Giới thiệu MỘT BÀI HỌC LỊCH SỬ CHÍNH TRỊ
- Kim Byung-kook -
Hiếm có một giai đoạn nào có thể thay đổi lịch sử Hàn Quốc mạnh mẽ hơn kỷ nguyên của Park, khởi đầu vào tháng 5 năm 1961 từ một cuộc đảo chính quân sự. Bản năng lãnh đạo; các đảng phái chính trị và sự đối đầu chính trị; bộ máy quan liêu; các lực lượng vũ trang; mối quan hệ giữa công nhân, nông dân và chính phủ; các tập đoàn công nghiệp chaebol; chính sách ngoại giao - tất cả đều đã chuyển mình. Trong khi đó, về phương diện kinh tế, Hàn Quốc đã vươn ra khỏi đói nghèo để trở thành một cường quốc công nghiệp chỉ trong vòng một thế hệ dù phải gánh chịu những thiệt hại chính trị, xã hội và kinh tế nặng nề. Và khi kỷ nguyên đó đột ngột chấm dứt vào năm 1979, những phản ứng tiếp sau đó đã lại biến đổi dân tộc này thêm một lần nữa.
Kỷ nguyên 18 năm của Park nếu không phải là đề tài gây tranh cãi mạnh mẽ nhất thì cũng nằm trong số những đề tài được bàn luận nhiều trong xã hội, giữa các chính trị gia cũng như các học giả Hàn Quốc trong nước và quốc tế. Giai đoạn cất cánh kinh tế đó đã được thúc đẩy như thế nào từ những thay đổi trong cơ cấu chính trị và xã hội? Park Chung Hee có đóng góp cá nhân như thế nào với sự trỗi dậy - cả về chính trị và kinh tế - trên nhiều lĩnh vực? Tại sao chế độ chính trị Hàn Quốc tiến dần đến chủ nghĩa chuyên chế “cứng” trong khi nền kinh tế lại hiện đại hóa với tốc độ cực kỳ cao? Mối liên hệ giữa những thay đổi này liệu có phải chỉ là ngẫu nhiên? Vì sao kỷ nguyên của ông được ghi dấu bằng các thành tựu chính sách ấn tượng nhưng cũng có cả những sai lầm nghiêm trọng? Những thành công và thất bại của Hàn Quốc được giải thích như thế nào từ những điều kiện lịch sử trong quá khứ? Là một trong số ít những nước công nghiệp mới (NICs) đầu tiên đã thành công trong lĩnh vực kinh tế lẫn quân sự khi bắt kịp các nước phát triển với việc xây dựng một hệ thống phòng thủ - dù phải trả giá rất đắt, Hàn Quốc cho thấy một bài học quan trọng để có thể hiểu được vị thế của chính trị trong công cuộc hiện đại hóa.
Cuốn sách này đề cập đến giai đoạn dang phát triển của Hàn Quốc, tuy nhiên nó khác biệt với những công trình nghiên cứu khác về giai đoạn đất nước hồi sinh sau năm 1961 ở trọng tâm phân tích chuyên sâu vào lịch sử chính trị. Chúng tôi chọn lịch sử chính trị vì ba nguyên nhân. Thứ nhất, mặc dù các chỉ báo vĩ mô của Hàn Quốc cho thấy đất nước này đang tiếp tục trải qua giai đoạn chuyển đổi công nghiệp vô cùng ấn tượng nhưng quỹ đạo của quá trình hiện đại hóa này không hề ổn định. Các chỉ báo vĩ mô đã che đậy một cảm giác sâu bên trong về sự bất an và yếu ớt đang lan tràn khắp Hàn Quốc. Chiến lược tài trợ cho tăng trưởng theo kiểu lợi nhuận cao-rủi ro cao bằng những khoản cho vay chính sách được phân bổ một cách quan liêu đã đè nặng lên các ngân hàng với các khoản nợ không thanh toán được. Từ đó, nền kinh tế bị mắc kẹt vào vòng luẩn quẩn bùng-vỡ, đồng thời đặt ra trước lãnh đạo đất nước Hàn Quốc các lựa chọn chính sách khó khăn trong những năm 1972 và 1979. Những thay đổi bất thường trong chiến lược mang tầm toàn cầu, khu vực và bán đảo của nước đồng minh Mỹ đã làm xấu đi hoặc cải thiện các bế tắc an ninh của Hàn Quốc vào những năm 1961, 1964, 1969 và 1976. Những biến động này thúc đẩy các nhà hoạch định chính sách phải đánh giá lại những ưu tiên ngân sách giữa các chương trình quân sự và kinh tế cạnh tranh lẫn nhau. Quan trọng hơn cả, Park Chung Hee ban đầu tưởng như đã rời khỏi chính quyền trong năm 1971 nhưng việc sửa đổi hiến pháp lại cho phép ông bắt đầu một nhiệm kỳ thứ ba vào năm 1975. Việc ông có sửa đổi hiến pháp hay không tác động mạnh mẽ đến bản chất của chính quyền Hàn Quốc và từ đó ảnh hưởng đến chiến lược hiện đại hóa của nước này. Lựa chọn được đưa ra ở mỗi thời điểm quan trọng quyết định đến đường lối phát triển kinh tế tiếp theo của Hàn Quốc đều bị ảnh hưởng nặng nề bởi chính trị.
Thứ hai, chúng tôi tập trung vào lịch sử chính trị bởi tại nhiều thời khắc quan trọng cho phép Hàn Quốc đạt được thành công trong xây dựng nhà nước, cải thiện an ninh quân sự và tạo lập thị trường nhằm đặt nền móng cho triển vọng siêu tăng trưởng, thì giải pháp cho các vấn đề và khó khăn chỉ có thể xuất phát từ những nỗ lực của giới cầm quyền cấp cao để giải quyết ổn thỏa các đòi hỏi đối nghịch về địa chính trị, địa kinh tế và chính trị trong nước. Để lý giải được sự tái sắp xếp quyền lực ở Hàn Quốc giữa các bộ ngành nhà nước tách xa Bộ Tài chính (MoF) bảo thủ trong các năm 1962,1965 và 1973, hoặc hướng về MoF trong các năm 1969,1972 và 1979, chúng ta phải tìm hiểu cách các lãnh đạo chính trị đã điều khiển các quan chức nhà nước. Các bộ ngành nhà nước này nếu bị đặt riêng rẽ thì chỉ có thể dẫn đến bế tắc giữa các nhóm lợi ích hoặc một sự cải thiện lợi ích chậm chạp. [1]* Để lý giải hành vi ưa thích rủi ro của các tập đoàn chaebol chúng ta phải tìm hiểu những loại động lực nào đã thúc đẩy họ sử dụng rủi ro như một chiến lược sáng suốt theo quan điểm của họ và tại sao những động lực đó lại được chào mời trước mặt họ. Những nghiên cứu như thế đòi hỏi một cuộc phân tích về các mục tiêu, toan tính và chiến lược chính trị của Park Chung Hee cùng các cộng sự hàng đầu của ông.
Vị trí trung tâm của chính trị thậm chí còn biểu hiện rõ rệt hơn trong lĩnh vực xã hội và chính trị. Để giải thích hành vi lắt léo của các nông dân giữa việc chọn “thân Park” và “bài Park” vào các năm 1963, 1967, 1971 và 1978, chúng ta phải phân tích chiến lược hiện đại hóa không kém phần lắt léo của Park giữa Cách mạng Xanh và cưỡng bức nông nghiệp, sự chuyển đổi các cơ quan nhà nước ở nông thôn thành một cỗ máy chính trị, và nhận thức của ông về những cảm tình chính trị mang tính cục bộ đang lan truyền ở mọi ngóc ngách của Hàn Quốc. Cũng như vậy, để lý giải tại sao người lao động thất bại khi chống đối chiến lược tăng trưởng thẩm thấu cần có một cuộc phân tích công tác tái tổ chức theo hướng từ trên xuống của các liên đoàn lao động vào năm 1961 cũng như sự khủng bố dã man và dai dẳng Park dành cho những nhà hoạt động chaeya bất đồng chính kiến và điều này đã ngăn cản lực lượng cánh tả thành lập được một nền tảng ủng hộ vững chắc trong xã hội. Quyết định bình thường hóa quan hệ với Nhật Bản và cử lực lượng lính chiến đấu đến miền Nam Việt Nam năm 1965 nhằm đảm bảo nguồn vốn khởi sự cho các dự án công nghiệp chiến lược cũng là một hành động chính trị chấp nhận rủi ro.
Thứ ba, chúng tôi tìm lại về lịch sử chính trị bởi các lý thuyết kinh tế cũng như các nghiên cứu phát triển nhà nước đều kém hiệu quả khi lý giải các động lực phía sau được cho là kết quả của các quyết định chính sách của Park. Ban đầu, nhiều lựa chọn chính sách của ông mâu thuẫn trực tiếp với các tư tưởng kinh tế phổ biến. Đối phó với sự suy giảm tốc độ tăng trưởng trong các năm 1969, 1972, 1974 và 1979, Hàn Quốc đã lựa chọn những biện pháp phi chính thống để nhanh chóng giải tỏa các áp lực lạm phát như việc áp dụng liệu pháp sốc vào xã hội - tăng mạnh lãi suất, giãn nợ, “hợp lý hóa công nghiệp”, phá giá tiền tệ, cắt giảm lương, và trong năm 1972 đã đóng băng luôn khoản thanh toán của các khoản cho vay trên sa-chae (thị trường chứng khoán phi chính thức) tư nhân, nhưng vào những lúc đó việc giải tỏa các áp lực thị trường chỉ là cơ sở cho một đợt kích thích mạnh mẽ khác với những gói tín dụng ngân hàng được chính phủ hỗ trợ để tài trợ cho một giai đoạn siêu tăng trưởng mới. Nỗi ám ảnh về tăng trưởng kinh tế và về năng lực thực hiện các liệu pháp sốc của giới lãnh đạo - mặc cho các rủi ro chính trị vì hiểm họa kinh tế - chỉ có thể được hiểu khi phân tích tầm nhìn của Park về pu-kuk kang-byeong (nước giàu, quân mạnh) và chiến lược của ông để nâng cao áp lực cấu trúc nhằm vươn đến tầm nhìn này và thông qua đó thỏa mãn khát khao quyền lực của ông.
Dĩ nhiên, dùng lịch sử chính trị không nhất thiết là chúng tôi phải bỏ qua những nỗ lực xây dựng lý thuyết. Ngược lại, các lý thuyết cho phép chúng tôi xác định những bài toán và vấn đề lịch sử thực tế cần phân tích cũng như vạch ra hướng đi cho nghiên cứu này. Tuy nhiên, thật sự đã có nhiều điều phức tạp, không rõ ràng và không chắc chắn trên lộ trình lịch sử hiện đại hóa của Hàn Quốc đã bị bỏ sót ở những nỗ lực xây dựng lý thuyết trước đây. Các chương trong cuốn sách này khôi phục những câu chuyện bị thất lạc đó và từ đó cho chúng tôi cơ hội đánh giá những điểm mạnh và điểm yếu trong các quan điểm thịnh hành cũng như tìm ra các phương pháp cải tiến những tư tưởng này. Đặt các lý thuyết vào hoàn cảnh của lịch sử chính trị, các chương sách cùng thống nhất về ba điểm được phân tích.
Thứ nhất, các nhân vật chính trị của Hàn Quốc không thể được phân loại theo phương pháp thông thường, họ vượt ra ngoài những định nghĩa nhị nguyên trong các lý thuyết hiện hành. Các chương sách lập luận rằng, để hiểu được vai trò của các nhân vật này trong chính trị hiện đại hóa, chúng ta phải thường xuyên dung hòa những yếu tố mà ngay từ đầu đã được các lý thuyết khái niệm hóa là đối lập lẫn nhau. Nhà nước bóc lột nhưng cũng cai trị theo khoa học (kỹ trị). Chaebol nhận được những đặc ân vì là “thân hữu” của Park và liên minh cầm quyền, nhưng với tâm huyết và năng lực kinh doanh, họ cũng tiên phong trong các ngành công nghiệp tăng trưởng mới với những rủi ro vô cùng lớn. Quân đội bị chính trị hóa để bảo vệ cho vị thủ lĩnh chính trị của họ trong khủng hoảng, nhưng cũng là một lực lượng được chuyên nghiệp hóa đã bảo vệ đất nước thành công trước sự xâm lược của Bình Nhưỡng. Cả những đảng phái chính trị cầm quyền cũng như đảng phái chống đối đều bị chia rẽ nội bộ bởi những đấu tranh phe phái và bên ngoài thì bị hạn chế bởi hoạt động giám sát chính trị, tuy nhiên những đấu tranh để kế nhiệm của họ đã làm giảm đi đáng kể các lựa chọn chính trị cho Park. Chaeya bất đồng chính kiến dù yếu ớt trong công tác tổ chức nhưng hay tranh cãi - và đôi khi còn có thể tái định hướng những chương trình nghị sự quốc gia. Chính quyền của Park kiêu hãnh về tính kiên cường và chỉ bị lung lay bởi những chống đối chính trị tự phát từ bên dưới và đã đáp trả bằng cách trấn áp mạnh dần. Nước Mỹ “bá chủ” thường không thể buộc Hàn Quốc yếu thế phải khuất phục khi lợi ích của hai nước trở nên bất đồng. Thậm chí cả trong lĩnh vực an ninh, chính sách phòng vệ của Mỹ cũng phải phục vụ đồng thời cả hai mục đích chính trị, một chống lại hiểm họa chiến tranh từ Bình Nhưỡng và một chống lại đòi hỏi trả đũa của Hàn Quốc đối với những cuộc tấn công đột kích từ Bắc Hàn hoặc chống lại những tham vọng hạt nhân của Park. Các chương của cuốn sách này đòi hỏi chúng tôi phải hình dung về các chủ thể ở giữa những khái niệm đối nghịch của nhà nước bóc lột và nhà nước kỹ trị, các lực lượng vũ trang bị chính trị hóa và được chuyên nghiệp hóa, các đảng phái chính trị yếu và mạnh, các chính quyền kiên cường và chia rẽ, các cường quốc thống trị và phụ thuộc.
Thứ hai, nhiều biến số được xác định là những động cơ thúc đẩy chính cho sự nghiệp hiện đại hóa của Hàn Quốc - từ “nhà nước phát triển theo kiểu Weber” cho đến “những mạng lưới” nhà nước-doanh nghiệp, “các giá trị Á Đông”, chính sách viện trợ Mỹ và cả sự lãnh đạo của Park Chung Hee - là những chủ thể liên tục phát triển với nhiều yếu tố được tạo ra bên trong chúng, nuôi dưỡng và/hoặc được tái điều chỉnh như một phần của những học hỏi chính sách và thử nghiệm thể chế trong giai đoạn cầm quyền của Park. Các thể chế, theo mô tả của các lý thuyết gia về nhà nước phát triển và mạng lưới, là một sản phẩm hoàn thiện đã lý tưởng hóa sau 18 năm cầm quyền chính trị của Park chứ không phải là trạng thái thực tế của các quan hệ chính trị hay kinh tế vào bất cứ thời điểm nào trong kỷ nguyên của ông. Nhà nước phát triển “theo kiểu Weber”, chaeya “cấp tiến”, quân đội “hiện đại”, các đảng phái chính trị “cục bộ”, các lực lượng lao động “tranh đấu cho ý thức hệ” và “nhà nước quân đội” chuyên chế mà chúng tôi được thấy trong các lý thuyết hiện thời về chính trị hiện đại hóa của Hàn Quốc dường như là những sản phẩm từ sự cầm quyền chính trị của Park hơn là một tập hợp cơ cấu thúc đẩy hay hạn chế ông trong vai trò người đổi mới ở phần lớn thời gian trong kỷ nguyên phát triển này. Các chương trong cuốn sách thúc đẩy chúng tôi xem xét những nhân tố này như đang tồn tại trong mối tương quan cùng phát triển, không ngừng tái định hướng lẫn nhau ở vai trò, đặc điểm và chiến lược chính trị thông qua những tác động và những phản hồi của chúng.
Thứ ba, như là một hệ quả từ quan điểm cách mạng của chúng tôi, các chương sách cho thấy những ý định dường như phức tạp hơn, các lựa chọn có vẻ đa dạng hơn, và các kết quả ít chắc chắn hơn so với những gì đã được bàn luận bởi các lý thuyết gia khác. Nhiều quyết định của Park ở những thời khắc quan trọng trong lộ trình hiện đại hóa Hàn Quốc có lẽ đã rất khác khi biết được những chi phí chắc chắn và các lợi ích bất định. Ông không hề ra quyết định một cách thiếu suy xét. Ngược lại, Park luôn biết những chi phí chính trị, các khó khăn kinh tế và rủi ro chính sách ngoại giao, tuy nhiên ông cũng đi đến cùng với nhiều quyết định nhân danh pu-kuk kang-byeong và dẫn đến nhiều kết quả khác biệt. Người đổi mới [Park Chung Hee] đã đưa Hàn Quốc vào con đường siêu tăng trưởng vào năm 1965 và giữ đất nước trên con đường này trong suốt những cuộc khủng hoảng kinh tế 1969, 1972 và 1974 bằng cách kết hợp những liệu pháp sốc và các gói cứu trợ. Tuy nhiên, trong năm cuối cầm quyền, Park lại nhận ra cỗ máy tăng trưởng của ông đang trở nên tê liệt dưới sức nặng của các xung đột nội bộ. Ông đã giải quyết ổn thỏa những cuộc khủng hoảng chính trị năm 1965, 1969, ĩ972 và 1975 bằng cách kết hợp những lời đe dọa và sự nhân nhượng, tuy nhiên vào năm 1979, Park dường như đã trở thành một con người khác, ông không còn kết hợp cà rốt với cây gậy [2] trong những thỏa thuận với phe chống đối và làm tồi tệ thêm tình trạng bất ổn của chính quyền. Tương tự, Park đã khéo léo đưa Mỹ và Nhật Bản vào một liên minh đa quốc gia ủng hộ chương trình phát triển kinh tế và xây dựng quân đội năm 1965 bằng cách bình thường hóa quan hệ với Nhật Bản và gửi binh lính đến miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên sau Học thuyết Guam [3] của Richard M. Nixon vào năm 1969, những cố gắng của ông nhằm làm chậm tốc độ, hoặc nhằm đảo ngược, việc rút quân của Mỹ chỉ làm tổn hại đến lợi ích quốc gia, chế độ và cá nhân ông khi dẫn đến một cuộc khủng hoảng chính sách ngoại giao ba hậu quả gồm các vi phạm nhân quyền, “Koreagate” và sự rút quân của Mỹ. Những kết quả khác biệt này trong chiến lược xây dựng nhà nước, tạo lập thị trường và giữ gìn an ninh quân sự đã thúc đẩy chúng tôi đặt Park và những ý đồ của ông vào trung tâm của cuộc phân tích.
Chế độ chính trị
Xây dựng phương pháp phân loại cho các chế độ chính trị, một nhiệm vụ trọng tâm trong nghiên cứu khoa học chính trị, ban đầu trông có vẻ đơn giản. Hàn Quốc dưới thời Park Chung Hee cho thấy những đặc điểm của loại chính quyền đã từng được Juan J. Linz xác định là chính quyền chuyên chế: “[một] hệ thống chính trị có sự đa nguyên chính trị ít ỏi, vô trách nhiệm; không có ý thức hệ đủ tầm vóc và mang tính định hướng (nhưng lại có những khả năng tư duy đặc biệt); không có quá trình vận động chính trị sâu và rộng (ngoại trừ [ở] một số thời điểm trong quá trình phát triển); và trong chế độ đó cá nhân lãnh đạo (hoặc thỉnh thoảng là một nhóm nhỏ) sẽ sử dụng quyền lực trong những giới hạn mơ hồ nhưng thực tế là hầu hết có thể lường trước được.”
Với định nghĩa này thì thời kỳ phát triển của Hàn Quốc đã hội đủ điều kiện của giai đoạn cầm quyền chuyên chế. Thậm chí trước khi Park áp dụng bản hiến pháp yushin (tái thiết) của ông vào năm 1972 nhằm kéo dài thời gian cầm quyền đến vô hạn, các nhánh lập pháp và tư pháp của Hàn Quốc đã có rất ít quyền hiến định để đảm bảo đa nguyên chính trị; các đảng và phe phái chính trị không chỉ thiếu tầm nhìn và các chương trình hành động mà còn thiếu cả những tổ chức cơ sở chặt chẽ để gây dựng phong trào; các nhà hoạt động bất đồng chính kiến (chaeya), những người tổ chức lao động và các lãnh đạo ở nông thôn thì đang phải đấu tranh để lập lại trật tự trên “sân nhà” của họ trong phần lớn giai đoạn cầm quyền của ông sau khi trật tự ấy bị phá tan dưới thời chính quyền quân sự (1961-1963). Hơn nữa, như trình bày của Park về “Tổ quốc”, “sự hiện đại hóa”, “bắt kịp”, tinh thần “quyết chí ắt làm nên”, và “nền dân chủ hành chính” cho thấy, Đệ tam Cộng hòa của ông (1963-1972) mang những chuẩn mực và giá trị tuy được trình bày thiếu tính hệ thống nhưng chính là đặc trưng của nền chuyên chế, những chuẩn mực và giá trị này cho phép xã hội thấu hiểu được những gì ông đại diện và những gì ông chống đối dù không trọn vẹn và rõ ràng.
Như Kim Byung-kook phân tích ở Chương 5, Park - ở đỉnh cao của một “cơ cấu quyền lực thể chế hai mũi nhọn”, với những đặc vụ tình báo lo cho các lợi ích chính trị của ông và các nhà hoạch định kinh tế tổ chức hoạt động điều phối giữa nhiều bộ ngành - đã thiết lập chương trình nghị sự quốc gia, đề ra các chiến lược và tổ chức những cơ chế mang tính thể chế bỏ qua sự kiểm soát và cân bằng không chỉ từ các nhánh lập pháp, tư pháp, nhà hoạt động chaeya, nhà tổ chức lao động và nông dân mà còn bỏ qua lực lượng bên trong nhánh hành pháp của Hàn Quốc. Bộ phận an ninh cưỡng chế của chính quyền bị điều khiển bởi “chiến lược chia để trị”, theo trích dẫn của Joo Hong Kim (Chương 6), ngược lại, bộ máy quan liêu kinh tế bị biến thành một công cụ cho các mục tiêu và chiến lược của Park dưới hình thức chỉ định “thân phúc” (punsin) của ông lãnh đạo các cơ quan tiên phong chịu trách nhiệm vận động phong trào cho cái mà Kim Byung-kook trong Chương 7 gọi là các bộ ngành nhà nước “được duy lý hóa nhưng vẫn mang tính kế thừa”. Theo tinh thần tương tự, Im Hyug Bage nhìn nhận Park là vị “quân vương” phiên bản Hàn Quốc của Niccolo Machiavelli, là người đã biến những cuộc khủng hoảng cấu trúc thành một cơ hội cho yushin vào năm 1972 bằng cách sử dụng những nguồn lực chính trị khổng lồ của ông. Việc tổ chức ỵushin được đưa ra như một quyết định của ông, áp đặt lên đảng chính trị cầm quyền cũng như các đảng đối trọng như một sự đã rồi.
Dù vậy có thể thấy rõ rằng sự nắm giữ quyền lực chính trị của Park đã yếu hơn rất nhiều vào thời ông lập nên chính quyền quân sự và vào những năm cuối của yushin (1978-1979). Như Han Yong-sup thuật lại trong Chương 1, Park là một bậc thầy nhưng cũng đồng thời là tù nhân của những đấu tranh quyền lực đang đè nặng lên chính quyền quân sự của ông, chính quyền đó liên tục bị xé nhỏ thành nhiều phe phái theo thế hệ, địa phương và trường đào tạo bởi các lực lượng quân đội. Như Kim Hyung-a mô tả trong Chương 3, Park vì cẩn trọng trước các đối thủ quân sự nên đã bắt đầu áp dụng liệu pháp sốc chính trị và kinh tế vào tháng 5 năm 1961, tháng 6 năm 1962 và tháng 3 năm 1963 nhằm bảo vệ quyền lực của ông, dẫn đến các hậu quả thảm khốc cho khả năng phát triển của bộ máy quan liêu nhà nước. Vòng luẩn quẩn đấu tranh chính trị và liệu pháp sốc chỉ kết thúc sau khi Park loại bỏ những đối thủ cuối cùng của ông vào tháng 3 năm 1963 và quan trọng hơn, khi ông chiến thắng trong cuộc đua nghiêm túc giành vị trí tổng thống vào tháng 10. Mức độ nắm giữ quyền lực chính trị của ông bắt đầu suy giảm - nhưng chỉ sau năm 1978, khi Đảng Dân chủ Mới (NDP) của Yi Cheol-seung đánh bại Park trong các cuộc bầu cử Nghị viện Quốc gia. Một sự chia rẽ chết người đã hình thành giữa “nhóm chính sách mềm” thuộc Cơ quan Tình báo Trung ương Hàn Quốc (KCIA) của Kim Chae-gyu và “nhóm chính sách cứng” thuộc Văn phòng An ninh Tổng thống của Cha Ji-cheol về vấn đề thương lượng như thế nào với các lãnh đạo đối trọng liều lĩnh của NDP, đây là điều mà Joo Hong Kim ở Chương 6 và Park Myung-lim ở Chương 13 xem như lời giải thích cho cái chết của Park Chung Hee vào tháng 10 năm 1979.
Tuy nhiên, chính những tiến trình này đã cho thấy những giao động trong khả năng nắm giữ quyền lực của Park chứ không phải những đặc điểm chuyên chế trong chính quyền của ông. Khả năng kiểm soát những mục tiêu chính trị, các chương trình nghị sự và các chiến lược cũng như khả năng phòng ngừa những hậu quả tiêu cực từ các quyết định của ông biến động tùy thuộc vào các cấu trúc quyền lực và các cuộc đấu tranh bè phái bên trong nhóm ảnh hưởng của ông. Tuy nhiên, bất kể có sự gia tăng hay giảm sút nào trong khả năng nắm giữ quyền lực đi nữa, chế độ chính trị do Park lãnh đạo luôn là chuyên chế trong suốt 18 năm cầm quyền. Mặc dù vậy, có hai vấn đề với khái niệm của Linz về chủ nghĩa chuyên chế.
Đầu tiên, vấn đề đặt ra là sự tồn tại hoặc thiếu vắng các cuộc bầu cử có tác động theo những cách rõ ràng đến các động lực của chính quyền kể cả trong một bối cảnh chuyên chế hay không, do đó nhân tố này cần phải được xem là một tiêu chí quan trọng trong phương pháp phân loại chế độ chính trị của chúng tôi cho dù các cuộc bầu cử này có phải là một cuộc cạnh tranh công bằng vì quyền lực hay không. Mối tương quan giữa các cuộc bầu cử và các chế độ chính trị là một vấn đề vì Đệ tam Cộng Hòa của Park (1963-1972) cho thấy nhiều đặc điểm của chủ nghĩa chuyên chế theo Linz nhưng nó vẫn tổ chức đều đặn các cuộc tranh cử tổng thống, dù chỉ là loại bầu cử đa phương hạn hẹp bị làm xói mòn bởi nền chính trị đồng tiền được tổ chức theo mô hình quan liêu và bởi nỗi sợ về một phong trào McCarthy Đỏ, [4] trước khi một hệ thống bầu cử tổng thống gián tiếp được lựa chọn vào năm 1972 để đảm bảo sự cai trị suốt đời. Sự tồn tại của các cuộc bầu cử, cho dù chúng chưa hoàn hảo trong vai trò cơ chế đại diện chính trị và chịu trách nhiệm chính trị, nhưng được cho là đã giúp Park hợp pháp hóa chính quyền Đệ tam Cộng Hòa chuyên chế của ông. Chính trị bầu cử dù với bản chất phi tự do và hạn chế nhưng vẫn có những cơ quan tham vấn sẵn sàng bổ trợ cho nó, như các bộ phận lập pháp, các đảng phái chính trị và những nhóm lợi ích doanh nghiệp, để giúp đỡ những kẻ cai trị chuyên chế giống Park.
Hyug Bae Im nhìn nhận việc loại bỏ cuộc tranh cử tuy hạn chế nhưng vẫn có tính cạnh tranh trong năm 1972 bằng việc bắt đầu thi hành chế độ yushin là một quyết định quan trọng tột bậc mà vì bản chất đã thay đổi các động lực của chính quyền. Nhận thấy phương pháp phân loại chung chung của Linz về chủ nghĩa chuyên chế là quá hạn chế, Im nhận định đa phần các nhiệm kỳ tổng thống đắc cử trực tiếp của Park (1963-1971) là “chủ nghĩa chuyên chế mềm” và giai đoạn trị vì sau đó là “nhà nước quân đội”. Kim Byung-kook lập luận trong Chương 5 rằng khi tính chính danh của ông bị suy yếu bởi chính hành động “đảo chính cung đình” [5] của mình, Park đã cai trị trực tiếp thông qua những cận vệ cấp cao thay vì cai trị gián tiếp thông qua một nhóm các thủ lĩnh độc lập trong đảng. Một thay đổi như vậy bên trong chế độ chuyên chế của Park cũng đã chuyển đổi toàn xã hội. Như Park Myung-lim mô tả, các nhà hoạt động chaeya đã cấp tiến thành một lực lượng pan-chae-je (phản hệ thống) và các lãnh đạo đảng phái đối trọng đã đồng thời trở nên “không khoan nhượng” với việc Park tăng cường sử dụng biện pháp đàn áp. Gregory W. Noble ở Chương 19 cũng báo cáo rằng khi thực thi yushin, Hàn Quốc đã chọn con đường hiện đại hóa công nghiệp khác với Đài Loan. Trước đây, hai nước đã chọn những con đường tương tự nhau với những yêu cầu chung về nguồn vốn và kỹ thuật được quyết định bởi lĩnh vực công nghiệp. Khi đã thiết lập nhà nước quân đội, Park có thể tạm thời vượt qua những hạn chế trong lĩnh vực để chú tâm vào những dự án kinh tế chưa bao giờ tham vọng hơn với hy vọng sẽ chính danh hóa sự cai trị cũng như tăng cường quyền lực của mình.
Do vậy khái niệm của Linz cần phải được bổ trợ bằng một phương pháp phân loại các chế độ chuyên chế nếu phương pháp đó có thể giúp làm rõ vai trò của các chế độ đó trong chính trị hiện đại hóa. Như Dominguez lập luận một cách thuyết phục, có rất nhiều cách để thiết kế các thể chế chính trị của chế độ chuyên chế. Hơn nữa, những lựa chọn thể chế được gắn kết với nhau như thế nào có ảnh hưởng to lớn đến trật tự chính trị và sự ổn định xã hội khi chúng ảnh hưởng đến năng lực kiểm soát, đồng thuận và đàn áp chính trị của chính phủ. Trong nỗ lực phân biệt các chế độ chuyên chế theo những thiết kế thể chế nội bộ khác biệt, một số người đã phân ra thành các chế độ chuyên chế “mềm” với “cứng”, ngược lại những người khác lại phân loại các đặc trưng khác nhau của các chế độ thành bóc lột so với kỹ trị, chính trị so với kỹ thuật, hoặc nhà nước nghiệp đoàn so với nhà nước nhất nguyên. Tuy nhiên, những cách phân loại nhị nguyên như vậy sẽ bỏ sót nhiều điều chưa rõ ràng ở các chính quyền chuyên chế hiện hữu, đặc biệt đối với những chế độ đã chứng tỏ được sự ổn định chính trị và hiện đại hóa kinh tế xã hội như thường thấy trong sự trị vì Park Chung Hee. Điều này là không thể khác được bởi thành quả sẽ đến từ việc khéo léo kết hợp những khái niệm tưởng chừng như đối nghịch và không thể dung hòa. Như Joel D. Aberbach, Rober D. Putnam và Bert A. Rockman, khi tìm kiếm khái niệm kết hợp cho các vai trò dường như đối chọi này, đã đề cập đến “những lai tạo thuần chủng” dẫn dắt quá trình quan liêu hóa của chính trị và chính trị hóa hệ thống quan liêu ở các nền dân chủ phương Tây, Roderic Ai Camp đã có lần nói về “những nhà kỹ trị chính trị” để miêu tả lớp quý tộc cai trị lai tạo mới của Mexico.
Các chương của cuốn sách đều có một nhận định chung về chế độ chính trị của Park Chung Hee, miêu tả Văn phòng Nhà Xanh là cơ quan ngự trên hai giới lãnh đạo mũi nhọn tuy đối nghịch nhưng lại bổ sung chức năng lẫn nhau gồm các quan chức kinh tế và các cận vệ cấp cao quân sự (xem Chương 5), vai trò của bộ máy nhà nước kinh tế nằm ở giữa mức bóc lột và kỹ trị (Chương 7), đảng chính trị cầm quyền được tổ chức tập trung hóa cao độ nhưng cũng có các lực ly tâm mạnh tiềm ẩn của chủ nghĩa bè phái (Chương 5, 6 và 8), giới quý tộc quyền lực sử dụng nhiều lãnh đạo từ bộ máy quan liêu nhà nước quân sự và dân sự chuyên nghiệp nhưng vẫn mang tính kế thừa của Hàn Quốc (Chương 6 và 7) và cơ chế hoạch định chính sách với những đặc trưng của cả “thể chế hóa và cá nhân hóa”, theo Chương 18 của Paul D. Hutcheroft. Nói cách khác, để giải thích như thế nào và vì sao Hàn Quốc lại thay đổi rõ rệt lộ trình hiện đại hóa sau năm 1961, chúng tôi phải vượt ra ngoài khái niệm của Linz về các chính quyền chuyên chế và phân tích những dàn xếp thể chế nội bộ khác biệt theo những cách phi nhị nguyên.
Nhà nước phát triển
Trong Chương 3 của Kim Hyung-a, các lý thuyết về nhà nước phát triển đã giải thích sự tăng trưởng siêu tốc của Hàn Quốc “chủ yếu dựa trên việc áp dụng mô hình nhà nước ‘Weber’ chuyên nghiệp với tinh thần ‘duy lý theo kế hoạch’... [nhưng đây chỉ là] chuyện hoang đường.” Nhưng nhiều tác giả của chúng tôi lập luận, các lý thuyết về nhà nước phát triển có năm vấn đề sai lầm.
Thứ nhất, theo đánh giá của các thuyết này về các quy trình hoạch định chính sách của Hàn Quốc về cơ bản là “kỹ trị”, các thuyết nhà nước phát triển tập trung phân tích các quan chức nhà nước hơn là người lãnh đạo chính trị của các quan chức này - Park Chung Hee, để lý giải những ưu tiên, mục tiêu và chiến lược chính sách. Những thiếu thốn dữ liệu lịch sử được lưu trữ chắc chắn là một lý do dẫn đến sự quên lãng vai trò chính trị của Park, nhưng vấn đề này không vì vậy làm mất đi ý nghĩa phê bình của chúng tôi. Hệ thống cai trị chính trị đảm bảo cho siêu tăng trưởng hoàn toàn mang tính quan liêu, với những cận vệ an ninh và các nhà kỹ trị kinh tế thống trị trong các đảng phái chính trị và nhóm lợi ích có ý thức hệ nghèo nàn và được tổ chức yếu kém, tuy nhiên người chèo lái nó - Park Chung Hee - lại nắm giữ những quyền lực tự chủ không hề bị kiểm soát và không có đối trọng. Theo dẫn dắt của Kim Hyung-a, Kim Byung-kook đảo ngược khái niệm của Peter Evan về “sự tự trị cố hữu” khi mô tả nhà nước phát triển của Hàn Quốc ở Chương 7. Nhà nước sở hữu đặc tính hợp đoàn chặt chẽ “theo kiểu Weber” [6] chỉ vì Park đã sắp đặt các bộ ngành - và hơn nữa là lực lượng ủng hộ xã hội cũng như các đồng minh chính trị - vào trong một trật tự phân cấp nội bộ gồm nhóm “nòng cốt”, nhóm “lĩnh vực chiến lược” và nhóm “bổ trợ” với những đặc quyền và và sự yếu kém về tổ chức khác nhau. Để xây dựng một hệ thống quan liêu mà bên ngoài thì bị cách ly khỏi chính trị vị đảng phải và bên trong thì tuân thủ một trật tự phân cấp rõ ràng với Ban Kế hoạch Kinh tế (EPB) mới thành lập làm nòng cốt, Park đã phải liên tục can thiệp vào những hoạt động chính trị của bộ máy quan liêu để tách bớt quyền lực ra khỏi các bộ ngành trong lĩnh vực chiến lược và bổ trợ - và trong trường hợp năm 1964-1967 là MoF, một cơ quan nòng cốt khác trong bộ máy quan liêu của ông. Tính hợp đoàn chặt chẽ “theo kiểu Weber” của Hàn Quốc là một tạo tác chính trị nền tảng được tạo lập, duy trì và dẫn dắt trong quá khứ bởi Park Chung Hee.
Thứ hai, như Evans lập luận, nhà nước phát triển của Hàn Quốc đã bị “gắn chặt vào những mối liên kết xã hội vững chắc”, tạo điều kiện cho một đàm phán kéo dài về các mục tiêu và chính sách giữa nhà nước và các nhân vật chaebol, nhưng chính Park mới là người ra điều kiện trong những cuộc đàm phán. Các quyết định chính sách đã đưa Hàn Quốc vào lộ trình siêu tăng trưởng, bắt đầu với một cơ chế lãi suất đảo ngược năm 1964 cho đến việc đóng băng các khoản thanh toán lãi suất của các khoản tín dụng từ “thị trường chứng khoán phi chính thức” tư nhân năm 1972, sự bành trướng của quá trình công nghiệp hóa ngành công nghiệp nặng và công nghiệp hóa chất năm 1973 cùng một hệ chính sách bình ổn hóa tổng hợp năm 1979, tất cả đều được quyết định bởi Park khi đối mặt với sự chống đối từ nhóm này hay nhóm khác trong các bộ ngành nhà nước (xem Chương 7). Cũng như vậy, ở Chương 12 Lee Young Jo cho rằng việc Hàn Quốc lao đầu vào Saemaul Undong (Phong trào Làng xã Mới) với những gói trợ giá khổng lồ cho gạo và lúa mạch đã được Park chỉ đạo. Cái bóng của ông còn rộng lớn hơn nữa ở những quyết định chính sách ngoại giao của Hàn Quốc để chống lưng cho các chính sách phát triển. Như được kể lại bởi Lee Min Yong ở Chương 14, Park đề xuất gửi các lực lượng quân đội đến miền Nam Việt Nam vào năm 1961 nhưng rồi chỉ nhận được phản hồi tiêu cực của John F.Kennedy. Khi người kế nhiệm của ông ta, Lyndon B.Johnson thay đổi chính sách Mỹ và cố gắng kêu gọi Park gửi binh lính vào năm 1964, Park đã nhanh chóng dàn xếp các chính trị gia Đảng Cộng hòa Dân chủ (DRP) phía sau can thiệp quân sự ở miền Nam Việt Nam. Lee Jung-hoon cũng lập luận tương tự ở Chương 14 rằng việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Nhật Bản năm 1965 là khả thi chỉ vì Park Chung Hee đã xả thân liều mình trước cơn giận dữ của mọi người. Các nguồn lực nhận được từ việc gửi lính tham chiến và bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Nhật Bản trở thành nguồn vốn khởi sự của Park để tài trợ cho các chương trình công nghiệp, bao gồm dự án yêu thích của ông - xây dựng nhà máy tổ hợp thép.
Thứ ba, khi Park đứng đầu bộ máy quan liêu nhà nước tổ chức theo thứ bậc và cũng kiểm soát các kênh thể chế của hoạt động đàm phán với các bộ ngành, các chaebol sau cùng cũng tham gia trực tiếp vào hoạt động đổi chác chính trị bất cân xứng với Park và Văn phòng Nhà Xanh hơn là làm việc qua các cấp bậc của bộ máy quan liêu trong các quyết định quan trọng nhất. Trái ngược với các lý thuyết về nhà nước phát triển, chính các nhóm chaebol chứ không phải các quan chức nhà nước mới là những đối tác cấp dưới của Park. Và đây là sự hợp tác giữa các bên mà Chương 9 của Eun Mee Kim và Park Gil-sung gọi là “những người có tầm nhìn”, tạo điều kiện lẫn nhau nhằm đạt được các lợi ích thiết thực - siêu tăng trưởng cho Park và sự bành trướng doanh nghiệp cho các chủ sở hữu chaebol - thông qua “những bảo đảm lẫn nhau” lần lượt về ủng hộ chính trị và các hoạt động kinh tế đẩy rủi ro. Để những đảm bảo lẫn nhau không biến chất thành những rủi ro đạo đức, Park đã phát triển ba nguyên tắc: hợp tác với các nhóm chaebol với một hồ sơ theo dõi kinh doanh rõ ràng; xây dựng một cơ cấu cạnh tranh độc quyền nhóm; và để các doanh nghiệp chaebol thua lỗ phá sản khi các biện pháp hỗ trợ không cứu vãn được nữa. Cũng có một quy định là chaebol không bao giờ được theo đuổi quyền lực chính trị hay trở thành đồng minh cho các đối thủ chính trị của Park. Họ đã bị trừng phạt nặng nề khi lòng trung thành chính trị của họ bị nghi ngờ.
Theo như Lee Nae-young thuật lại ở Chương 10, trong ngành công nghiệp xe hơi của Hàn Quốc, dù với sự hỗ trợ của những cánh tay phải của Park - Kim Jong-pil [7] và Yi Hu-rak - cũng lần lượt không thể ngăn được Saenara tiến đến phá sản năm 1963 hoặc bảo vệ được vị trí độc quyền lắp ráp xe hơi của Sijin Motors trước những thách thức của Hyundai Motors và Asia Motors vào 1967-1968. Ngành công nghiệp ô tô là “mồ chôn của những tập đoàn đang sắp sửa thành chaebol. ” Sinjin đã mua lại Saenara năm 1965, sau đó thành lập một liên doanh 50:50 với General Motors vào năm 1972, chỉ để bán cổ phiếu cho ngân hàng phát triển nhà nước vào năm 1976 trong khi đó Asia Motors bị mua lại bởi một kẻ đến sau là Kia Motors vào năm 1976. Chỉ có Hyundai Motors phát triển thành một một công ty đa quốc gia độc lập, “sản xuất xe hơi với thương hiệu của riêng nó, có chu kỳ thay đổi mẫu mã bền vững về mặt kinh tế, và liên kết với một mạng lưới dày đặc các nhà cung cấp thuộc sở hữu trong nước nhưng bằng sáng chế nước ngoài cũng như với một hệ thống bán hàng và dịch vụ phân bố rộng rãi toàn cầu.”
Thứ tư, như một hệ quả của sự lấn át chính trị Hàn Quốc trong quá trình hình thành nhà nước có tính gắn kết chặt chẽ với những mối quan hệ đổi chác chính trị bất cân xứng với những nhà công nghiệp chaebol, “lý luận kỹ trị” trở thành một khái niệm với tính khả dụng thấp khi miêu tả các ưu tiên, mục tiêu và chiến lược của nhà nước đó. Thật ra, nhiều chính sách kinh tế vĩ mô không hề mang tính kỹ trị. Các liệu pháp sốc của chính quyền quân sự kết hợp với các nỗ lực bí mật của phe churỵu (chính thống) trong chính quyền này nhằm vận động cho các quỹ chính trị, đã làm chệch hướng nền kinh tế rời rạc của Hàn Quốc (xem Chương 3). Chiến lược rủi ro cao sau năm 1964 nhằm đa dạng hóa các tập đoàn chaebol vào các mặt trận tăng trưởng công nghiệp mới thông qua những gói tín dụng hỗ trợ được phân bổ một cách quan liêu đè nặng lên các ngân hàng với những khoản cho vay không thanh toán được, điều này càng khiến các nhà hoạch định chính sách cực kỳ nhạy cảm với bất kỳ dấu hiệu gia tăng lãi suất nào bởi khả năng cao là các đối tác chaebol với mức đòn bẩy cao ngất của họ sẽ phải thất bại trước các khoản thanh toán lãi vay đang leo thang và đe dọa luôn cả những người cho vay. Để giữ cho các tập đoàn chaebol và các ngân hàng không vướng vào những khoản nợ, Hàn Quốc cố gắng giữ tốc độ tăng trưởng của nó ở mức cao, kể cả bằng những liệu pháp sốc thỏa hiệp những quyền tài sản tư nhân như đóng băng các khoản thanh toán lãi suất cho các khoản vay trên thị trường chứng khoán phi chính thức vào năm 1972 đã cho thấy (Chương 7). Vì vậy, tốc độ tăng trưởng nổi bật 9,3% dưới thời của Park không tự nó khẳng định đặc điểm kỹ trị trong nhà nước của ông. Ngược lại, có vẻ như điều đó đã xuất phát từ nỗi lo sợ về căng thẳng doanh nghiệp và căng thẳng tài chính mà ông biết hoàn toàn có thể phát triển thành một cuộc khủng hoảng hệ thống không thể khắc phục được khi ông tạo ra một cơ chế lãi suất đảo ngược với lãi suất huy động vốn cao hơn lãi suất cho vay vốn vào năm 1965 và phải trả giá bằng sự tích tụ khổng lồ các khoản nợ không thanh toán được.
Hơn nữa, lịch sử chính sách công nghiệp dưới thời Park Chung Hee thúc đẩy chúng tôi sử dụng góc nhìn chính trị hơn là một góc nhìn kỹ thuật. Nhà nước liên tục yêu cầu quy mô sản xuất lớn hơn, hàm lượng nội địa hóa cao hơn, sự thay đổi mẫu mã ít thường xuyên hơn, tỷ trọng xuất khẩu cao hơn cũng như một mạng lưới kết hợp hàng dọc (kyeyolhwa) chặt chẽ hơn với các nhà sản xuất bộ phận và linh kiên quy mô nhỏ trong ngành công nghiệp ô tô Hàn Quốc như là các điều kiện cho những hỗ trợ chính sách cho đến khi nhà nước thật sự đòi hỏi các nhà lắp ráp còn non trẻ phải chuyển đổi thành các đối trọng toàn cầu vào năm 1973. Kế hoạch năm 1973 là “phi thực tế... một canh bạc nguy hiểm, nếu không phải là một mơ tưởng viễn vông”, theo Lee Nae-young. Tương tự như vậy, Chương 11 của Rhyu Sang-young và Lew Seok-jin miêu tả những phản ứng tiêu cực đồng loạt từ các nhà tài trợ và quỹ cho vay quốc tế, từ các nhà hoạch định chính sách Mỹ cho đến các nhà kinh tế học Ngân hàng Thế giới, các ngân hàng Tây Âu và Nhật Bản đối với đề xuất xây dựng nhà máy tổ hợp thép của Park Chung Hee. “Cuối cùng, chính việc tài trợ các nguồn quỹ bồi thường thiệt hại năm 1969 của Nhật Bản chứ không phải là các khoản tín dụng thương mại đã cho phép Hàn Quốc thực hiện dự án thép này”, Rhyu và Lew viết tiếp, “từ đó minh chứng cho sự lấn át của Park cùng tham vọng của ông chứ không phải là tài năng kỹ trị trong nhà nước phát triển của ông ta.”
Thứ năm, nếu Park không theo đuổi lý luận kỹ trị khi xác lập các mục tiêu và chiến lược, thì sự siêu tăng trưởng của Hàn Quốc trong suốt thời gian cầm quyền cá nhân hóa cao độ nhưng cũng quan liêu hóa của ông sẽ trở thành một bài toán lịch sử và lý thuyết còn lớn hơn. Nhiều tác giả của chúng tôi đã phân tích để cho thấy năng lực tổ chức và năng lực chính trị của nhà nước phát triển Hàn Quốc để tái cấu trúc nhanh chóng nhằm sửa chữa các chiến lược kinh tế bị định hướng bởi ý thức hệ được biểu hiện rõ ràng hơn tinh thần kỹ trị của nhà nước. Park đã có lần nhớ lại “Các chuyên gia chỉ cố làm nhụt chí tôi bằng cách đưa ra các rủi ro và trở ngại. Nếu tôi nghe theo những lời khuyên của họ, đến cuối cùng có lẽ tôi sẽ không làm được gì cả.” Khi các trợ lý của ông kêu gọi giảm quy mô của các dự án đầu tư về một mức khả thi, Park đã trả lời: “Chúng ta phải chuẩn bị thay thế luôn cả nhà đầu tư ban đầu nếu họ thất bại,” (xem Chương 5). Kết cục là chính sách kinh tế vĩ mô biến thành lắt léo giữa chính sách siêu tăng trưởng và liệu pháp sốc khi các ngân hàng bị đè nặng bởi những khoản nợ không thể thanh toán và các tập đoàn chaebol rơi vào trạng thái sản xuất quá mức (Chương 7). Chủ sở hữu các công ty sản xuất ô tô bị thay đổi (Chương 10) trong khi đó cộng đồng lớn mạnh của những chaebol cũng chứng kiến sự thay đổi liên tục từ các thành viên dưới áp lực của nạn sản xuất dư thừa (Chương 9).
Để hiểu được khả năng tạo ra siêu tăng trưởng của Hàn Quốc cần phải thay đổi trọng tâm phân tích vào một chính sách cụ thể có vẻ “ấu trĩ” về mặt kỹ trị đến các mối tương quan giữa những tập hợp chính sách riêng biệt. Chính nhờ Park đã sửa chữa những biện pháp siêu tăng trưởng “ấu trĩ” về mặt kỹ trị bằng những liệu pháp sốc cũng bất thường không kém đồng thời thay thế các nhà sản xuất chaebol thất bại bằng các ngôi sao mới nổi mà Hàn Quốc mới có thể tiếp tục quá trình siêu tăng trưởng bất chấp chu kỳ bùng-vỡ. Khi đứng đơn lẻ, nhiều quyết định chính sách của Park có vẻ “ấu trĩ” về mặt kỹ trị. Khi kết hợp lại, thông qua những thay đổi chính sách định kỳ và sự tái cấu ưúc chaebol, chính các quyết định cho thấy một sự sáng suốt đặc biệt khi chúng đã tạo điều kiện cho Hàn Quốc mở rộng, điều chỉnh và lại mở rộng - tất cả ở một tốc độ phi thường dù chi phí cũng rất lớn. Và những thay đổi đó là khả thi bởi Park có thể nhanh chóng tái định hướng các bộ ngành nhà nước - và xa hơn nữa, các khách hàng công chúng - hướng đến siêu tăng trưởng hoặc liệu pháp sốc tùy thuộc vào các tình trạng kinh tế.
Các tác động chính trị-an ninh bên ngoài
Học thuyết phụ thuộc có thể đã dự đoán rằng Hàn Quốc sẽ bị giữ ở ngoài lề quá trình phát triển trong tình trạng nghèo nàn bởi các cường quốc tư bản thống trị trên thế giới, tuy nhiên điều ngược lại đã xảy ra. Thay vì trở thành một trường hợp kinh điển của sự kém phát triển trong thế giới thứ ba với đói nghèo rộng khắp, thâm hụt tài khóa và thương mại kéo dài, các áp lực lạm phát và tình trạng bất ổn chính trị trầm trọng, Hàn Quốc đã gây ngạc nhiên cho tất cả mọi người kể cả chính người dân Hàn bằng tiết mục bùng nổ về năng lượng hiện đại hóa sau tháng 5 năm 1961. Nền kinh tế nước này đã cất cánh với sự trợ giúp của các thị trường toàn cầu, hoàn toàn trái ngược với học thuyết phụ thuộc. Tuy nhiên, cách thức Hàn Quốc khai thác các thị trường thế giới cho mục tiêu hiện đại hóa cũng phân kỳ theo nhiều mẫu hình phát triển phụ thuộc. [8] Thay vì sử dụng một liên minh ba bên gắn chặt vào các công ty đa quốc gia, quốc gia này đã sử dụng một liên minh hai bên với chaebol đang phát triển thành các nhà vô định quốc gia thông qua sự đa dạng hóa và sự liên kết cùng với chương trình hỗ trợ khổng lồ từ nhà nước. Dựa vào chaebol thay vì các công ty đa quốc gia đã thúc đẩy Hàn Quốc lựa chọn các khoản tín dụng ngân hàng thương mại và chuyển giao công nghệ thay vì đầu tư trực tiếp nước ngoài làm phương tiện chính cho sự nghiệp công nghiệp hóa, với những tác động gián tiếp sâu sắc đến toàn bộ nền kinh tế chính trị.
Sự phát triển của mối liên kết nhà nước- chaebol không có nghĩa rằng các yếu tố bên ngoài ít quan trọng đối với sự hiện đại hóa của Hàn Quốc. Ngược lại, nhiều nguồn lực cho sự phát triển đến từ ngoài biên giới. Nền kinh tế ban đầu quá nhỏ và quá nghèo, các nguồn lực sẵn có chỉ có thể phá vỡ nút thắt cổ chai cung cầu với sự hỗ trợ từ nước ngoài. Tuy vậy cách thức mà các yếu tố bên ngoài tạo ảnh hưởng lại phân kỳ theo các lập luận lý giải trong thuyết phụ thuộc hay thuyết phát triển phụ thuộc - và tương tự là các học thuyết nhà nước phát triển với điểm nhấn đặt ở các lực lượng kinh tế toàn cầu. Các yếu tố kinh tế đóng góp từ bên ngoài vào sự siêu tăng trưởng của Hàn Quốc gồm có một chế độ thương mại quốc tế được tự do hóa, các lực đẩy không thể cản được trong vòng đời sản phẩm, sự gia nhập của các quốc gia phát triển muộn vào Nhật Bản trong một mạng lưới sản xuất đa quốc gia theo mô hình “đàn nhạn bay” và sự phát triển của các quỹ cho vay cũng như các nhà đầu tư thế giới. Ngược lại, nhiều tác giả của chúng tôi lập luận rằng an ninh quân sự có đóng góp trực tiếp và rộng khắp vào sự hiện đại hóa của Hàn Quốc.
Đầu tiên, về mặt cơ cấu, sự nhạy cảm an ninh của Hàn Quốc thúc đẩy quá trình xây dựng một nhà nước tập quyền cực kỳ cao độ với người đứng đầu nhà nước đóng vai trò tổng thống toàn quyền. Theo ghi chép của Moon Chung-in và Jun Byung-joon ở Chương 4, các lực lượng vũ trang đã trở thành lực lượng bảo vệ cho an ninh quốc gia, cho sự ổn định chế độ và là lực lượng người đổi mới xã hội bởi nó đã được hấp thu một cách có tổ chức các tư tưởng an ninh “kỹ trị” của Mỹ bên cạnh những tinh thần của “chủ nghĩa quân sự” mang hơi hướng lịch sử Nhật Bản sau khi Washington can thiệp quân sự vào Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953). Các lực lượng vũ trang đã là “tầng lớp tinh hoa được hiện đại hóa, được đào tạo và có kinh nghiệm quản trị nhiều nhất” ở nhiều thời điểm trong thập niên 1960, theo Han Yong-sup. Nhờ đó, quyền lực đã trượt mạnh về phía Park và nằm chắc trong tay ông khi ông loại bỏ những đối thủ ra khỏi chính quyền quân sự trong những cuộc thanh trừng (Chương 1 và 3), đặt các đơn vị quân sự dưới sự giám sát nghiêm ngặt (Chương 6) và chia để trị những cận vệ quyền lực của ông bằng cách xây dựng một mạng lưới an ninh nhiều tầng và nhiều trung tâm với các đặc nhiệm KCIA, cận vệ PSS và quân lính Tổng cục An ninh Quân đội luôn kiểm tra các nhiệm vụ giám sát lẫn nhau (Chương 5). Từ vị trí thống trị này, Park có thể lựa chọn những chính sách chính trị, kinh tế và ngoại giao đầy rủi ro cho mục đích pu-kuk kang-byeong của ông. Các lực lượng vũ trang trở thành chiếc lưới an toàn chính trị của ông, bảo vệ ông trong trường hợp thất bại với chính sách chính trị, kinh tế và ngoại giao.
Thứ hai, về mặt tư tưởng, an ninh quân sự cũng định hình lộ trình hiện đại hóa của Hàn Quốc thông qua ảnh hưởng của nó lên các ưu tiên chính trị của Park. Khi giành được quyền lực vào năm 1961, ông công khai tuyên bố rằng chống chủ nghĩa cộng sản sẽ là kuksi (bản chất quốc gia) của Hàn Quốc, do đó đã xác định tình thế không thể đảo ngược của chính quyền quân sự là phải hướng theo chủ nghĩa bảo thủ hậu chiến và từ đó loại bỏ luôn những lựa chọn “cánh tả” trong công cuộc hiện đại hóa (Chương 1). Nhằm bắt kịp Bình Nhưỡng về quân sự, kinh tế và chính trị, Park đã gửi binh lính đến miền Nam Việt Nam và bình thường hóa quan hệ với Nhật Bản năm 1965 với mục tiêu xây dựng một mạng lưới an ninh khu vực (Chương 14 và 15); nâng cao vị trí của công nghiệp hóa ngành công nghiệp nặng và hóa chất trên danh sách ưu tiên để phát triển một ngành công nghiệp quốc phòng hiện đại, bất kể các kết quả thảm khốc đối với sự phân phối bình đẳng và sự ổn định thị trường (Chương 7); và định hình lại chính quyền chuyên chế “mềm” của ông thành một “nhà nước quân đội” (yushin) vào năm 1972 như một biện pháp để chống lại Kim Il Sung trong chế độ yuil cứng nhắc của Triều Tiên (Chương 8). Quan trọng hơn, Park tự xem mình như là những người đổi mới thời Nhật Bản Minh Trị (1868-1912), những người trước đó một thế kỷ đã khởi động một cuộc hiện đại hóa kinh tế nhằm kiểm soát và đánh bại các mối đe dọa an ninh. Khẩu hiệu pu-kuk kang-byeong của Park đã nhắc lại khẩu hiệu fukoku kyohei của Nhật Bản Minh Trị (Chương 4) và chế độ yushin của ông đã phỏng theo ishin thời Minh Trị (Chương 8).
Thứ ba, an ninh quân sự cũng quan trọng đối với sự hiện đại hóa của Hàn Quốc khi cung cấp các công cụ và vị thế đàm phán chính sách. Khi các nhà hoạch định chính sách Mỹ hàng đầu như các nhân vật quyền lực mong muốn đưa Hàn Quốc và Nhật Bản vào một khối liên minh ba bên với Mỹ, Park đã theo đuổi tiến trình bình thường hóa ngoại giao dù không có một lời xin lỗi chính thức nào từ phía Nhật về sự bóc lột trong thời đế quốc, để nhận được tài trợ từ các quỹ bồi thường thiệt hại của Nhật. Các quỹ này trở thành nguồn vốn khởi sự cho một nhà máy tổ hợp thép bị đánh giá là quá rủi ro đối với các quỹ cho vay thương mại (Chương 11). Chiến tranh tại Việt Nam cũng tạo ra một cơ hội bất cân xứng khác khi Park gửi lính chiến đấu đi hỗ trợ Mỹ để đáp lại lời hứa của nước đồng minh siêu cường cho sự viện trợ lớn hơn về quân sự và kinh tế (Chương 14). Hơn nữa, milwol (tuần trăng mật) mà Park tận hưởng cùng với Lyndon B.Johnson như một kết quả của những quyết định chính sách ngoại giao này còn có tác dụng củng cố vị thế đàm phán của Park trên những mảng chính sách không liên quan. Bắt đầu mạnh mẽ trong trọng tâm truyền thống về ổn định hóa, Hoa Kỳ đã không hề ngăn chặn Chang Ki-yong thiết lập lãi suất tiền gửi cao hơn lãi suất cho vay trong năm 1965 (Chương 7). Sự đảo lộn giữa lãi suất huy động và cho vay đã cho phép Park đưa các tập đoàn chaebol vào một quỹ đạo siêu tăng trưởng. Các khoản nợ không thanh toán được gia tăng, tuy nhiên các khoản đầu tư cũng tăng lên, các tập đoàn chaebol trở thành các doanh nghiệp độc tôn và năng lực sản xuất được mở rộng. Park thậm chí đã chuyển đổi Học thuyết Guam năm 1969 về sự triệt thoái quân sự Mỹ của Richard M. Nixon và thất bại năm 1968 của Mỹ trong việc trả đũa những khiêu khích quân sự từ phía Triều Tiên thành cơ hội để khởi động chương trình hiện đại hóa lực lượng (Chương 14).
Do đó an ninh quân sự đóng vai trò quan trọng đối với quá trình hiện đại hóa của Hàn Quốc trong việc định hình các cơ cấu quyền lực, các tư tưởng và bộ máy công cụ cho các phương tiện chính sách là rất rõ ràng. Điều kém chắc chắn hơn là các áp lực bên ngoài này đã tương tác với các nhân vật, cấu trúc và quá trình chính trị như thế nào và có tồn tại hay không một mẫu hình đặc biệt trong các tương tác này. Trong trường hợp các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến con đường hiện đại hóa của Hàn Quốc, cuốn sách này phân biệt những tác động bắt nguồn từ hai nhà viện trợ quan trọng nhất của nước này: Hoa Kỳ và Nhật Bản. Ở mức chế độ chính trị, Taehyun Kim và Chang Jae Baik đưa ra trong Chương 2, các nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ ngăn chặn “các tư tưởng xã hội chủ nghĩa” khi họ thực hiện quyền phủ quyết đối với ý tưởng lạ thường của Park nhằm đóng băng các khoản tiền gửi lớn ở ngân hàng và buộc những người gửi tiến phải mua chứng khoán của những công ty nhà nước mới thành lập bằng những khoản tiền đó vào tháng 6 năm 1962. Các khoản tiền này sẽ được sử dụng vào những dự án HCI đầy rủi ro. Hơn nữa, khi đòi hỏi Park hứa chuyển giao quyền lực cho một lực lượng lãnh đạo dân sự thông qua các cuộc bầu cử như là điều kiện đổi lấy việc Hoa Kỳ chấp nhận cuộc đảo chính quân sự của ông vào tháng 5 năm 1961 như một sự đã rồi (Chương 1), và bằng cách trì hoãn viện trợ, đưa ra các thông điệp phản đối trên lĩnh vực ngoại giao, gây áp lực để thanh lọc cánh tay phải Kim Jong-pil từ nhóm chính sách cứng rắn cấp tiến, cũng như ủng hộ những chống đối của lãnh đạo dân sự gồm có Yun Po-sun vào giữa cuộc khủng hoảng chính trị nhằm buộc Park phải thực hiện lời hứa ban đầu là tổ chức các cuộc bầu cử tổng thống v?