gửi một bức thư tới Tổng tham mưu trưởng Chang Do-young, nói rõ rằng Chang cũng không thể thoát khỏi trách nhiệm nếu cuộc đảo chính quân sự thất bại. Đây là một động thái chính trị được tính toán kỹ lưỡng nhằm ám chỉ Tổng tham mưu trưởng cũng tham gia đảo chính, và vì thế ông ta sẽ không tiến tới vận động một liên minh chống lại cuộc đảo chính. Mặc dù đã cam kết ủng hộ trước đó, công tác huy động Lực lượng Đặc nhiệm vào ngày tiến hành cũng gặp khó khăn và bị trì hoãn đến một giờ đồng hồ, do đó lực lượng thủy quân lục chiến của Kim Yun-gun trở thành đơn vị đầu tiên vượt sông Hàn vào rạng sáng ngày 16 tháng 5.

Quá trình vượt sông của lực lượng thủy quân lục chiến đã được hỗ trợ bởi sự kiện lữ đoàn pháo binh của thuộc Quân đoàn 6 chiếm được tổng hành dinh quân đội một giờ trước đó và kiểm soát được phần trung tâm thành phố phía bắc sông Hàn. Nhờ đó, lực lượng thủy quân lục chiến và lính nhảy dù của Tổng cục Lực lượng Đặc nhiệm có thể vượt sông từ phía nam với rất ít thương vong. Đã xảy ra một số cuộc đọ súng với các đơn vị cảnh sát quân sự bảo vệ cầu dẫn vào vùng trung tâm nhưng vào 4 giờ 15 phút sáng, liên minh đảo chính đã thành công trong việc chiếm đóng các tòa nhà của ba nhánh chính quyền. Liên minh cũng chiếm được Đài Truyền hình Hàn Quốc và từ đây phát đi bản tuyên ngôn cách mạng đến toàn quốc:

Giới lãnh đạo quân đội từ trước vẫn tránh né xung đột giờ không thể khoanh tay đứng nhìn nên đã hiệp đồng tác chiến vào rạng sáng ngày hôm nay để kiểm soát hoàn toàn ba nhánh chính quyền... và thành lập nên Ủy ban Cách mạng Quân sự... Các lực lượng vũ trang đã thực hiện cuộc nổi dậy này bởi:

• Chúng tôi tin rằng không thể phó thác số phận đất nước và nhân dân cho chế độ [Chang Myon] cũng như các lãnh đạo chính trị tham nhũng bất tài.

• Chúng tôi tin rằng đã đến lúc để [các lực lượng vũ trang] kiến thiết đất nước bởi chúng ta đang đi lầm lối một cách nguy hiểm.

Ủy ban Cách mạng Quân sự sau đó phổ biến cương lĩnh chính trị sáu điều:

• Chống chủ nghĩa cộng sản và tái lập, củng cố tư tưởng chống chủ nghĩa cộng sản vốn chỉ được rao giảng suông từ trước đến nay.

• Tôn trọng Hiến chương Liên Hợp Quốc, tuân thủ tuyệt đối các quy định quốc tế, củng cố quan hệ với Hoa Kỳ và các đồng minh khác trong Thế giới Tự do.

• Loại bỏ tham nhũng và các cái xấu dồn tích trong xã hội, lan truyền các nguyên tắc đạo đức và tinh thần dân tộc đến nhân dân, khuyến khích quan điểm mới và lành mạnh.

• Khẩn trương giải quyết tình cảnh khốn cùng của quần chúng, những người đang trong tình trạng tuyệt vọng và tập trung xây dựng nền kinh tế quốc dân độc lập.

• Nâng cao năng lực đất nước để hợp nhất dân tộc, đạt được mục tiêu thống nhất của toàn thể người dân Triều Tiên.

• Chuyển giao quyền lực cho [những thế hệ] lãnh đạo chính trị có lương tâm mới ngay sau khi hoàn thành sứ mệnh của Ủy ban và trở lại nhiệm vụ [quân sự] ban đầu.

Tuyên bố này đã được đưa ra trên danh nghĩa của Trung tướng Chang Do-young, người được giới thiệu là chủ tịch Ủy ban Cách mạng Quân sự, tuy nhiên điều này chưa được ông đồng ý.

Các lãnh đạo đảo chính đã chiến thắng khi chiếm đóng Seoul ngày 16 tháng 5 năm 1961. Tuy vậy, quá trình củng cố quyền lực và ổn định chính quyền quân sự còn rất lâu mới hoàn thành. Quân đội cách mạng còn đến bốn khó khăn nữa phải vượt qua trước khi có thể tuyên bố thành công. Thứ nhất, Tổng thống Yun Po-sun phải công nhận cuộc đảo chính là một việc đã rồi và phải phó thác trách nhiệm quản lý đất nước cho Ủy ban Cách mạng Quân sự. Với vai trò là người đứng đầu đất nước, sự từ nhiệm của ông ta nhằm chống lại quân đội có thể gây ra một cuộc khủng hoảng trong quan hệ quốc tế. Thứ hai, Đại tướng Carter B. Magruder, [23] Tư lệnh của Quân đội Mỹ ở Hàn Quốc và của Bộ Chỉ huy Lực lượng giám sát hiệp định đình chiến hai miền Triều Tiên của Liên Hợp Quốc (UNC), người có quyền chỉ huy tác chiến toàn bộ quân đội Hàn Quốc, phải chấp nhận tình thế không thể đảo ngược của cuộc đảo chính. Nếu không, các đối thủ tiềm tàng của Park trong giới lãnh đạo quân đội có thể bị thôi thúc chống lại tuyên bố nắm chính quyền của ông. Thứ ba, sau khi chiếm đóng Seoul ngày 16 tháng 5, Trung tướng Yi Han-lim, đồng môn cùng lớp với Park ở Trường Sĩ quan Tân Kinh Mãn Châu và Học viện Quân đội Hoàng gia Nhật Bản đồng thời là Tư lệnh Tập đoàn quân 1 đang đóng ở tiền tuyến, đã đe dọa sẽ chống lại cuộc đảo chính mặc cho 20 sư đoàn chiến đấu vũ trang hạng nặng đã về phe liên minh. Thứ tư, Park phải đánh bại các đối thủ tiềm ẩn và công khai trong nội bộ chính quyền quân sự, đặc biệt là Chang Do-young, để biến chính quyền này thành một tổ chức chỉ trung thành với ông.

Dưới chế độ chính phủ nghị viện thành lập sau cuộc Cách mạng của Sinh viên 19 tháng 4, Chang Myon là Tổng tư lệnh của các lực lượng vũ trang Hàn Quốc. Thay vì chống lại lực lượng đảo chính vào ngày 16 tháng 5 quyết định, Chang Myon lại chạy trốn đến một tu viện Thiên chúa giáo khi biết tin cuộc đảo chính nổ ra, khiến cho chính quyền mất cơ hội đàn áp Park trong thời điểm ông dễ bị đánh bại nhất. Tổng thống Yun Po-sun, [24] một nhà lãnh đạo của Phái Cũ và là đối thủ lâu năm của Chang Myon ở Phái Mới, đã công nhận cuộc đảo chính và quyết định tiếp tục lãnh đạo đất nước. Với việc tiếp tục giữ vị trí tổng thống, Yun Po-sun không chỉ hợp pháp hóa cuộc đảo chính quân sự mà còn trả đũa kẻ thù cũ. Không hề có bằng chứng nào cho thấy ủy ban cách mạng tổ chức đảo chính đã kỳ vọng rằng mối thù sâu sắc giữa Yun Po-sun và Chang Myon tạo điều kiện cho họ đập tan sự chống đối dân sự, tuy nhiên chính sự chia rẽ này trong giới lãnh đạo chính trị dân sự đã nhanh chóng làm cán cân quyền lực nghiêng về phía tổ chức đảo chính.

Park cũng rất nhanh chóng triệt phá các lực lượng chống đảo chính tiềm tàng từ bên trong quân đội. Sau khi nghe tin đảo chính, Tư lệnh Yi Han-lim của Tập đoàn quân 1, đặt căn cứ ở Wonju, ra lệnh cho Quân đoàn 1 Dự bị của Tập đoàn quân 1 chuẩn bị trấn áp cuộc đảo chính. Yi Han-lim cuối cùng đã phải thu hồi quân lệnh vì việc huy động Quân đoàn 1 Dự bị có thể bỏ trốn