Chương 3 KIẾN TẠO QUỐC GIA:
CON ĐƯỜNG TỪ CHÍNH QUYỀN QUÂN SỰ
ĐẾN CHÍNH QUYỀN HIỆN ĐẠI
THÔNG QUA CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
Kim Hyung-a
Các học thuyết phát triển quốc gia đã lý giải sự chuyển đổi thành công sang một nền kinh tế công nghiệp hiện đại chủ yếu dựa trên việc áp dụng mô hình nhà nước “Weber” chuyên nghiệp với tinh thần “duy lý theo kế hoạch”, huy động nguồn lực theo kiểu từ trên xuống một cách rất nhịp nhàng để tối thiếu hóa chi phí và tối da hóa lợi ích, cách ly các quy trình ra chính sách với các lực lượng chính trị và nhóm lợi ích xã hội để từ đó tinh thần duy lý theo kế hoạch lan rộng và định hướng cho việc hoạch định chính sách. Điều này chỉ là một sự tưởng tượng. Một nghiên cứu về những năm chính quyền quân sự (1961-1963), giai đoạn mà nhà nước Hàn Quốc được tái thiết thành một nhà nước phát triển, đã cho thấy vai trò của chính quyền phức tạp vì thiếu định hình hơn nhiều so với cái mà các lý thuyết về nhà nước phát triển đã lý giải.
Thứ nhất, nhà nước Hàn Quốc không phải chỉ là một tập hợp thể chế tĩnh mà trái lại, nó luôn vận động và liên tục biến đổi suốt thời kỳ chính quyền quân sự. Vào thời điểm tháng 5 năm 1961, Không hề tồn tại một nhà nước phát triển đang mở cửa chờ đón một lãnh đạo chính trị mới để đánh thức tiềm năng kỹ trị và sử dụng những tiềm năng thể chế của nó vào công cuộc hiện đại hóa đất nước. Ngược lại, nhà nước mà Park Chung Hee thừa hưởng là một nhà nước dân chủ bị tụt hậu về mặt kỹ thuật dù có chút ít cải tiến rời rạc. Nhà nước phát triển không hề có sẵn mà là một tạo tác của con người được hình thành nhờ Park và cộng sự với rủi ro chính trị mà họ phải gánh chịu, các thử nghiệm chính sách và mối liên kết đa quốc gia với Hoa Kỳ và Nhật Bản. Sự nhanh nhạy của Park khi giành quyền điều khiển những công cụ quyền lực nhà nước và tái sắp xếp chúng thành một bộ máy phục vụ phát triển sau cuộc đảo chính là một nhân tố quan trọng trong thành công của ông. Trong hai năm rưỡi của chính quyền quân sự, Park và cộng sự đã rất nhanh chóng thiết lập nền tảng cho khuôn khổ hoạt động của chính quyền, khuôn khổ này đã tỏ ra rất thành công khi dẫn dắt quá trình phát triển kinh tế thần tốc của Hàn Quốc. Chỉ sáu tháng sau cuộc đảo chính, đại sứ Samuel D. Berger ban đầu tuy rất hoài nghi nhưng rồi bị ấn tượng bởi sự lãnh đạo của Park đến mức đã viết trong báo cáo gửi đến Ngoại trưởng Dean Rusk rằng “cuộc cách mạng thật sự từ bên trên này [đang được] toàn bộ lực lượng khẩn trương thực hiện với những đổi mới từng được bàn nhiều trong quá khứ: chính sách ngân hàng và tín dụng, thuế, ngoại thương, gia tăng việc làm trong khu vực công cho người thất nghiệp, nông nghiệp, giáo dục, quản trị công, và phúc lợi xã hội.” Nhiều cuộc cải cách hành chính đã được chỉ huy bởi hai cơ quan, Hội đồng Tối cao Tái thiết Quốc gia (SCNR) và Cơ quan Tình báo Trung ương Hàn Quốc (KCIA). Đặc biệt, KCIA là một công cụ để thiết lập quyền lực và chức năng cho các cơ quan kinh tế quan trọng - Ban Kế hoạch Kinh tế (EPB), Bộ Tài chính (MoF), và Bộ Thương mại và Công Nghiệp (MCI) [39] - cũng như để tăng cường sức mạnh cho các cơ quan chính trị trong chế độ cầm quyền của Park bao gồm Bộ Nội Vụ (MHA) và cảnh sát. Kiến trúc sư của nhà nước phát triển Hàn Quốc là KCIA chứ không phải các nhà kỹ trị kinh tế.
Thứ hai, với vị trí trung tâm của chính trị, lịch sử xây dựng nhà nước và cải cách chính sách dưới thời chính quyền quân sự đã gặp nhiều chông gai và nhiều tình huống phức tạp do những định hướng chức năng kinh tế bất thường khi các cuộc đấu tranh quyền lực gia tăng trong chính quyền quân sự vốn không ổn định. Sự hình thành nhà nước phát triển không hề có tính kỹ trị. Dù rất hiệu quả, các cải cách hành chính được Park và chính quyền quân sự thực hiện không hề đi theo một mô hình hay kế hoạch tổng thể nào được hoạch định từ trước cuộc lật đổ với các mục tiêu rõ ràng và từng bước đi xác định để có thể tận dụng được bộ máy nhà nước nhằm tạo ra ổn định chính trị và tăng trưởng kinh tế. Không hề có một “thiết kế tổng quát” nào. Ngược lại, các chương trình của chính quyền quân sự xuất phát từ mối bận tâm thường trực về vấn đề kiểm soát chính trị chứ không phải từ câu hỏi làm thế nào để áp dụng một cơ chế kiểm soát mạnh vào phục vụ những mục tiêu ngoài chính trị trong đó có phát triển kinh tế. Nỗi ám ảnh kiểm soát chính trị đã thúc đẩy Park không chỉ thành lập KCIA mà còn giao phó nhiều trách nhiệm hoạch định chính sách cho cơ quan tình báo này. Vị trí thống lĩnh của KCIA trong quy trình hoạch định chính sách đồng nghĩa với chính trị Hàn Quốc sẽ có đặc trưng là các biện pháp mang tính đàn áp và trừng phạt, nền kinh tế Hàn Quốc sẽ đặc trưng bởi những liệu pháp sốc bất thường. Trong tình trạng thiết quân luật, việc giải tán quốc hội và các hội đồng nhân dân địa phương cũng như lệnh cấm các đảng phái chính trị và tổ chức xã hội hoạt động đã trở nên bình thường, trong khi đó chính sách kinh tế lại được thiết kế dựa trên giả định rằng chính quyền quân sự có thể kiểm soát lượng tiền tiết kiệm trong xã hội và có thể tái định hướng nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính.
Thứ ba, bên cạnh các cố gắng sai định hướng khi tiến hành đủ loại liệu pháp sốc cũng đã có những bước chuyển mạnh mẽ trong quá trình học hỏi chính trị. Các thử nghiệm thất bại của chính quyền quân sự đã dạy Park rằng ông còn nhiều thứ để học về những điểm yếu nội tại của chiến lược ban đầu mang đậm tính kiểm soát và ông cần phải cân bằng giữa quyền lực nhà nước và các thế lực của thị trường để tạo ra tăng trưởng kinh tế. May mắn cho Park, cho chính quyền quân sự và cho cả đất nước là ông đã không ngần ngại thừa nhận lỗi lầm của mình, học hỏi từ chúng, thay đổi các định hướng chính sách và xác định lại các mục tiêu chính sách khi kết quả thực tế không được như các mục tiêu hướng đến. Ông dần chuyển quyền hoạch định chính sách kinh tế từ KCIA sang cho các nhà kỹ trị trong bộ máy quan liêu chính quyền nhằm thực hiện các mục tiêu chính sách vừa được xác định lại. Với vai trò là một người đang cố gắng tiến hành cách mạng, thật ngạc nhiên khi Park không hề có những lo lắng về ý thức hệ.
Tuy nhiên, Park chỉ có thể hiểu được đòi hỏi phải chuyển dịch quyền lực cho bộ máy quan liêu nhà nước và kỹ trị hóa các chính sách kinh tế khi ông đã hoàn toàn kiểm soát được chính quyền quân sự bị chia rẽ nội bộ sau những chiêu bài quỷ quyệt của chính trị vị quyền lực hậu cuộc đảo chính để củng cố nền tảng quyền lực của mình. Chính trị cần phải được xác lập trật tự trước khi Park sử dụng khả năng học hỏi chính sách của mình. Dù có vẻ yếm thế với vai trò trên danh nghĩa là lãnh đạo cấp hai trong cuộc đảo chính và chỉ có một nền tảng quyền lực khá hạn chế, song Park đã giữ vị trí lãnh đạo tuyệt đối giai đoạn sau đảo chính trong khi sự vận động quyền lực biến đổi không ngừng. Phần mấu chốt nhất của câu chuyện này nằm ở mối quan hệ phức tạp giữa ông với cánh tay phải Kim Jong-pil. [40] Thật ra, rất khó để tưởng tượng được Park phải làm thế nào để nhanh chóng kiểm soát chính phủ và tiến hành các cải cách hành chính nền tảng nếu ông không đảm bảo được sự ủng hộ của Kim Jong-pil. Kim đã được biết đến rộng rãi như là một người “đồng sở hữu” cuộc đảo chính năm 1961. Là người sáng lập và giám đốc đầu tiên của KCIA, ông ta đã trở thành vị “hoàng thái tử” với quyền lực không kém Park.
Tuy nhiên, khi Park củng cố quyền lực với sự yểm trợ của Kim Jong-pil trong cuộc thanh trừng chính trị vào đầu năm 1963, Kim bị buộc phải rời khỏi vị trí “hoàng thái tử”, không chỉ vì lợi ích của Park trong việc củng cố quyền lực mà còn để đảm bảo cho việc chuyển đổi sang một chiến lược phát triển mang tính kỹ trị hơn. Park đã hạn chế sự thống trị của Kim khi vai trò của ông này trở thành mối đe dọa nguy hiểm nhất đối với sự ổn định của SCNR và đối với quyền lực của Park. Park lợi dụng những đối thủ của Kim Jong-pil để buộc Kim phải rời khỏi chức Chủ tịch Đảng Cộng hòa Dân chủ và rồi phải “nghỉ hưu”. Bước đi khôn ngoan này sau đó đã tạo thời cơ để xử lý những đối thủ tương tự. Cách thức Park giải quyết các mối quan hệ này là một ví dụ cho thấy khả năng sử dụng thế mạnh của kẻ khác nhằm củng cố quyền lực cho bản thân Park và khả năng chơi trò chơi chính trị theo cách lạnh lùng và hiệu quả nhất để chế ngự tham vọng của các đồng minh, cố vấn và cộng sự của ông.
Hội đồng Tối cao Tái thiết Quốc gia
Vấn đề phân định quyền lực có vị trí tối quan trọng, không chỉ quyết định đến vai trò lãnh đạo chính trị của Park trong tương lai mà còn định hình những ưu tiên của ông về định hướng xây dựng nhà nước và chính sách kinh tế. Trở ngại ông phải đối mặt ngay sau cuộc đảo chính quân sự là làm sao để tạo được ấn tượng về sự ủng hộ thống nhất từ phía các lực lượng vũ trang trong khi ông phải loại bỏ những đối thủ tiềm tàng ra khỏi quân đội và tạo được một hệ thống kiểm soát và cân bằng bên trong chính quyền quân sự. Câu hỏi làm sao để tuyển mộ được các tài năng dân sự hiếm hoi cho công cuộc thiết lập lại nhà nước Hàn Quốc và để họ trở thành một bộ phận đắc lực của chính quyền quân sự cũng là một nỗi trăn trở của Park trong suốt hai năm rưỡi chính quyền quân sự tồn tại. Khi giải quyết các câu hỏi và vấn đề về quyền lực này, ông rốt cuộc đã lập nên một cấu trúc quản lý nhiều tầng bậc với nội bộ chia rẽ.
Ba ngày sau cuộc đảo chính, chính quyền quân sự chính thức được đổi tên từ Ủy ban Cách mạng Quân sự thành Hội đồng Tối cao Tái thiết Quốc gia (Kuka chaegon choigo hoeui) và là trung tâm của quyền lực. Với vai trò cầm quyền chính trị tối cao thay thế cả ba nhánh chính phủ, SCNR bao gồm 30 quân nhân cấp cao nhất là tư lệnh của các nhánh trong lực lượng vũ trang. Việc kết nạp các quân nhân cấp cao nhất là một biện pháp để quản lý chặt quân đội và giám sát bất cứ hoạt động chống đảo chính nào tiềm tàng bên trong các lực lượng vũ trang cũng như để tạo ra sự ủng hộ thống nhất của các lực lượng này dành cho cuộc đảo chính. SCNR vào buổi ban đầu gồm có 14 tiểu ban, và đến tháng 7 năm 1963 thì bị giảm xuống còn 7. Mặc dù số lượng thành viên đã thay đổi năm lần từ tháng 5 năm 1961 cho đến tháng 2 năm 1963 do một loạt những đợt thanh trừng và nghỉ hưu nhưng SCNR vẫn là cơ quan chính trị cầm quyền tối cao với quyền thông qua các đạo luật, kiểm tra ngân sách và giám sát các hoạt động hành chính của quốc gia. Bên cạnh đó, tổ chức này còn có các quyền đặc biệt có thể chỉ huy và điều khiển nội các về những sự vụ liên quan đến hoạt động hành chính, hoạch định và chính sách quốc gia. Nội các có thể cố vấn cho SCNR nhưng quyền chỉ định nội các được giao cho SCNR. SCNR cũng có quyền chỉ định Hội đồng Hoạch định Tái thiết Quốc gia (PCNR). Hội đồng này có 5 ủy ban gồm các viên chức dân sự nhưng lại được lãnh đạo bởi một sĩ quan quân đội. Vào ngày 20 tháng 5 năm 1961, SCNR thành lập một nội các 14 thành viên bao gồm các sĩ quan trong quân đội thường trực và đặt dưới quyền của của Trung tướng Chang Do-young, người đã đóng cả bốn vai trò là thủ tướng, bộ trưởng quốc phòng, chủ tịch SCNR và tổng tham mưu trưởng. Sự khởi động nội các đã châm ngòi các cuộc đấu tranh quyền lực khốc liệt mà chỉ kết thúc cùng với sự sụp đổ của Chang. Khi buộc được Mỹ chấp nhận cuộc đảo chính và đánh bại các nỗ lực chống đảo chính của tướng Yi Han-lim, Park tước bỏ hai chức vụ đã từng giúp Chang có thẩm quyền chỉ huy quân đội - Tổng tham mưu trưởng và Bộ trưởng Quốc phòng - chỉ trong vòng hai tuần kể từ thời điểm Chang được chỉ định làm Thủ tướng, điều này thực hiện được là do Park thúc đẩy SCNR thông qua Luật về Các biện pháp Đặc biệt Tái thiết Quốc gia vào ngày 6 tháng 6, đạo luật này cấm Chủ tịch SCNR (Chang Do-young) nắm giữ bất cứ chức vụ nào trừ vị trí Thủ tướng. Tiếp theo, vào ngày 12 tháng 6, Phó chủ tịch SCNR, Thiếu tướng Park Chung Hee đã được chỉ định làm Chủ tịch Ủy ban Thường vụ SCNR theo quy định của Luật Hội đồng Tối cao Tái thiết Quốc gia (SCNRL) ban hành ngày 10 tháng 6. Đạo luật này yêu cầu “Phó Chủ tịch SCNR cũng sẽ là Chủ tịch của Ủy ban Thường vụ SCNR”, từ đó làm suy yếu thêm nền tảng quyền lực của Chang. Điều luật này đã được soạn thảo bởi Trung tá Yi Seok-che, Chủ tịch Tiểu ban Lập pháp và Tư pháp SCNR và là một trong số những người được Park bảo trợ. Yi cũng đã đóng vai trò trung tâm khi soạn thảo và thông qua Luật về Các biện pháp Đặc biệt Tái thiết Quốc gia theo những chỉ đạo nhằm “loại bỏ” Chang Do-young.
Ngày 3 tháng 7, Chang bị bắt với tội danh âm mưu tiến hành chống đảo chính cùng với một nhóm ô hợp 44 tướng, tá và các sĩ quan khác. Cuộc thanh trừng Chang, được mọi người nhìn nhận như một cuộc đấu tranh quyền lực giữa các phái miền Nam, gồm chủ yếu các tỉnh Gyeongsang và Chungcheong, với phái miền Bắc, chủ yếu từ tỉnh Pyeongan, cũng đã dẫn đến chiến bại của khóa KMA 5 với vai trò lực lượng thuộc thế hệ tiếp theo cạnh tranh với Kim Jong-pil và các sĩ quan cấp cá trẻ tuổi khóa KMA 8 cho vị trí “hoàng thái tử” trong chính quyền quân sự.
Cùng ngày đó, SCNR nhúng tay vào một cuộc đổi luật khác - lần này thì theo hướng ngược lại, cho phép Park đảm nhận vị trí chủ tịch của cả SCNR và ủy ban thường vụ hùng mạnh của tổ chức này. SCNR cũng bổ nhiệm Bộ trưởng quốc phòng mới, Song Yo-chan, làm thủ tướng. Đồng thời, SCNR tiến hành cải tổ nội các vào ngày 22 tháng 7 và thành lập nên một bộ bao quát, Ban Kế hoạch Kinh tế, làm cơ quan đứng đầu chỉ đạo quá trình phát triển của Hàn Quốc với nhiều quyền hạn về ngân sách, nguồn vốn nước ngoài và hoạch định. Khi Park đưa chính mình vào vị trí lãnh đạo tối cao của chính quyền quân sự, ông bắt đầu chuyển đổi SCNR thành một tổ chức chặt chẽ có khả năng tập trung quyền lực để cải cách hiệu quả hơn. Park đã cất nhắc chủ tịch của một trong bảy tiểu ban thành một thành viên của Ủy ban thường vụ SCNR mà chính ông là chủ tịch sau ngày 2 tháng 7. Bảy tiểu ban của SCNR bao gồm Lập pháp và Tư pháp, Nội Vụ, Ngoại Vụ và Quốc Phòng, Tài chính và Kinh tế, Giáo dục và Xã hội, Vận tải và Truyền thông, Quản lý và Kế hoạch.
Cấu trúc quyền lực được Park xây dựng này đã bị “đảo lộn”. Một mặt, các sĩ quan cấp cao kỳ cựu trong lực lượng quân đội dự bị và thường trực được Park đề cử làm các bộ trưởng nội các nhằm tạo hình ảnh về sự ủng hộ thống nhất của các lực lượng vũ trang Hàn Quốc cho cuộc đảo chính và cũng để chính danh hóa vị trí lãnh đạo của Park Nhóm nòng cốt của cuộc đảo chính, trong đó có Park, đã xác định vai trò của những người này trong quản lý nghiệp vụ-hành chính. Mặt khác, nhóm nòng cốt gồm các sĩ quan cấp trung luôn trung thành với Park và Kim Jong-pil tuy chỉ đưa các thành viên của nhóm vào SCNR do họ có thứ bậc thấp hơn trong quân đội, nhưng họ tự nhìn nhận mình là chủ nhân thật sự của cuộc lật đổ bởi chính các trung tá và đại tá này đã dấy binh và chiếm lấy Seoul ngày 16 tháng 5 năm 1961. Hơn nữa, chính từ sự tự nhìn nhận này, nhóm nòng cốt này đã biến SCNR thành một tổ chức tối cao với quyền chỉ định nội các. Các bộ trưởng không hề có quyền ra quyết định chính trị, mà bị buộc phải làm việc cùng, và thậm chí đôi khi phải làm việc theo các thành viên SCNR, các thuộc cấp quân sự nhưng cũng là cấp trên chính trị của họ. Trong cấu trúc quyền lực song hành này, các sĩ quan SCNR trẻ tuổi tại ngũ có quyền phủ quyết các bộ trưởng nội các trong các lĩnh vực hành chính nhân sự, ngân sách và thiết kế chính sách.
Trong công tác tập trung quyền lực, SCNR đã cử những người được tin là cần thiết cho việc thực thi các chương trình cải cách do nhà nước chỉ đạo, điều này dẫn đến sự tham gia rộng rãi của những người có chuyên môn và các chuyên gia dân sự vào nhiều chương trình của SCNR, từ hoạch định kinh tế và phát triển nông thôn cho đến sửa đổi hiến pháp rồi công tác tổ chức đảng. Những thường dân này tham gia với vai trò cố vấn hơn là người ra quyết định kế cả khi họ nắm giữ các vị trí ra quyết định trong chính phủ.
Cấu trúc quản lý hai tầng với quyền lực tập trung cho các sĩ quan cấp trung đang làm việc cho SCNR tỏ ra có hiệu quả - ít nhất vào nửa cuối năm 1961. Vụ trưởng Bộ ngoại giao Mỹ phụ trách khu vực Viễn Đông, Walter P. McConaughy, trong “Báo cáo tiến độ điều chỉnh về hoạt động tiếp theo đáp ứng khuyến nghị của báo cáo từ Lực lượng Đặc nhiệm Hàn Quốc” ngày 8 tháng 9 năm 1961, đã cho rằng chính quyền quân sự đã tạo được những bước tiến thật sự kể từ cuộc đảo chính tháng 5, trong đó có việc duy trì tỷ giá hối đoái thống nhất ở mức 1.300 hwan trên một đô-la Mỹ, tái cấu trúc ngành công nghiệp năng lượng điện rời rạc và kém hiệu quả thành một doanh nghiệp đại chúng duy nhất, thiết lập cơ sở vật chất cho hoạt động tín dụng tốt hơn, loại bỏ các quy định ngân hàng và các biện pháp kiểm soát giá mang tính chỉ huy kinh tế, thả tự do các doanh nhân hàng đầu của Hàn Quốc đang chịu lệnh giam giữ tại nhà với tội danh tích lũy tài sản vào thời của Lý Thừa Vãn và những hành động cải thiện niềm tin của doanh nghiệp cũng như thúc đẩy nền kinh tế.
Cơ quan Tình báo Trung Ương Hàn Quốc
Ở vị trí thống lĩnh của cuộc cải cách chính sách và tái cấu trúc bộ máy quan liêu là KCIA. Nhiệm vụ trọng yếu của giám đốc cơ quan này, Kim Jong-pil, [41] là củng cố khả năng nắm giữ quyền lực của Park từ bên trong cũng như bên ngoài SCNR và cả nội các. Được mô phỏng theo nhưng có phần cực đoan hơn, Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ và Cục Điều tra Nhật Bản, KCIA được thiết kế không chỉ nhằm thu thập thông tin tình báo về những mối nguy hiểm bên ngoài đối với an ninh quốc gia mà còn nhằm loại bỏ những chướng ngại khi thực hiện “các nhiệm vụ cách mạng” của chính quyền quân sự. Chỉ vừa 35 tuổi vào năm 1961, cao lớn và điển trai, Kim Jong-pil sở hữu một tính cách đầy hấp dẫn cùng lòng hăng hái cách mạng nhiệt thành. Ông được giới quan chức Hoa Kỳ đánh giá là “cực kỳ thông minh” và năng động. Nhưng đồng thời, Hoa Kỳ cũng lấy làm tiếc vì “sự gắn bó của ông ta với cuộc cách mạng”. Theo báo cáo của Berger với cấp trên của ông ta, Kim không chỉ là một thủ lĩnh thông minh, mà chính là “hạt nhân của [cuộc] cách mạng với vai trò người hoạch định, lãnh đạo và quản lý.”
Sau khi Park và Kim Jong-pil nắm được chính quyền vào tháng 5 năm 1961, phương tiện chủ yếu cho hoạt động củng cố quyền lực của họ là KCIA, được thành lập vào ngày 10 tháng 6. [42] Theo Luật số 619, KCIA có quyền “kiểm soát và giám sát cả hoạt động tình báo quốc tế cũng như trong nước, và hoạt động điều tra tội phạm trong thẩm quyền của tất cả cơ quan tình báo chính phủ gồm cả cơ quan tình báo quân đội.” Quyền lực của KCIA cũng đã được tăng cường bằng Luật về Các biện pháp Đặc biệt nhằm Tái thiết Quốc gia. Ban hành vào ngày 6 tháng 6, đây là đạo luật đầu tiên được các lãnh đạo đảo chính thông qua. Được đặt ra với mục tiêu “quy củ hóa, hợp pháp hóa, và làm rõ” hệ thống chính quyền quân sự mới, nó quy định rõ rằng nếu có những điều khoản nào trong Hiến pháp Hàn Quốc đi ngược lại các điều khoản của Luật Các biện pháp Khẩn cấp thì luật có hiệu lực mạnh hơn.
Các biện pháp đứng trên hiến pháp đã được ba thành viên của khóa KMA 8 soạn thảo: Seok Jung-sun, Yi Young-gun và Kim Pyeong-hak Shin Chik Su, một luật sư dân sự, người đã điều chỉnh bản thảo đầu tiên của Luật số 619 và sau đó đã trở thành cố vấn cho Park cũng đồng thời làm cố vấn cho KCIA. Những người mà Kim Jong-pil chọn vào tất cả các vị trí chủ chốt của KCIA đều là những thành viên trong hội kín của ông, ông cẩn thận lựa chọn giám đốc, phó giám đốc và các trưởng phòng cho mỗi trong số sáu cục và sáu bộ phận.
Vào ngày 20 tháng 5 năm 1961, Kim Jong-pil đã họp thông báo cho các thành viên của Ủy ban Cách mạng Quân sự (MRC) biết về cách thức tổ chức và các chức năng của KCIA. Kim cũng giải thích cho các lãnh đạo đảo chính rằng KCIA và các cơ quan đầu não của Phong trào Tái thiết Quốc gia sẽ được chỉ đạo trực tiếp bởi MRC. Cuộc họp thông báo này cho thấy Kim Jong-pil đã được công nhận chính thức là người hoạch định và thực thi công cuộc cải cách của chính quyền quân sự. Song trên thực tế, Kim đã công khai tuyên bố rằng ông là người nắm quyền hoạch định tối cao các đạo luật của SCNR và là kiến trúc sư của cấu trúc quản lý trong SCNR. Hơn nữa, kể cả trước khi thực thi đạo luật KCIA thì phần lớn công tác tổ chức của cơ quan này đã được thiết lập và đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của Kim Jong-pil.
Theo như Choi Young-taek, Cảnh sát Quốc gia là cơ quan đầu tiên báo cáo cho KCIA. Vào ngày 22 tháng 5, KCIA kiểm soát luôn cơ quan tình báo của chính phủ Chang Myon, chính thức được biết đến như là Ủy ban Nghiên cứu Tình báo Trung ương, lãnh đạo là Yi Hu-rak, người sau này sẽ trở thành Tổng tham mưu trưởng của Park. Yi sở hữu những mối quan hệ thân thiết với CIA Hoa Kỳ.
Quyền lực áp đảo của KCIA đã cho phép Kim Jong-pil loại bỏ tướng Chang Do-young ra khỏi vị trí Chủ tịch SCNR để dọn đường cho Park vươn lên đỉnh cao. Cuộc thanh trừng Chang cùng các cộng sự được phối hợp cẩn thận trong thời gian chưa đến 50 ngày sau cuộc đảo chính chứng tỏ Kim Jong-pil đã đạt đến đỉnh cao quyền lực, kiểm soát cả SCNR và nội các cũng như các cơ quan nhà nước và tổ chức tư nhân khác. Chiến lược kiểm soát các cơ quan dân sự cũng khởi đầu với các cuộc thanh trừng. Bộ Nội Vụ, cơ quan đứng đầu rất nhiều tổ chức hành chính kiểm soát chính trị, trong đó có cả cảnh sát, đã chứng kiến một cuộc thanh trừng hàng loạt các công chức cấp tỉnh và cấp địa phương khi Kim muốn kiểm soát bộ máy quan liêu nhà nước và gây ảnh hưởng lên các chương trình kinh tế và chính trị thông qua sự kiểm soát này. Cũng đã có một Đội Hiệp đồng Điều tra thuộc Ủy ban Kiểm tra Vi phạm trong Cơ quan Phục vụ Công quyền của SCNR, cơ quan này cố gắng thiết lập kỷ luật ở các bộ ngành nhà nước. Việc sa thải khoảng 20.000 công chức vào ngày 17 tháng 6 năm 1961 là kết quả hoạt động của đội này.
Sau đó, tuân thủ hướng dẫn 13 điều về cắt giảm công chức mà SCNR mới thông báo, những người “tuổi trên 50” bị đẩy vào cuộc thanh trừng. Vào ngày 20 tháng 7, chính quyền quân sự lên kế hoạch cắt giảm số công chức xuống còn 200.000 bằng cách buộc 40.989 viên chức “dư thừa” phải nghỉ hưu. [43] Chiến dịch thanh trừng này đã không dựa trên bất cứ đánh giá khách quan nào của lực lượng viên chức. Ngược lại, mục tiêu lần đó là thiết lập kỷ luật trong hệ thống công quyền bằng việc biểu dương quyền lực chuyên chế cũng như để đáp ứng yêu cầu của nhà nước về một đợt cắt giảm chi tiêu công. Đến khi Park công khai tuyên bố phải trẻ hóa đất nước bằng một cuộc chuyển giao thế hệ thì cuộc thanh trừng tìm cách thay thế lực lượng lãnh đạo trong bộ máy quan liêu nhà nước. Thế hệ trẻ hơn có lẽ đã càng trung thành hơn với chính quyền quân sự vì nhờ cuộc thanh trừng này mà họ có cơ hội thăng tiến.
Phương thức hành động của Kim Jong-pil cuối cùng đã dẫn đến việc bộ máy quan liêu nhà nước chuyển đổi cấu trúc thành một tổ chức có phong cách quân đội. Chưa đến hai tuần sau đảo chính, tướng Han Sin với vai trò Bộ trưởng Nội vụ đã phổ biến rộng rãi các bản hướng dẫn đến tất cả công chức buộc phải “tuân thủ vô điều kiện” tất cả những mệnh lệnh chính thức và phải hoàn thành tất cả các nhiệm vụ được giao trong khung thời gian đã định. Các bản hướng dẫn 8 điều nghiêm cấm các công chức hút thuốc lá nước ngoài cũng như cấm họ thường xuyên “uống ở các quán rượu”.
Liệu pháp sốc gồm những đợt thanh lọc và bắt giam cũng đã được áp dụng cho các nhóm xã hội. Chỉ một tuần sau cuộc đảo chính, KCIA đã chỉ đạo “chiến dịch làm sạch” toàn diện của SCNR bằng cách bắt giam 51 “kẻ trục lợi bất chính” và “người trốn thuế”, 4.200 “tên du côn” và 2.100 “người có cảm tình với chủ nghĩa cộng sản”. Cũng thời gian đó, SCNR giải tán tất cả đảng phái chính trị và tổ chức xã hội (Sắc lệnh số 6) và cấm các hoạt động tụ tập chính trị trong nhà và ngoài đường. Các phiên xét xử tòa án binh sau đó thậm chí đã đưa ra các hình phạt từ 3 đến 12 tháng tù giam vì tội khiêu vũ trong các vũ trường bất hợp pháp (Sắc lệnh số 1). Khi thực hiện các biện pháp này hằng ngày, MHA [Bộ Nội vụ] đã điều động cảnh sát làm lực lượng giám sát chính thức, việc này làm tăng thêm quyền lực và chức năng của cảnh sát, đặc biệt là chức năng làm công cụ loại bỏ lực lượng chống đối và hỗ trợ việc thực hiện chương trình cải cách của chính quyền quân sự. MHA có khả năng làm được việc này bởi KCIA đã đứng đằng sau để ủng hộ nó. KCIA có khả năng phát triển quyền lực bởi những chiến lược của nó đã được churyu Park-Kim Jong-pil (phái chính thống) đang kiểm soát các lực lượng vũ trang chấp thuận.
KCIA cũng đảm nhận vai trò tuyển mộ những tài năng sáng giá nhất bên trong và ngoài bộ máy nhà nước cho nhiệm vụ xây dựng nhà nước và hiện đại hóa đất nước của phái chính thống. Kim Jeong-ryeom, [44] Oh Won-chul, [45] và Kim Hak-ryeol [46] đều là những ngôi sao giữa các chuyên gia dân sự được tuyển năm 1961. Cũng như hầu hết những thường dân được tuyển khác, họ đang ở đầu độ tuổi 30 với tương lai nghề nghiệp đầy triển vọng trong lĩnh vực của họ. Trừ Kim Hak-ryeol, một công chức chuyên nghiệp, thì Kim Jeong-ryeom và Oh Won-chul đều được chỉ định vào các vị trí trong bộ máy quan liêu nhà nước thông qua hệ thống teuk-chae (chỉ định đặc biệt) hoạt động khác với hệ thống haengsi (thi đầu vào hành chính). Ngay khi được tuyển vào từ bên ngoài bộ máy quan liêu, cả Kim và O đã bị trói chặt vào chủ nhân chính trị của họ, vị Chủ tịch Park của SCNR.
Rõ ràng là chính quyền quân sự cũng tìm cách trẻ hóa hệ thống haengsi vào năm 1961 bằng cách tăng số lượng thí sinh được nhận nhằm chọn được những người giỏi nhất của thế hệ trẻ đang ở đầu độ tuổi 20 có bằng cao đẳng và đại học vào bộ máy quan liêu nhà nước cấp trung và thông qua việc thành lập một Bộ Tác nghiệp Chính phủ (MGA) mới để tổ chức đề bạt dựa trên tài năng thay vì dựa trên thâm niên theo truyền thống. [47] Tuy nhiên, vì phải mất thời gian để các quan chức haengsi trẻ tuổi vươn lên trong cấu trúc thứ bậc nên chính các quan chức “được chỉ định đặc biệt” teuk-chae từ Ngân hàng Hàn Quốc, các doanh nghiệp tư nhân, và giới học giả cùng với rất nhiều công chức chuyên nghiệp như Kim Hak-ryeol sẽ trở thành hạt nhân của nền kỹ trị mới trong phần lớn thời gian những năm 1960. Các nhà quản lý chuyên nghiệp này tự do chuyển từ bộ này đến bộ khác, mỗi lần chuyển lại được thăng cấp cho đến khi họ được chỉ định làm thành viên Ban thư ký Tổng thống hay bộ trưởng. Kim Jeong-ryeom, một nhà quản lý tài khóa sáng giá, là ngôi sao của các ngôi sao, giữ chức Thứ trưởng MoF và Bộ trưởng MCI trong phần lớn giai đoạn 1962-1968. [48] Ông ta sau này trở thành Chánh văn phòng lâu năm nhất (1968-1978) dưới thời Park
Tuy nhiên, nỗ lực của KCIA nhằm kiểm soát cộng đồng doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn hơn và mất nhiều thời gian hơn bởi cộng đồng này có những nguồn lực để tạo ra sự tăng trưởng kinh tế mà nhóm Park-Kim Jong-pil khao khát có được. Hơn nữa, điều này buộc cộng đồng doanh nghiệp phải đi theo định hướng mong muốn của chính quyền quân sự đòi hỏi các biện pháp pháp lý phức tạp và các hành động chính sách chính xác về mặt kỹ thuật. Những cố gắng kiểm soát được khởi đầu với việc thiết lập một Ủy ban Truy tố Trục lợi Bất chính vào ngày 28 tháng 5 năm 1961 gồm bẩy người với chủ tịch là Thiếu tướng Yi Chu-il. Park, cũng như nhiều thủ lĩnh đảo chính khác, ban đầu xem chaebol (các tập đoàn gia đình khổng lồ) không hơn gì “lũ sói lang tham lam cực độ” đáng phải bị “trừng trị thích đáng... nhân danh quốc gia”, vì tội lợi dụng quyền lực trên thị trường độc quyền để giành lấy các giấy phép, khoản vay ngân hàng và viện trợ Mỹ dưới thời Lý Thừa Vãn. [49] Sau khi thông qua Biện pháp Đặc biệt Kiểm soát Trục lợi Bất chính, hơn một tá các doanh nhân hàng đầu, trong đó có Jeong Jae-ho, Yi Jeong-lim và Namgung Ryeon đều bị KCIA bắt với tội danh “những kẻ trục lợi bất chính và trốn thuế", rồi sau đó phải giao nộp lợi nhuận phi pháp và phải trả mọi khoản thuế chưa nộp cuối kỳ cộng với những khoản phạt trong thời hạn sáu tháng. Bằng cách xác lập một quy trình thanh toán khó khăn mà nếu được thực hiện sẽ khiến nhiều chaebol phá sản thật sự và phải xung công quỹ toàn bộ tài sản của họ, SCNR hy vọng sẽ ở thế trên cơ trong các cuộc đàm phán sắp tới với các chaebol về các điều kiện chính trị và kinh tế để các tập đoàn tham gia vào phát triển kinh tế.
Chính Yi Byeong-cheol, ông chủ-giám đốc của Samsung, chaebol lớn nhất Hàn Quốc, là người đã khởi động các cuộc đàm phán. Yi đã thoát khỏi vụ bắt bớ vì ông ở Tokyo vào thời gian đảo chính. Vào ngày trước khi trở về Seoul, Yi Byeong-cheol “tình nguyện” đóng góp toàn bộ tài sản của mình cho chương trình tái thiết quốc gia của SCNR. Ông nhớ lại rằng, ông đã tưởng sẽ phải đi tù như những người trục lợi bất chính và trốn thuế khác khi về đến sân bay Kimpo. Ông quả thật đã bị bắt nhưng chỉ bị quản thúc tại gia. Ngày 14 tháng 7, ông và các ông chủ-giám đốc các chaebol khác được trả tự do sau khi ký vào một cam kết “tình nguyện đóng góp” toàn bộ tài sản cho SCNR khi cần để “xây dựng quốc gia”. Tuy nhiên, khi được trả tự do, các lãnh đạo doanh nghiệp đã quay lưng, dao động, nài nỉ và thậm chí là chống đối. Vấn đề mà họ quan tâm nhất là các quy định về cách tính thuế và các khoản tiền phạt. Cộng đồng doanh nghiệp lập luận rằng họ có “quá ít tài sản có tính thanh khoản và do đó không có khả năng chi trả [tiền phạt] trong thời gian ngắn như vậy”. Nhiều người than phiền rằng họ thậm chí còn không có đủ tiền để vận hành doanh nghiệp và bù đắp các chi phí cho hoạt động sản xuất hàng hóa. Đại sứ Mỹ Berger cay đắng nhận ra các chaebol “đang đình công” để thương lượng được những quy định nhẹ nhàng hơn cho các khoản phạt và cách tính thuế; việc này đe dọa đến nền kinh tế trong nước vốn trì trệ. Bị xúc phạm bởi sự phản kháng từ cộng đồng doanh nghiệp, một số thành viên của SCNR, đặc biệt là các sĩ quan cấp tá trẻ tuổi của khóa KMA 8, thậm chí đã đề nghị kết án tử hình “những kẻ trục lợi bất chính”. Park cũng căm ghét các chaebol. Khi trò chuyện với Berger, ông khẳng định rằng “Chính phủ đã đi hơn nửa tiến trình để thỏa hiệp [về] cách tính [thuế] mà chúng vẫn không thỏa mãn. Khi còn trong tù, những doanh nhân [này] thừa nhận cuộc cách mạng đã cứu thoát [Nam] Hàn khỏi tình trạng hỗn loạn và chủ nghĩa cộng sản nên đã hứa hẹn sẽ chiến đấu, đổ máu, hy sinh cho [Nam] Hàn và cuộc cách mạng, và thậm chí giao nộp toàn bộ tài sản của họ. Đến khi ra tù thì chuyện cũ lại lặp lại: Chứng sử dụng mọi chiêu thức để né tránh việc hoàn trả các khoản lợi phi pháp và chúng [hiện] đang lợi dụng Đại sứ quán Hoa Kỳ để bảo lãnh cho chúng.”
Berger dường như đã rất cố gắng để giải thích cho Park về những hệ quả khủng khiếp của cái mà ông gọi là “mối quan hệ bất hòa giữa [chính phủ Hàn Quốc] và vài chục các nhà công nghiệp chủ chốt đang thống trị nền kinh tế Hàn Quốc, những người duy nhất hiện có đủ năng lực để kiểm soát và vực dậy những nền công nghiệp này”. Berger một mực buộc Park phải thay đổi chiến lược bởi “nếu cuộc đình công [của doanh nghiệp] tiếp diễn chỉ trong vài tháng thì nó sẽ gây tổn thất cho đất nước gấp nhiều lần [số tiền] 35 triệu đô-la Mỹ” mà chính quyền quân sự đã tính toán là tổng số thuế các chaebol phải nộp. Phí tổn dự tính của lượng hàng hóa và tiền bị thiệt hại buộc Park phải tiến đến thống nhất với các doanh nghiệp lớn. Đồng thời, Berger cũng cảnh báo cộng đồng doanh nghiệp “không được đẩy vị thế độc quyền của họ đi quá xa” và phải đạt được một thỏa hiệp với chính quyền quân sự. Nếu không thì, Berger kết luận, tình trạng bế tắc “rất có thể sẽ kết thúc bằng việc quốc hữu hóa”.
Vào tháng 7 năm 1961, dưới sự chỉ đạo của SCNR, 12 doanh nhân hàng đầu, trong đó có Yi Byeong-cheol, đã thành lập nên Liên đoàn Lãnh đạo Doanh nghiệp Hàn Quốc, viết tắt là FKI, (Hanguk kyeongjein hyeophoe). [50] Động thái đầu tiên của FKI là thỏa thuận với SCNR rằng trước tiên họ sẽ xây dựng những nhà máy thuộc sở hữu của họ nhưng được SCNR hoạch định và giao phó, rồi sau đó sẽ trả các khoản tiền phạt và các khoản thuế chưa nộp bằng cách đóng góp một số lượng cổ phần trong các công ty mới xây dựng của họ cho SCNR. [51] Rõ ràng là lời khuyên của Berger dành cho Park đã có tác dụng. Chính quyền quân sự kéo dài thời hạn cho các khoản thanh toán và chấp nhận các khoản nộp thuế dưới hình thức cổ phần. Bằng cách này, SCNR đã buộc các chaebol cam kết đầu tư vào các dự án công nghiệp con cưng của chính quyền quân sự. Sáu ngành công nghiệp — xi măng, sợi tổng hợp, điện, phân bón, sắt và dầu hỏa - được xác định là những động cơ cho tăng trưởng kinh tế trong Kế hoạch Phát triển Kinh tế 5 năm (FYEDP) đầu tiên. Ngoại trừ ngành lọc dầu được nhà nước quản lý trực tiếp, trách nhiệm xây dựng 5 ngành công nghiệp còn lại được phân chia giữa 13 thành viên của FKI. Đối với các chaebol, sự thỏa hiệp này đã đem đến những cơ hội mới cho doanh nghiệp tăng trưởng với vai trò người thực hiện các dự án công nghiệp của chính quyền quân sự. Do đó vấn đề trục lợi bất chính và trốn thuế đã tạo điều kiện thiết lập một liên minh quân đội -chaebol mới phục vụ tăng trưởng kinh tế và mở rộng doanh nghiệp.
Tuy vậy, mối quan hệ giữa chính quyền quân sự và các chaebol nhanh chóng trở nên xấu đi khi KCIA bắt giam nhiều thành viên của Ủy ban Truy tố Trục lợi Bất chính của SCNR với tội danh thiên vị một số ông chủ-giám đốc chaebol ở các tỉnh miền Bắc. Cuộc bắt bớ các thành viên tiểu ban là một phần trong động thái của Kim Jong-pil nhằm triệt tiêu các kênh cung cấp nguồn quỹ chính trị cho phái miền Bắc trong SCNR có xuất xứ từ khu vực này. Phái miền Bắc áp đảo trong tiểu ban này, chiếm ba trong số sáu ghế thành viên. Chủ tịch tiểu ban, Thiếu tướng Yi Chu-il cũng đến từ khu vực Hamgyeong và đồng thời cũng là Phó chủ tịch SCNR.
Sự kiện này không chỉ cho thấy sự chia rẽ đang lớn dần giữa một bên là phái chính thống Park Chung Hee-Kim Jong-pil của các tỉnh Gyeongsang và Chungcheong và bên kia là tướng lĩnh của các tỉnh miền Bắc mà còn cả sự cạnh tranh giữa các ông chủ-giám đốc chaebol cũng phân chia theo kiểu Bắc-Nam. Phiên xét xử quân sự sau đó đã dịch chuyển cân bằng quyền lực về phía phái chính thống Park-Kim. Các ông chủ chaebol từ vùng Hamgyeong, như Seol Kyeong-dong, Yi Yang-gu và Kim Yeon-jun, đã bị quy kết là phạm tội hối lộ các điều tra viên và kết cục không được chính quyền hỗ trợ cho các dự án công nghiệp của họ. Ngược lại, các ông chủ chaebol miền Nam, bao gồm Yi Byeong-cheol và Jeong Jae-ho được giảm một khoản khổng lồ trong sổ tiền phạt ban đầu của họ. Khi tiến trình này tiếp diễn, Đại tá Yu Won-sik, một thành viên của Ủy ban Truy tố Trục lợi Bất chính và cũng là một nhân vật chủ chốt trong Tiểu ban Thương mại và Công nghiệp SCNR, đã trở thành phát ngôn viên cho phái chính thống. Dù thất bại trong nỗ lực loại bỏ Yi Chu-il do niềm tin vững chắc của Park vào vị tướng này [52] nhưng Kim Jong-pil đã thành công khi hạ thấp tín nhiệm và làm suy yếu phái miền Bắc cũng như đã lấp đầy khoảng trống quyền lực khi bổ nhiệm nhiều bạn đồng môn KMA của mình. Ít nhất, đợt trấn áp này đã khiến mọi thành viên của SCNR phải dè chừng KCIA và từ đó đưa Kim Jong-pil đến gần hơn với mục tiêu trở thành người kế nhiệm Park.
Một sản phẩm phụ từ quá trình củng cố quyền lực xung quanh KCIA với sự suy thoái của SCNR là tình trạng rối loạn chính sách. Thẩm quyền của các bộ trưởng trong nội các bị thu hẹp do những yêu cầu về quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp từ SCNR, và từ đó xuất hiện tình trạng căng thẳng trong các thành viên SCNR khi KCIA kiểm soát nhiều chương trình cải cách của SCNR. Thậm chí đến việc tuyển mộ những cố vấn dân sự và cố vấn học thuật vào SCNR để phục vụ nhiệm vụ hỗ trợ Phong trào Tái thiết Quốc gia 1961-1962 cũng bị KCIA chi phối. Hơn thế nữa, cơ quan tình báo này thường xuyên loại SCNR ra khỏi các chương trình cải cách quan trọng.
KCIA luôn có thể nắm giữ các vai trò chính sách không ngừng mở rộng bởi tổ chức này sở hữu một nhóm cố vấn cao cấp thuộc Viện Nghiên cứu Chính sách, gần giống với Ủy ban Kế hoạch của SCNR, để cố vấn cho Kim Jong-pil về những vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa, pháp luật và tái thiết. Trái ngược với Ủy ban Kế hoạch của SCNR sử dụng rất nhiều các giáo sư đại học danh tiếng như Yu Jin-oh, Choi Ho-jin, Park Chong-hong và Yi Man-gap, Viện Nghiên cứu Chính sách của KCIA lại đề cử những chuyên viên và chuyên gia đang ở giữa giai đoạn phát triển sự nghiệp và thậm chí trẻ hơn nữa, trong số đó có Kim Jeong-ryeom, Park Kwan-suk, Yun Cheon-ju, Kim Seong-hui và Yi Jong-guk, bên cạnh một nhóm đông đảo hơn gồm những nhân vật lừng danh như Choi Kyu-ha, một nhà ngoại giao lão luyện. KCIA, với sự tin tưởng của Park, công tác tổ chức chặt chẽ của những thành viên khóa KMA 8 đang làm việc ở đó, nguồn nội lực khổng lồ và vị lãnh đạo có đầu óc chiến lược Kim Jong-pil, đã nhanh chóng thay thế vai trò của Ủy ban Kế hoạch của SCNR và kiểm soát hoạt động hoạch định chính sách của chính quyền quân sự. Ủy ban Kế hoạch SCNR giờ bị xem là một cơ quan thừa thãi và sẽ sớm bị loại bỏ.
Trong lộ trình cải cách hành chính và thay đổi chính sách, sự chi phối của KCIA đem tới nhiều khó khăn chính trị cho Park bao gồm áp lực lớn từ Đại sứ Berger buộc phải hạn chế vai trò của KCIA, đặc biệt là ảnh hưởng của Kim Jong-pil. Tuy nhiên Park tiếp tục phụ thuộc nhiều vào Kim Jong-pil và KCIA của ông này để đẩy mạnh cải cách. Park làm như vậy bởi không còn nhân vật tham gia đảo chính nào khác có được tầm nhìn, chiến lược và năng lực tổ chức như Kim Jong-pil. Hơn nữa, do trẻ hơn đến một thế hệ, Kim Jong-pil không phải là mối đe dọa cho vị trí lãnh đạo của Park lúc bấy giờ.
Theo Yi Seok-je, Chủ tịch Tiểu ban Lập pháp và Tư pháp của SCNR, chương trình cải cách hành chính của chính quyền quân sự ban đầu được một nhóm sĩ quan cấp tá trẻ tuổi thân Kim Jong-pil chuẩn bị, bao gồm cả Kim. Vào đầu năm 1961, như một phần trong quá trình chuẩn bị cho cuộc đảo chính, các sĩ quan này đã bắt đầu thu thập các ý tưởng về chính sách để sẵn sàng cho một cuộc cải cách hành chính chính quyền toàn diện, trong số các ý tưởng có việc áp dụng hiến pháp khẩn cấp, hoạt động soạn thảo luật SCNR, và phiên xét xử những kẻ trục lợi bất chính và trốn thuế. [53] Mục tiêu của sự chuẩn bị này là để thông qua thật nhiều đạo luật cải cách trong 100 ngày đầu tiên của chính quyền quân sự với tốc độ chóng mặt nhằm tạo ra sự khác biệt giữa chính quyền quân sự “hiệu quả” so với chính phủ Chang Myon bè phái vô năng và để xây dựng sự ủng hộ của quần chúng bằng một hình ảnh về chính phủ “quyết chí ắt làm nên”. Trong 100 ngày đầu tiên sau cuộc đảo chính, phái chính thống Park-Kim đã áp dụng một loạt các biện pháp đặc biệt, trong số đó có Thiết quân luật (ngày 16 tháng 5), Biện pháp Thanh lọc Báo chí (ngày 23 tháng 5), Kế hoạch Thanh toán Nợ vay Nặng lãi ở Nông thôn (ngày 25 tháng 5), Luật Về Các biện pháp Đặc biệt Tái thiết Quốc gia (ngày 6 tháng 6), Luật Hội đồng Tối cao Tái thiết Quốc gia (ngày 7 tháng 6), Luật Chuyển giao Tài sản Bất chính (ngày 10 tháng 6), Các biện pháp Kinh tế Khẩn cấp để Khôi phục Công nghiệp (ngày 18 tháng 7) và Sơ lược về Kế hoạch Phát triển Kinh tế 5 năm cũng như thành lập Ban Kế hoạch Kinh tế (ngày 22 tháng 7).
Một số trong những biện pháp này, chẳng hạn như Thiết quân luật, luật SCNR và luật KCIA, đã được chuẩn bị bởi những người tổ chức đảo chính từ trước khi tiến hành cướp chính quyền. Những biện pháp khác, như EPB và Luật cải cách tiền tệ, được soạn thảo khi họ hợp tác với những quan chức có đầu óc cải cách sau khi kiểm soát quyền lực và cơ quan nhà nước. Con đường “cách mạng” của chính quyền quân sự mang tính mò mẫm nhiều hơn nhưng nhờ đó đã bổ sung thêm các ý tưởng và chiến lược thú vị của bộ máy quan liêu nhà nước, doanh nghiệp lớn và giới học giả vào những mong muốn của chính quyền. Chính quyền quân sự, dù không hề có một kế hoạch toàn diện nào vào lúc lật đổ Chang Myon, đã tiến hành các cải cách trong khi các thành viên của nó học hỏi thêm về tính phức tạp của việc quản lý và phát triển. Điều không kém phần quan trọng là họ chỉ học được những gì họ muốn: nghệ thuật và kỹ thuật để kiểm soát các cơ quan quyền lực. Phải làm gì với những cơ chế kiểm soát đó thì vẫn chưa rõ ràng hoặc, chính xác hơn, sẽ được phân định bằng những cuộc đấu tranh quyền lực, thử nghiệm và học hỏi, đặc biệt trong lĩnh vực phát triển kinh tế và hiệu quả quản trị. Theo Yi Seok-je nhớ lại vào năm 1995, lịch sử của chính quyền quân sự là một “quá trình thử và sai liên tục”, bởi nhiều chương trình cải cách lại mâu thuẫn lẫn nhau hoặc chưa được định hình rõ rệt dẫn đến những thất bại ê chề, mặc dù chúng đều được thúc đẩy bởi ý muốn củng cố quyền lực.
Tuy nhiên, cuối cùng thì các kết quả chính sách yếu kém cũng đe dọa đến niềm tin vào chính quyền quân sự như là một lực lượng chính trị “quyết chí ắt làm nên” và gây nguy hại đến tính chính danh dựa trên thành quả, điều này khiến việc học hỏi cách tạo ra chính sách hiệu quả trở thành một vấn đề sổng còn đối với các lãnh đạo cuộc đảo chính. Chính quyền quân sự phát hiện ra rằng các chương trình của nó mâu thuẫn với nhau ngay từ những tháng đầu tiên của cuộc cải cách. Ví dụ, việc tiến hành FYEDP lần thứ nhất đòi hỏi sự hợp tác từ chaebol, nhưng chiến dịch chỉnh đốn lịch sử lại buộc phải bắt giam hầu hết các ông chủ chaebol vì tội danh trục lợi bất chính và trốn thuế. Sự hợp tác của những doanh nhân trong các dự án FYEDP đầu tiên chỉ chắc chắn khi chính quyền quân sự thừa nhận sai lầm và giảm các mức phạt đồng thời chấp nhận những điều kiện thanh toán linh động và dễ chịu hơn. Tuy nhiên lực lượng nòng cốt của của KCIA vẫn chưa học hỏi đủ vì như vào tháng 6 năm 1962, khi nghĩ rằng họ đang phải chịu áp lực nặng nề buộc phải vận động được các nguồn quỹ chính trị hoặc phải biểu dương tinh thần “quyết chí ắt làm nên” trong cuộc đối đầu ầm ĩ với các đối thủ công nghiệp, họ một lần nữa sử dụng chính sách rất rủi ro về mặt kinh tế và đẩy nền kinh tế Hàn Quốc đến bờ vực sụp đổ. Chỉ sau thất bại chính sách nhục nhã đó thì Park mới buộc KCIA rút khỏi lĩnh vực kinh tế và ngân sách để tập trung vào chính trị.
Bộ máy quan liêu kinh tế
Đối lập với hình tượng về sau này của Park như là một nhân vật đổi mới và hiện đại hóa, lịch sử chính sách kinh tế của chính quyền quân sự không hề góp phần vào sự phát triển. Từ các cuộc đấu tranh quyền lực bên trong SCNR đầy chia rẽ đến tình trạng triệt tiêu quyền hạn nội các do các cấu trúc quyền lực “đảo lộn” của chính quyền quân sự và việc KCIA lợi dụng chính sách kinh tế để thực hiện củng cố quyền lực hơn là tăng trưởng kinh tế, tất cả kết thúc bằng việc hạ thấp vai trò của các bộ ngành kinh tế và tính duy lý kỹ trị của các bộ này. Chỉ đến khi vai trò kinh tế của KCIA hoàn toàn bị mất tin tưởng (tháng 6 năm 1962), tất cả các đối thủ tiềm năng của Park bị loại khỏi SCNR (tháng 3 năm 1963) và Park được chính danh hóa thông qua bầu cử (tháng 10 năm 1963) thì Park mới có thể theo đuổi các nguyên lý duy lý kỹ trị trong hoạch định chính sách kinh tế. Cho đến khi các mối đe dọa đến quyền lực của ông được giải tỏa bằng các cuộc thanh trừng và bầu cử, Park vẫn là một nhà chính trị chứ không phải kỹ trị trong cách tiếp cận các vấn đề hàng ngày, ông ra quyết định hầu như chỉ trên cơ sở cân nhắc xem các lựa chọn tác động thế nào đến quyền lực của mình.
Tuy nhiên, cũng chính giai đoạn chính quyền quân sự đã đặt nền móng tổ chức cho một nhà nước phát triển thông qua một loạt các thử nghiệm. Có thể nói rằng chính quyền quân sự đã thất bại trong việc thực thi các kế hoạch phát triển nhưng lại thắng lợi trong việc thiết lập các cơ quan quyền lực mà sau này sẽ đóng góp cho sự cất cánh kinh tế khi đã có một chiến lược hiệu quả bắt đầu hình thành. Thử nghiệm về mặt tổ chức quan trọng nhất là việc thành lập Ban Kế hoạch Kinh tế (EPB) vào tháng 7 năm 1961. EPB là sự kết hợp của hai lực lượng: các quan chức cải cách ở các Bộ Tái thiết (MoR) và Bộ Tài chính (MoF) và phái chính thống của Park-Kim trong SCNR. Lúc đó, các nhà cải cách MoR-MoF đang tìm kiếm một người ủng hộ và đồng sở hữu các ý tưởng thành lập một bộ tối cao để ngăn cản những thất bại kế hoạch đã từng xảy ra trong chế độ Lý Thừa Vãn, trái lại SCNR đang thật sự cần một cơ quan có khả năng chuyển đổi các mục tiêu to tát của họ thành những nhóm mục tiêu và chiến lược đơn giản có tính khả thi và bên cạnh đó có thể đẩy nhanh quá trình xây dựng các phương pháp tiếp cận chính sách mới. SCNR nhận thức được rằng họ cần nhiều hơn là chỉ năng lực và kinh nghiệm tổ chức quân sự để phát triển nền kinh tế Hàn Quốc. Nhu cầu tuyển mộ nhân tài dân sự là cực kỳ cấp thiết để thiết kế và thực hiện Kế hoạch Phát triển Kinh tế 5 năm đầu tiên đang trở thành tâm điểm trong chính sách ngân sách, tiền tệ, tài khóa và công nghiệp của chính quyền quân sự. Với vai trò của một bộ tối cao, EPB đảm nhận trách nhiệm hoạch định kinh tế. Nhằm giao cho hội đồng quyền hạn thực thi các kế hoạch, EPB tiếp nhận các quyền điều hành ngân sách, thẩm quyền cấp vốn nước ngoài và các nhiệm vụ thống kê từ Cục Ngân sách của MoF và Cục Thống kê của MHA. Kim Yu Taek, lúc đó đang là Bộ trưởng Tài chính và nguyên Giám đốc Ngân hàng Hàn Quốc, đã trở thành Bộ trưởng đầu tiên của EPB vào ngày 22 tháng 7 năm 1961, chỉ mới một tháng sau thông báo bổ nhiệm ông làm Bộ trưởng Tài chính. [54]
Dù năng lực lãnh đạo của Kim Yu Taek không thật sự tốt nhưng ông hiểu được tính phức tạp của các vấn đề kinh tế nhờ kinh nghiệm làm việc trong ngân hàng và lĩnh vực ngoại giao của mình. [55] Bằng cách đưa Kim Yu Taek thành một trong hai bộ trưởng dân sự được bổ nhiệm vào nội các của chính quyền quân sự, phái chính thống Park-Kim kỳ vọng có thể chứng tỏ cho các chuyên gia dân sự thấy được sự nghiêm túc của họ trong việc thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đầu tiên, FYEDP. Tuy vậy vấn đề phân định quyền lực vẫn đang áp đảo tính duy lý kỹ trị rất rõ rệt khiến Kim Yu Taek không khác biệt nhiều so với các bộ trưởng nội các khác khi ông bị tách khỏi các nhiệm vụ mang tính quản lý, chỉ được thực thi các mục tiêu đã được xác định đâu đó từ trước. Thật sự thì chính Park mới là người đã ra lệnh cho ba nhà kinh tế trẻ - Kim Seong-beom (37 tuổi), Jeong So-young (29 tuổi với một bằng tiến sĩ kinh tế) và Baek Yong-chan (32 tuổi) - soạn thảo nên FYEDP đầu tiên trước cả khi EPB được thành lập. Nhóm này đã hoàn thành bản kế hoạch trong chưa đến 60 ngày, tạo thành một kế hoạch hành động cho Ban Kế hoạch Kinh tế khi ban này được thành lập vào ngày 22 tháng 7. Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất này thường được biết đến với tên gọi Kế hoạch tháng 5 năm 1961, hoặc chính thức hơn là Kế hoạch Toàn diện Phát triển Kinh tế 5 năm.
Kế hoạch tháng 5 năm 1961 có mục tiêu tăng gấp đôi tổng sản phẩm quốc dân Hàn Quốc trong vòng một thập niên bằng cách duy trì tăng trưởng kinh tế ở mức trung bình hàng năm là 7,1%. Với tốc độ tăng trưởng của Hàn Quốc vào năm 1960 là 2,3%, bản kế hoạch này đã bị chỉ trích là quá tham vọng bởi cả nội bộ SCNR và Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Hoa Kỳ đánh giá bản kế hoạch này chỉ là sự vẽ vời đối với các khoản viện trợ của Mỹ khi Park lý giải các mục tiêu này trong lần viếng thăm chính thức của ông tới Washington vào tháng 11 năm 1961.
Kế hoạch FYEDP đầu tiên này được dựa trên nguyên lý mà Park xác định là “chủ nghĩa tư bản có định hướng”. Nhân tố dẫn dắt trong chủ nghĩa tư bản có định hướng là nhà nước, mục tiêu của hoạt động quản lý kinh tế, công nghiệp được lãnh đạo bởi nhà nước được xác định là phải đảm bảo “phân phối công bằng thu nhập và ích lợi xã hội thu được từ nền kinh tế". Đối với Park và nhiều thủ lĩnh đảo chính khác, thách thức lớn nhất khi thực hiện kế hoạch này bắt nguồn từ việc thiếu cơ chế mang tính thể chế để giám sát quá trình huy động vốn, phân bổ nguồn lực và điều phối chính sách trong nhà nước. Kết quả là các nỗ lực cải cách của họ đều tập trung vào việc thiết lập một bộ máy quan liêu nhà nước đủ mạnh để chống lại “áp lực khủng khiếp lên các cơ quan lập pháp và hành chính [từ phía các chaebol ] để làm ra những đạo luật có lợi cho chúng”. Park tin rằng các hoạt động trước đây của chaebol “mâu thuẫn trực tiếp với các hoạt động kinh tế tự do” và là “sự phản bội các nguyên tắc dân chủ”. Khái niệm chủ nghĩa tư bản có định hướng của Park đã được thiết lập để chấm dứt bất cứ hành động gây trở ngại xa hơn nào từ các lãnh đạo chaebol. [56]
Khi Kim Yu Taek hoàn thành sứ mệnh chuẩn bị cho việc tiến hành FYEDP lần thứ nhất vào tháng 3 năm 1962, Park đã bổ nhiệm Song Yo-chan giữ chức Bộ trưởng EPB. Mặc cho sự kiện nghỉ hưu đầy ê chề của Song khi rời khỏi quân đội vào giữa chiến dịch chống tham nhũng của Park và các sĩ quan cấp tá trẻ lãnh đạo ngay sau cuộc Cách mạng của Sinh viên ngày 19 tháng 4, Park vẫn nghĩ rằng Song chính là người thích hợp nhất cho vị trí này vì tiếng tăm về “quyết tâm mạnh mẽ” của ông ta. Park cũng đã thử thách Song bằng cách chỉ định ông vào ghế Thủ tướng từ tháng 7 năm 1961 đến tháng 3 năm 1962. Khi đã hiểu được năng lực của Song có thể thực thi được các định hướng cải cách hành chính của Park với sự trung thành, hiệu quả quân đội và quyết tâm trên cương vị thủ tướng, Park chọn ông làm người thực thi các ý tưởng đã được chuẩn bị bởi Kim Yu Taek. Phong cách lãnh đạo của Song đã biến ông thành kẻ thù của nhiều lãnh đạo trong cuộc đảo chính quân sự, tuy nhiên một bức điện tín của đại sứ quán Hoa Kỳ ngày 8 tháng 12 năm 1961 cho thấy ông đã làm tốt nhiệm vụ và nhờ đó chiếm được lòng tôn trọng từ các quan chức Mỹ. Bức điện tín đã báo cáo tích cực về việc tiến hành các chương trình đ?