← Quay lại trang sách

PHẦN II CHÍNH TRỊ Chương 4 CHIẾN LƯỢC HIỆN ĐẠI HÓA:
TƯ TƯỞNG VÀ ẢNH HƯỞNG
Moon Chung-in & Jun Byung-joon

Rõ ràng, Park là một con người của hành động. Tuy nhiên, không giống như hình tượng được các nhà sử học tô vẽ, ông cũng là một nhà tư tưởng và những gì ông tin tưởng có tác động mạnh mẽ đến Hàn Quốc. Ông pha trộn tư tưởng chỉ huy từ trên xuống của Nhật Bản với các tinh thần kỹ trị của Mỹ vào chủ nghĩa dân tộc Hàn Quốc theo những cách phi Nhật Bản và phi Mỹ nhất để hình thành con đường phát triển kinh tế. Ở vị trí lãnh đạo, Park cùng chia sẻ với các nhà cách mạng thời Minh Trị Nhật Bản, Thanh niên Thổ [Young Turks], [68] Người Đức theo Bismarck [69] về tư tưởng nhà nước chỉ huy thị trường nhằm gấp rút hoàn thiện quá trình phát triển, trái ngược với quan điểm hiện đại hóa của người Mỹ-Anglo chủ yếu tập trung vào các thế lực thị trường và các tiến trình phát triển. Tuy nhiên, cách thức Park kết hợp các tư tưởng của chủ nghĩa trung ương tập quyền, chủ nghĩa trọng thương, chủ nghĩa tập đoàn [70] [corporatism] và chủ nghĩa tự do [liberalism] Hoa Kỳ đã làm nên tư tưởng đặc trưng của riêng ông. Các chiến lược và chính sách mới không phải được hình thành dưới áp lực bên ngoài; chúng chính là sản phẩm của các ý thức hệ, ý niệm và thông tin đã ăn sâu vào bên trong thế giới tinh thần của Park Chung Hee. Dựa trên tầm ảnh hưởng tư tưởng này mà Park đã thai nghén, định hướng và dẫn dắt toàn bộ quá trình hiện đại hóa của Hàn Quốc vào những năm 1960 và 1970.

Trên mặt trận kinh tế, Park áp dụng chiến lược chủ nghĩa dân tộc kinh tế với sự kết hợp của biện pháp bảo hộ nhập khẩu, chính sách công nghiệp, và thúc đẩy xuất khẩu để chuyển đổi nền công nghiệp sơ khai thành một cỗ máy tăng trưởng cạnh tranh toàn cầu. Để loại bỏ những rào cản từ xã hội và huy động được những nguồn lực khan hiếm cho con đường phát triển kinh tế dưới sự chỉ huy nhà nước, chiến lược chính trị của ông tập trung vào nền dân chủ có định hướng và chủ nghĩa tập đoàn nhà nước [state corporatism] mà ở đó cả xã hội dân sự và xã hội chính trị đều được nhà nước sắp xếp lại, kiểm soát và điều phối để đảm bảo mục tiêu hiệu quả, ổn định và an ninh chế độ. Chiến lược hiện đại hóa xã hội của ông bổ trợ cho các chiến lược kinh tế và chính trị bằng cách xác định người dân Hàn Quốc như là những mục tiêu của cuộc cải cách tư tưởng và của công cuộc huy động nguồn lực cho nhà nước. Xã hội dân sự đã được tổ chức lại và được điều động để đảm bảo sự hòa hợp quốc gia và thịnh vượng kinh tế bên cạnh những tư tưởng về trật tự, kỷ luật và chủ nghĩa tập thể của quân đội. Ba chiến lược về chủ nghĩa dân tộc kinh tế, dân chủ có định hướng và huy động xã hội nghiệp đoàn đã làm cho công cuộc hiện đại hóa của Park trở thành một ví dụ cổ điển nhưng nổi bật về “cách mạng từ bên trên”, khai thác được yếu tố mà Alexander Gerschenkron đã có lần gọi là “lợi thế của việc phát triển muộn” để vượt qua các nước phát triển ở thị trường quốc tế và bắt kịp tiến độ hiện đại hóa.

Rõ ràng là các chiến lược hiện đại hóa ba nội dung của Park chỉ là những động thái phản ứng để giải quyết tình trạng kém phát triển của Hàn Quốc. Sự lựa chọn mục tiêu và chiến lược của ông cũng bị giới hạn bởi các lợi ích xã hội thống trị đang làm nền móng cho các động lực của liên minh và các cấu trúc quyền lực nhà nước-xã hội. Một mặt, Park cũng như Lý Thừa Vãn và Chang Myon trước đó, phải đối mặt với bối cảnh đất nước đang khắc khoải mong chờ một lãnh tụ có thể bảo vệ an ninh quốc gia trước các mối đe dọa từ Triều Tiên, đảm bảo thịnh vượng kinh tế, phúc lợi xã hội và xây dựng được một hệ thống chính trị có thể đứng vững. Mặc dù vậy, những nhiệm vụ này tự chúng không quyết định được nội dung trong phương thức hiện đại hóa của Park. Các lợi ích xã hội và các động lực của liên minh cũng không thể lý giải hết được các quyết định chính trị của ông. Chúng chỉ khoanh vùng những lựa chọn chiến lược chứ không định hình các quyết định của ông trong vùng lựa chọn đó. Với nỗi ám ảnh cực đoan về quyền lực từ vị trí tổng thống toàn quyền ở Hàn Quốc, chính Park là người đã xác lập ra các chương trình nghị sự chính sách, định hình đặc điểm xã hội, chính trị và thay đổi cách thức Hàn Quốc tương tác với các thị trường toàn cầu thông qua việc tạo lập một liên minh mới bao gồm nhà nước, các doanh nghiệp lớn, giới kỹ trị hàn lâm và các nông dân nhỏ bé bất chấp thiệt hại của giới công nhân.

Trong suốt 18 năm cầm quyền, Park luôn ngự trên đỉnh cao quyền lực. Các giới hạn bên ngoài và bên trong đối với mưu đồ của ông là rất đáng kể, tuy nhiên Park chỉ xem chúng như những trở ngại phải vượt qua, khống chế và cuối cùng là tổng kết thành các giới hạn chính sách. Chúng hiếm khi có thể ngăn cản ông đạt được mục tiêu. Các trở ngại thật sự đã thay đổi được những động thái, chính sách và chiến lược của ông, nhưng mục tiêu cuối cùng pu-kuk kang-byeong (“nước giàu, quân mạnh”) thì không. Dưới chế độ tổng thống toàn quyền, việc những ưu tiên, tư tưởng và phong cách lãnh đạo cá nhân của riêng Park được phản ánh vào bản chất và định hướng chiến lược hiện đại hóa cũng là điều dễ hiểu. Ví dụ, nếu không xét đến tinh thần sẵn sàng chấp nhận rủi ro và mục tiêu suốt đời của ông là muốn thay đổi Hàn Quốc thành một Nhật Bản thứ hai thì sẽ rất khó có thể lý giải được tốc độ tập trung nhanh chóng các nguồn lực khan hiếm vào một số rất ít những dự án công nghiệp hóa ngành công nghiệp nặng và công nghiệp hóa chất (HCI) đầy rủi ro của Hàn Quốc. Yếu tố thật sự quan trọng tạo ra giai đoạn cất cánh kinh tế đột ngột ở đất nước Hàn Quốc bị kiệt quệ sau chiến tranh chính là tầm ảnh hưởng của những tư tưởng đã định hình nên niềm tin có ý thức nơi Park. Như nhiều nhà phân tích đã lập luận, các tư tưởng ăn sâu vào ý thức hệ, trí tuệ và ý niệm không chỉ dẫn dắt quá trình ra quyết định các biện pháp chính sách của các nhà lãnh đạo để giải quyết các khó khăn đang tồn tại mà còn cho họ khả năng truyền bá tư tưởng và vận động quần chúng. Trên thực tế, các nhà lãnh đạo luôn có xu hướng thấy những gì họ muốn thấy. Những tư tưởng, ưu tiên chính sách và các lựa chọn chiến lược đều bị giới hạn bởi phạm vi bản thể luận của họ. Yếu tố phức tạp trong tư duy này không chỉ đơn thuần là phép cộng các đặc trưng tính cách cá nhân. Hơn thế, yếu tố này có một sự hòa quyện phức tạp với cấu trúc và cách tổ chức của riêng nó và điều này nhất thiết phải được xem như một hệ thống.

Cấu trúc tư tưởng của Park khá phức tạp gồm một tầng với ba tư tưởng, ý niệm có đôi khi bổ sung lẫn nhau nhưng lại có khi tương phản. Mặc dù mối liên kết giữa ông và Nhật Bản đã định hình nên nền tảng cho chiến lược hiện đại hóa nhưng chủ nghĩa dân tộc Hàn Quốc mới chính là động lực định hướng chính yếu. Nhân tố Mỹ cũng trở thành một nguồn cơ hội và hạn chế vô tận có ảnh hưởng quan trọng đến động lực của chiến lược hiện đại hóa.

Đặc trưng Nhật Bản

Park Chung Hee, người mang tên “Nhật Bản” là Takagi Masao trong giai đoạn thực dân, chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi những di sản thực dân và quân sự Nhật Bản. [71] Đại sứ Okazaki Hihahiko đã thương tiếc nói về cái chết của Park vào năm 1979 là “sự ra đi của người lính Hoàng gia Nhật Bản cuối cùng.” Điều này không hề là một lời phóng đại. Sinh ra dưới thời kỳ thực dân Nhật, ông thụ hưởng nền giáo dục Nhật Bản suốt những năm tháng thanh niên, được hấp thụ những học thuyết giáo dục hoàng gia tôn vinh Thiên hoàng Nhật Bản và tuyên truyền rằng người Hàn Quốc phải trung thành với hoàng gia. Sau khi giảng dạy chỉ một thời gian ngắn, ông thay đổi nhiều nghề và trải qua hai năm ở Trường Sĩ quan Tân Kinh Mãn Châu, đơn vị đào tạo sĩ quan cho quân đội Mãn Châu Quốc với phần lớn là người Trung Quốc trong lực lượng sĩ quan và các cấp bậc của quân đội này. Là một trong những học viên đứng đầu lớp, ông được học hai năm cuối trong số bốn năm giáo dục bậc cao tại Học viện Quân sự Nhật Bản (JMA) danh giá ở Zama với tư cách là học viên của khóa ryugakuseo (khóa 11) Mãn Châu Quốc tốt nghiệp chung với khóa JMA 57 vào năm 1944. Park tự hào là một học viên tốt nghiệp từ học viện này và đã công khai ủng hộ tinh thần kỷ luật, lãnh đạo và trung thành của học viện. [72] Nền giáo dục Nhật Bản đã định hình tính cách và nhân sinh quan của ông. Ông đặc biệt chú trọng đến chi tiết, tính chính xác, lòng quyết đoán và ủng hộ mạnh mẽ cho sự hy sinh bản thân vì dân tộc. Về khía cạnh tinh thần, Park hoàn toàn theo chủ nghĩa quân phiệt theo phong cách Nhật Bản vào những năm 1930 và đầu những năm 1940.

Đặc trưng Nhật Bản trong Park có ảnh hưởng đến chiến lược hiện đại hóa của ông ở ba phương diện quan trọng. Đầu tiên là lòng ngưỡng vọng ông dành cho Tái thiết Minh Trị (1867/68-1912) và việc ông kết hợp những nguyên lý của thời đại đó như fukoku kyohei (“nước giàu, quân mạnh”) và shokusan kogyo (“phát triển sản xuất”) vào chương trình hiện đại hóa của mình. Sự nổi lên của một tầng lớp quý tộc đang hiện đại hóa, sự tan rã các nền tảng quyền lực cũ, và việc đặt quân đội và nền sản xuất công nghiệp dưới sự chỉ huy của nhà nước, tất cả đều là dấu hiệu đặc trưng của Tái thiết Minh Trị, đã trở thành ưu tiên trong công tác quản lý chính trị và kinh tế của Park. Các khẩu hiệu cho kế hoạch hiện đại hóa của Park cũng phỏng theo những khẩu hiệu của Tái thiết Minh Trị. Nhà nước Hàn Quốc kêu gọi “phát triển sản xuất, xuất khẩu và xây dựng”, thúc đẩy “một mặt là xây dựng và mặt khác là quốc phòng” và rao giảng về phẩm hạnh của “tinh thần đạm bạc, cần cù và tiết kiệm.” Khi Park sang thăm Nhật Bản vào năm 1961, ông đã trao đổi với các lãnh đạo Kishi Nobusuke, Ishi Mitsujiro và Kosaka Zentaro về tác động của Tái thiết Minh Trị lên tư tưởng của ông. “Tôi đang nỗ lực để hiện đại hóa đất nước tôi như tầng lớp quý tộc hiện đại hóa của Tái thiết Minh Trị đã làm được”, Park nói và nhấn mạnh rằng ông đang “học hỏi lịch sử Tái thiết Minh Trị vào bối cảnh lúc đó... Tôi là một học viên tốt nghiệp từ Học viện Quân sự Hoàng gia Nhật Bản, và tôi vẫn tin rằng nền giáo dục Nhật Bản là phương cách tốt nhất để thiết lập được một quân đội hùng mạnh.”

Nỗi ám ảnh của Park về “nước giàu” và “quân mạnh” có thể được thấy rõ ở việc lựa chọn các ngành công nghiệp nặng và hóa chất là các lĩnh vực chiến lược nhằm kéo Hàn Quốc ra khỏi sự tụt hậu kinh tế và yếu kém quân sự. Ông đã từng nói với Kim Jeong-ryeom, Bộ trưởng Thương mại và Công nghiệp lúc bấy giờ, rằng “sức mạnh đã cho phép Nhật Bản phát động Chiến tranh Thái Bình Dương đến từ các nhà máy thép. Nhật Bản có thể sản xuất xe tăng, đại bác, và tàu hải quân vì đất nước đó có các nhà máy thép.” Tin tưởng vào sức mạnh của thép, Park đã gấp rút lên kế hoạch xây dựng một nhà máy thép tổ hợp với vai trò là một dự án ưu tiên vào năm 1962, khi đang phát triển Kế hoạch Phát triển Kinh tế 5 năm (FYEDP) lần thứ nhất, mặc cho những nghi ngại từ phía Hoa Kỳ về tính khả thi tài chính và hiệu quả kinh tế của một mục tiêu như thế này. Vào tháng 7 năm 1967, Park một lần nữa phải đối mặt với sự chỉ trích từ Mỹ và Ngân hàng Thế giới khi tái xác định ngành công nghiệp thép là một lĩnh vực chiến lược trong FYEDP lần thứ hai.

Dự án nhà máy thép tổ hợp là một bước đệm đồng thời cũng là một phần quan trọng trong quyết tâm thực hiện HCI của những năm 1970, nền tảng chính trong các kế hoạch hiện đại hóa kinh tế của Park. Về điểm này, mong muốn theo đuổi HCI của ông đã bắt đầu từ đầu những năm 1960 nhưng bị trì hoãn cho đến lúc ban hành Hiến pháp yushin độc tài vào năm 1972 do thiếu hụt nguồn vốn đầu tư nước ngoài, công nghệ và năng lực nhà nước có hạn khi điều tiết tiết kiệm. Ý tưởng về HCI cũng chịu ảnh hưởng mạnh từ tinh thần Nhật Bản trong Park và từ các lý thuyết kinh tế về tăng trưởng thiếu cân bằng đang thịnh hành lúc bấy giờ. Các quan chức Mỹ, giới học giả dân sự và ban đầu cả bộ máy quan liêu kinh tế Hàn Quốc đã chỉ trích HCI là sự thay đổi chiến lược kinh tế chưa hoàn thiện, rủi ro và đột ngột, tuy nhiên, Park, ý thức được từ tiến bộ của Nhật Bản, nên đã tiến hành “cú huých mạnh” [73] cho HCI vì tin rằng kế hoạch này sẽ tăng cường an ninh quốc gia thông qua các liên kết thượng nguồn [74] và hạ nguồn [75] với ngành công nghiệp quốc phòng. Các lợi ích an ninh nhận thức được vượt trội hơn so với những chi phí phát sinh từ việc làm suy yếu lợi thế tương đối trong các lĩnh vực xuất khẩu thâm dụng lao động của Hàn Quốc. Hơn nữa, theo quan điểm của ông, các ngành công nghiệp nặng và hóa chất là biện pháp dài hạn hữu hiệu nhất để bảo đảm được đồng thời cả sự thịnh vượng quốc gia và sức mạnh quân sự. Các chi phi phát sinh chỉ là ngắn hạn trong khi lợi ích là dài hạn, điều này khiến Park xác định nhiệm vụ của mình là phải yêu cầu người dân chấp nhận những hy sinh cần thiết vì tương lai của Hàn Quốc.

Khi Tổng thống Richard M. Nixon tuyên bố Học thuyết Guam vào năm 1969 để bắt đầu quá trình triệt thoái quân sự của Mỹ khỏi châu Á, nỗi sợ của Park về việc người Mỹ sẽ ra đi đã buộc ông phải khởi động một nỗ lực tiến hành HCI dữ dội để phát triển ngành công nghiệp quốc phòng trước năm 1973. Đối với Park, đó chính là thời khắc để hiện thực hóa mục tiêu suốt đời của ông: độc lập quân sự và quốc phòng vững mạnh. Khi Park tiếp đón Fujino Chujiro, chủ tịch Công ty Thương mại Tổng hợp Mitsubishi lúc bấy giờ, vào tháng 2 năm 1965, ông đã kể lại trải nghiệm của mình dưới thời cai trị của thực dân Nhật Bản: “Khi tôi đang tham dự Học viện Quân sự Nhật Bản, tôi có cơ hội được đến thăm Công ty Cơ khí Hạng nặng Mitsubishi. Tôi có ấn tượng sâu sắc với quy trình sản xuất tàu hải quân và tàu ngầm ở đây.” Park đã biết về nền kinh tế trong chiến tranh của Nhật Bản vào những năm 1940 và đã mô phỏng theo hệ thống kinh tế huy động tổng lực này. Bộ máy quan liêu vững mạnh, ưu tiên hàng đầu cho sản xuất, sự can thiệp chiến lược của nhà nước vào thị trường, sự kiểm soát quan liêu ở khu vực tài chính, và mô hình quản lý tập đoàn zaibatsu của hệ thống kinh tế thời chiến của Nhật Bản tái xuất vào giai đoạn cầm quyền của Park dù đã có nhiều cải tiến để điều chỉnh trong bối cảnh của Hàn Quốc.

Thứ hai, chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản đã để lại một tác động vĩnh viễn lên sự phát triển quá trình hiện đại hóa chính trị của Park. Cuộc đảo chính quân sự tháng 5 năm 1961 của ông có thể được xem là đã sao chép các cuộc đảo chính quân sự từng gây rúng động Nhật Bản trong suốt thời kỳ Chiêu Hòa của những năm 1930. Tuy Park đánh giá cao Tái thiết Minh trị, nước Nhật mà ông biết đến và sao chép chỉ là đất nước của thời kỳ Chiêu Hòa, bị dẫn dắt bởi những nhân tố dân tộc chủ nghĩa cánh hữu trong quân đội Nhật Bản đang tìm cách khôi phục lại quyền lực của hệ thống hoàng gia và thay đổi nền chính trị vị đảng phái dân sự bị cáo buộc là vô năng bằng sự lãnh đạo của quân đội. Ông đặc biệt đánh giá cao tinh thần yêu nước, chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa quân phiệt của những sĩ quan đã tổ chức Sự kiện ngày 26 tháng 2, một cuộc đảo chính hụt được các nhà dân tộc chủ nghĩa cực đoan trong quân đội hoàng gia Nhật Bản lãnh đạo vào năm 1936. Như Gregory Henderson lập luận, Park và cộng sự đã xác định cuộc đảo chính quân sự của họ, cũng giống như những cuộc đảo chính ở Nhật Bản, là một nỗ lực để giải thoát đất nước khỏi nạn tham nhũng và các phe phái chính trị bất lực cũng như để tạo ra một quốc gia mới giàu có và mạnh mẽ bằng sức mạnh nhà nước.

Phong trào Cộng đồng Mới, một phần trong công cuộc hiện đại hóa nông nghiệp của Park, cũng là một sản phẩm học hỏi từ Nhật Bản của những năm 1930. Dưới thời quân phiệt, chính phủ thực dân Nhật Bản đã tiến hành Chính sách Phát triển Nông thôn dựa trên mạng lưới dày đặc các tổ chức quần chúng (yokusankai) do chính phủ tạo ra nhằm mục đích kiểm soát và vận động mang tính chính trị. Đa phần những trải nghiệm thực dân này đã được làm sống lại trong Phong trào Cộng đồng Mới của Park nhằm thúc đẩy người dân ở vùng nông thôn tham gia vào nỗ lực hiện đại hóa rộng hơn của ông.

Thứ ba, Park và ban cố vấn của ông cũng tiếp tục học hỏi từ con đường phát triển kinh tế của Nhật Bản trong giai đoạn sau chiến tranh. Yi Dong-won, người từng là Trưởng ban cố vấn (1962-1964) và Ngoại trưởng (1964-1966) cho Park, đã viết lại trong hồi ký về sự ngưỡng mộ Park dành cho mô hình của Nhật Bản:

Yi: Thưa Ngài, xin đừng quá lo lắng! Sẽ có cách giải quyết. Hãy nhìn nước Anh! Cũng như chúng ta, quy mô địa lý của nước này nhỏ còn tài nguyên thiên nhiên thì nghèo nàn. Nhưng họ đã thống trị cả thế giới...

Park: Tại sao mình lại phải học hỏi từ một đất nước xa xôi như nước Anh? Chúng ta có thể học được rất nhiều từ Nhật Bản, nước này gần gũi với chúng ta hơn.

Yi Dong-won mô tả Park là một người “chú tâm học hỏi từ Nhật Bản. Ông thường xuyên cắt lưu lại các bài báo từ những tờ báo của Nhật và đọc Lịch sử Kinh tế Nhật Bản đến tận nửa đêm. Một phần lớn trong chính sách hiện đại hóa của Park bắt nguồn từ việc sao chép Nhật Bản. Ông luôn so sánh tình hình kinh tế của Hàn Quốc với của Nhật Bản, thậm chí là trong suốt những năm 1970.” Xác định Nhật Bản là một nguồn quý giá để học hỏi và bắt chước cũng đồng nghĩa rằng Nhật sẽ là mục tiêu để đuổi kịp và thậm chí là vượt qua. Lòng tôn kính các thành tựu của Nhật Bản cũng tồn tại song song với thái độ thiếu tin tưởng và thù địch của Park đối với nước Nhật. Tuy nhiên, hai điều này không hề mâu thuẫn nhau. Chúng chỉ là hai mặt khác nhau của một đồng xu.

Kế hoạch công nghiệp hóa ngành công nghiệp nặng và hóa chất của Hàn Quốc là ví dụ điển hình cho ảnh hưởng của Nhật lên suy nghĩ của Park. Kế hoạch này lần theo căn nguyên biến đổi của Nhật Bản thành một cường quốc kinh tế là nhờ vào Kế hoạch Kinh tế Dài hạn Trọng tâm HCI được ban hành vào năm 1957. Chiến lược này được đánh giá là đã tạo điều kiện cho Nhật Bản đẩy mạnh xuất khẩu lên mức 10 tỉ đô-la Mỹ chỉ trong vòng 10 năm bằng cách khai phá các lĩnh vực phát triển công nghiệp mới. Kinh nghiệm của Nhật Bản đã trở thành bản chỉ đường cho HCI của Hàn Quốc vào những năm 1970, dù từ thập niên trước Hàn Quốc cũng đã thử nghiệm các ý tưởng của người láng giềng này rồi. Luật Phát triển Công nghiệp Cơ khí, do Bộ Thương mại và Công nghiệp (MCI) Hàn Quốc soạn thảo và Nghị viện Quốc gia thông qua năm 1967, chủ yếu được sao chép theo Biện pháp Tạm thời Gia tăng Công nghiệp Cơ khí của Nhật ban hành năm 1956. Những điểm khác biệt giữa hai đạo luật này không đáng kể. Luật Phát triển Công nghiệp Điện tử (1969) của Hàn Quốc còn cho thấy một sự tương đồng lớn hơn với Biện pháp Tạm thời Phát triển Công nghiệp Điện tử (1957) của Nhật Bản.

Chính quyền của Park cũng sử dụng khái niệm công ty thương mại tổng hợp (shogo shosha) mượn từ Nhật Bản. Vào năm 1972, Thủ tướng Kim Jong-pil mời Sejima Ryuzo, lúc bấy giờ đang là Phó chủ tịch Công ty Ito Chu và nguyên sĩ quan tham mưu của quân đội Nhật Bản ở Mãn Châu, để đề xuất về việc thành lập một công ty thương mại tổng hợp (GTC). Ý tưởng thành lập các GTC để phối hợp các nỗ lực xuất khẩu và tạo được tính kinh tế theo quy mô ở mảng thương mại đã được thảo luận ở Bộ Thương mại và Công nghiệp (MCI) và các bộ khác một cách cẩn thận trước khi Bộ trưởng MCI Yi Nak-son, một thành viên trong liên minh đảo chính năm 1961 và là tâm phúc của Park suốt những năm chính quyền quân sự, báo cáo với Park trong tháng 1 năm 1975 rằng MCI đã sẵn sàng đề nghị thông qua một đạo luật thành lập các GTC. Ý tưởng này sẽ thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu bằng cách lựa chọn một vài chaebol làm trung tâm cho hàng xuất khẩu của đất nước và tập trung các nguồn lực phục vụ cho quá trình tích tụ của các chaebol này thành những tập đoàn xuất khẩu khổng lồ. Sự chấp thuận nhanh chóng của Park giúp cho GTC hoạt động luôn trong năm đó.

So với hệ thống GTC của Nhật Bản, mô hình của Hàn Quốc chú trọng hơn vào phát triển xuất khẩu và tập trung nhiều hơn vào khai thác các mối liên hệ giữa sản xuất và thương mại, ngoại trừ ý tưởng phát triển một số ít doanh nghiệp độc tôn để khai thác lợi thế kinh tế theo quy mô trên thị trường toàn cầu; đưa các nhà xuất khẩu quy mô nhỏ, vừa và các nhà nhập khẩu về dưới trướng các công ty xuất nhập khẩu khổng lồ để tạo điều kiện chia sẻ thông tin, kiểm soát chất lượng và điều phối sản xuất; tập trung vào các công cụ đối thoại và hợp tác bên trong bộ máy quan liêu nhà nước đều là của người Nhật. Đồng thời, Hàn Quốc không chỉ dừng lại ở việc sao chép, mà còn cải tiến, tạo nên một hệ thống GTC phải phụ thuộc nhiều hơn vào hỗ trợ của nhà nước để tồn tại, cách thức tổ chức mang tính cấp bậc nhiều hơn và kén chọn hơn khi đưa ra quyết định về các hàng hóa chiến lược do các điều kiện kinh tế kém thuận lợi hơn mà Hàn Quốc phải đối mặt.

Đào sâu nghiên cứu về chiến lược hiện đại hóa của Park càng cho thấy rõ mức độ ảnh hưởng của những tác động từ Nhật Bản lên ông. Tinh thần, các mô hình chính sách, và các thể chế Nhật Bản có vai trò rất quan trọng trong việc tạo nên nền tảng tư tưởng cho các chính sách, mục tiêu hiện đại hóa kinh tế, chính trị và xã hội của Park. Hơn nữa, quá trình học hỏi cũng tiếp diễn suốt cuộc đời ông. Các ý tưởng của Nhật Bản hậu chiến tranh về chính sách công nghiệp, chỉ huy hành chính và các GTC cũng định hình luôn cả những quyết định của ông về chiến lược hiện đại hóa và những công cụ thể chế của chiến lược này sau cuộc lật đổ năm 1961. Phạm vi học hỏi được nới rộng ra và tốc độ học hỏi tăng lên cùng với việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao Nhật Bản vào năm 1965 và việc tiến hành công nghiệp hóa ngành công nghiệp nặng và hóa chất vào năm 1973, mặc dù vậy những nhân tố nền tảng nhất trong bản đồ nhận thức của ông - niềm tin, chuẩn mực và giá trị - đều có liên hệ mật thiết đến đất nước Nhật Bản của những năm 1930, chứ không phải là nước Nhật chuộng chủ nghĩa hòa bình và dân chủ sau chiến tranh. Chính chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa trung ương tập quyền và các giá trị quân đội đã hình thành nên tinh thần của Park.

Mặc dù nước Nhật đế quốc đã xây dựng nên tính cách của ông nhưng chính nước Nhật hậu chiến mới cung cấp cho Park những ý tưởng cần thiết về cách thức đảm bảo hiệu quả công nghiệp và quản lý, tối đa hóa hiệu quả của sự can thiệp nhà nước vào tăng trưởng, và huy động toàn thể xã hội cho công cuộc hiện đại hóa. Đặt nền móng cho quá trình học hỏi này là mạng lưới dày đặc các cố vấn Nhật mà Park đã xây dựng trong suốt cuộc đời ông.

Chủ nghĩa dân tộc công nghiệp hóa

Park tự xưng là người theo chủ nghĩa dân tộc. Nhưng có thể là bởi sự tự xưng này mà đặc trưng dân tộc chủ nghĩa của ông đã trở thành một đề tài tranh luận chính trị căng thẳng. Những người bảo thủ trong giai đoạn hậu Park ngưỡng mộ ông như là một nhà dân tộc thực thụ đã thành công trong việc thiết lập một niềm tự hào và đặc trưng quốc gia mới thay thế cho sự trói buộc của cảm giác bại trận, chiến tranh và đói nghèo, trái lại giới trí thức tự do, cấp tiến lại quy cho ông là kẻ phản bội lại các lý tưởng dân chủ, thống nhất quốc gia và chủ quyền dân tộc để tạo nên một biến thể cấp tiến của chủ nghĩa dân tộc Hàn Quốc. Cũng vẫn có những người nhấn mạnh đến sự thay đổi theo thời gian của ông từ một nhà cách mạng-người lính chọn con đường hiện đại hóa theo chủ nghĩa dân tộc trong những ngày đầu của chính quyền quân sự trở thành một người ủng hộ thuyết “phát triển phụ thuộc”. Nhà xã hội học Ko Yong-bok viết:

[Park] có phải là một người theo chủ nghĩa dân tộc? Thực tế việc ông là con trai của một bần nông và phải trải qua sự phân biệt chủng tộc của nền thực dân Nhật Bản có lẽ quá đủ để biến ông thành một người theo chủ nghĩa dân tộc. Sự khinh thị mà Park phải gánh chịu bởi giới cầm quyền quân sự Mỹ trong suốt sự nghiệp quân nhân của ông và các áp lực công khai của chính phủ Mỹ suốt thời chính quyền quân sự có lẽ đã nuôi dưỡng những xúc cảm chủ nghĩa dân tộc trong ông. Với tất cả những điều này, việc ông chọn dân chủ dân tộc chủ nghĩa là ý thức hệ cách mạng cho mình xem ra khá hiển nhiên. Tuy nhiên khi đã nhận ra các rào cản khủng khiếp trên con đường công nghiệp hóa theo lối dân tộc chủ nghĩa thì chủ nghĩa dân tộc trong ông thoái trào, và cuối cùng ông đã chọn con đường hiện đại hóa theo chủ nghĩa tư bản phụ thuộc.

Có thể thấy được từ đánh giá của Ko Young-bok rằng Park là một người thực dụng sẵn sàng điều chỉnh các lý tưởng hiện đại hóa theo đường lối chủ nghĩa,dân tộc để phù hợp với hoàn cảnh thực tế ở Hàn Quốc. Bản chất chủ nghĩa dân tộc của Park không phải là một hằng số mà là một biến số thay đổi theo thời gian. Đối với ông, chủ nghĩa dân tộc là một triết lý có tính ý thức hệ với tác dụng đẩy nhanh tiến độ hiện đại hóa, củng cố quyền lực chính trị mong manh của mình và huy động xã hội dân sự để thỏa mãn tầm nhìn của mình về việc chuyển đổi Hàn Quốc thành một siêu cường công nghiệp, chính hệ tư tưởng tối quan trọng này về chủ nghĩa dân tộc công nghiệp hóa đã đứng vững suốt từ cuộc đảo chính quân sự năm 1961 cho đến cái chết bất ngờ của ông vào năm 1979.

Park từng đổ lỗi sự tầm thường trong lịch sử 5.000 năm của Hàn Quốc cho tình trạng thiếu đoàn kết nội bộ đã liên tục dẫn dụ các cuộc xâm lược từ ngoại bang, sự xói mòn bản sắc dân tộc, nạn xu nịnh gia tăng và không có tinh thần đổi mới trong đời sống kinh tế với hệ quả cuối cùng là vòng luẩn quẩn của nghèo đói và kém phát triển. Việc phủ nhận hoàn toàn lịch sử Hàn Quốc là một bước đi chính trị có tính toán không kém việc khơi dậy các niềm tin ý thức hệ theo chủ nghĩa dân tộc. Việc tạo ra được tính chính danh cho cuộc đảo chính năm 1961 phụ thuộc vào khả năng ông lý giải quá khứ của Hàn Quốc theo những phương diện bất lợi nhất và gợi lên một tương lai “nước giàu, quân mạnh”. Park càng làm tốt khi tạo ra hình ảnh một lãnh tụ mang lại sự thay đổi tiến bộ trong lịch sử Hàn Quốc, sứ mệnh thống trị đất nước của ông sẽ càng to lớn hơn.

Tuy nhiên, vào năm 1966 hoặc sớm hơn, Park bắt đầu điều chỉnh lại quan điểm của mình. Trong bài phát biểu về tình trạng của tinh thần đoàn kết năm 1966, Park lập luận rằng “để thiết lập được bản sắc dân tộc vững chắc và vượt qua nạn thờ ơ trong xã hội, [Hàn Quốc] cần phải tái xây dựng các di sản văn hóa và truyền thống ưu việt của nó đồng thời phải thúc đẩy sự hình thành nền văn hóa mới trên nền tảng những di sản này.” Trong cuốn sách xuất bản năm 1971 của ông, Sức mạnh tiềm tàng của đất nước chúng ta, Park khẳng định Hàn Quốc khác biệt với những quốc gia vừa đạt được độc lập khác bởi vì nó được thừa hưởng những di sản lịch sử và văn hóa. Park viết “tôi tự hào rằng trong 2.000 năm trước giai đoạn cuối thế kỷ XIX, lịch sử nước ta là một lịch sử của việc chống ngoại xâm không ngừng nghỉ và lịch sử của tính nguyên bản và sáng tạo.”

Cùng với việc tái khôi phục bản sắc dân tộc Hàn Quốc, Park bắt đầu các kế hoạch thực hiện những công trình công nhằm bảo tồn và khôi phục lại các di tích văn hóa và lịch sử, bên cạnh việc tìm cách hồi sinh và tái tạo lại các truyền thuyết, biểu tượng và tục lệ dân tộc bằng cách vinh danh những anh hùng dân tộc như Đô đốc Yi Sun-sin (1545-1598) và Vua Sejong (1397-1450). Vào năm 1968, Park ban hành Hiến chương Giáo dục Quốc gia, hiến chương này xác định “hồi sinh dân tộc” là sứ mệnh lịch sử trong thời đại của ông. “Phát triển tinh thần quốc gia” trở thành mục tiêu của hiện đại hóa. Tinh thần chiến bại trước đây biến mất. Thay thế vị trí đó là phiên bản bảo thủ của chủ nghĩa dân tộc quyết đoán với mục tiêu huy động toàn thể xã hội chung sức xây dựng các ngành công nghiệp nặng và công nghiệp hóa chất. Các kế hoạch của Park bắt nguồn không chỉ từ niềm tin được xây đắp trong suốt giai đoạn phát triển kinh tế cao trước đó của đất nước mà còn từ sự e ngại khủng hoảng gây ra do mong muốn của Hoa Kỳ về việc triệt thoái quân sự khỏi Đông Á và sự suy yếu trong mối quan hệ liên minh với Mỹ xung quanh các mâu thuẫn về quyền con người ở Hàn Quốc và hoạt động vận động chính sách do KCIA điều phối ở Washington. Tham vọng chính trị của Park nhằm chuẩn bị, và sau đó củng cố chính quyền yushin độc tài, cũng có tác động đến quyết định của ông khi hiệu triệu tinh thần dân tộc chủ nghĩa.

Vào giữa những năm 1970, lập trường ý thức hệ của Park trải qua một lần biến đổi hoàn toàn nữa. Suốt những năm 1960, ông kiên trì chỉ trích truyền thống Khổng giáo là căn nguyên của chủ nghĩa bè phái, chủ nghĩa hình thức, nạn xu nịnh rồi cả những tranh luận vô bổ, tất cả những điều này ông tin rằng đã “làm méo mó” sự phát triển chính trị, gây nên bế tắc xã hội và làm trì trệ sự phát triển khoa học, công nghệ. Năm 1969, nhằm xóa bỏ truyền thống Khổng giáo, ông thậm chí đã ban hành các quy định nghi thức gia đình mới có tác dụng hạn chế nặng nề các nghi thức Khổng giáo. Rổi cũng chính ông đã tự đổi ý vào năm 1977, Park khẳng định rằng “truyền thống trung thành và hiếu thảo [được] bắt nguồn từ tình yêu thương và lòng tận tâm của cộng đồng dành cho cá nhân. Nhà nước [là] một cộng đồng lớn và, gia đình [là] một cộng đồng nhỏ trong đời sống con người. Tình yêu thương đối với hai cộng đồng [này] giống nhau về bản chất.” Hơn nữa, với mục tiêu xác lập một nền tảng chính danh cho truyền thống, Park đã phủ nhận quan điểm nhị nguyên thịnh hành lúc bấy giờ xem truyền thống và hiện đại là hai mặt đối lập, ông lập luận rằng “các tư tưởng và thái độ truyền thống, bị hiểu nhầm thành những rào cản đối với công cuộc hiện đại hóa, không chỉ [đóng vai trò] chất xúc tác cho sự hiện đại hóa, mà còn [là] nguồn lực quốc gia [thúc đẩy] quá trình hiện đại hóa theo hướng chúng ta mong muốn.”

Theo cách đó, Park như trở thành người được khai sáng bởi Khổng giáo, chỉ đạo Bộ Giáo dục kết hợp truyền thống về lòng trung và đạo hiếu vào chương trình đào tạo trong năm 1977. Viện Hàn Quốc học, mô phỏng theo Viện hàn lâm Sinica của Đài Loan, được thành lập vào năm 1978 với vai trò là cơ sở hạ tầng tri thức cho những nghiên cứu về Hàn Quốc học và phổ biến các giá trị truyền thống, tư tưởng lịch sử trên toàn xã hội. Việc chuyển hướng sang các giá trị Khổng giáo này hoàn toàn trái ngược với những hành động trong quá khứ của Park vào năm 1961, tuy nhiên dĩ vãng đó giờ đã thành xa xôi trong trí nhớ mọi người. Đối với dân chúng cuối những năm 1970, Park không còn là một kẻ chống đối kỳ vọng về sự thay đổi mà là một vị lãnh đạo trong xã hội chính thống, quyền lực của ông đã được củng cố thành công, đảm bảo cho vai trò của ông là người gìn giữ bảo thủ của chính quyền yushin. Đối với giới trí thức bất đồng chính kiến, ông là tác giả của chế độ đàn áp, cần phải bị loại bỏ bởi các cuộc chống đối của quần chúng tuy rời rạc nhưng rất căng thẳng. Đối với các nhà hoạt động tôn giáo cấp tiến và những người tổ chức công đoàn, ông còn phải chịu thêm trách nhiệm cho việc phá vỡ tính thống nhất bên trong xã hội Hàn Quốc với việc tái lập lại những căng thẳng giai cấp và những mâu thuẫn trong quá trình phát triển phụ thuộc. Park muốn khuất phục lực lượng chính trị và xã hội khó kiểm soát này bằng cách viện đến những giá trị về lòng trung thành và hiếu thảo truyền thống như quân đội Nhật Bản đã làm vào những năm 1930.

Vì vậy, chuẩn mực về chủ nghĩa dân tộc của Park biến hóa theo thời gian, thay đổi khi môi trường trong nước và quốc tế biến chuyển. Tuy nhiên, chủ nghĩa dân tộc vẫn luôn là một nền tảng ý thức hệ chủ đạo thống nhất kết nối từng thời kỳ thống trị riêng biệt của ông thành một kỷ nguyên thống nhất của sự hiện đại hóa từ trên xuống. Tinh thần dân tộc chủ nghĩa là nhân tố thúc đẩy nỗ lực hiện đại hóa của ông cũng như định hình nên nội dung và quy mô của chiến lược. Với sự tập trung quyền lực vào vị trí tổng thống toàn quyền và sự thiếu vắng các lực lượng đối trọng từ xã hội thì tính cách, hệ giá trị và phong cách lãnh đạo của Park đã tạo nên những tác động rõ nét lên chính trường. Với Park, nền dân chủ tự do theo phong cách Mỹ chỉ cổ vũ cho sự chia rẽ xã hội và mâu thuẫn chính trị. Ông tìm kiếm một hệ thống chính trị mà ở đó tính thống nhất, hòa hợp và đức hy sinh tồn tại rộng khắp. Hộ thống yushin, thiết lập trái ngược với các phương cách dân chủ, đã mô phỏng theo lý tưởng của chủ nghĩa tập đoàn nhà nước có hệ thống được thể chế hóa, hệ thống này cũng mang theo tầm nhìn chính trị mang tính dân tộc chủ nghĩa bảo thủ chỉ chú tâm theo đuổi phát triển kinh tế của Park. Tầm nhìn quản lý theo chủ nghĩa tập đoàn trở thành một trong những chủ đề trọng tâm trong các bài phát biểu và bài viết của Park vào cuối những năm 1970: “Chúng ta khác hẳn với phương Tây nơi cho rằng cá nhân đối chọi với nhà nước. Với chúng ta, cá nhân và đất nước [nói chung] là những mảnh ghép quan trọng cho một trật tự hài hòa... Lịch sử của chúng ta có rất nhiều điển hình về các vị anh hùng dân tộc đã hy sinh lợi ích cá nhân vì dân tộc... Chính sức mạnh tiềm tàng của đất nước đã dẫn dắt lịch sử của chúng ta.”

Chính quan niệm về “cá nhân” và “đất nước” đã khơi nguồn cảm hứng cho công cuộc tạo dựng khuôn mẫu chính trị tập đoàn chủ nghĩa của Park. Đất nước vĩ đại hơn phép cộng đơn thuần những cá nhân cấu thành nên nó. Sự tồn tại của cá nhân tìm thấy mục đích hiện diện của nó trong mối tương quan với những cá nhân khác và với đất nước. Sử dụng phép loại suy của Aristotle, Park nhìn nhận đất nước là “chất liệu” và nhà nước là “hình thể”. Park tuyên bố “đất nước là vĩnh cửu [nhưng] sự sống của đất nước chỉ có thể được phát triển và nuôi lớn thông qua nhà nước. Mục tiêu cao nhất [của nhà nước], với vai trò là người nuôi dưỡng đất nước, là thống nhất và phục hưng quốc gia”. Với phát biểu này, Park đã ôm trọn tinh thần Hegel ủng hộ những hiệu lực của nhà nước tối cao. Park đã dùng chính định hướng trung ương tập quyền này để tổ chức, thu nhận và kiểm soát xã hội dân sự. Nhân danh nhà nước và quốc gia, chính quyền yushin đã thiết lập một mạng lưới tập đoàn chủ nghĩa chặt chẽ bao gồm tư bản, công nhân và nông dân để phục vụ cho công cuộc huy động từ trên xuống chịu sự chỉ huy của một nhà nước sẵn sàng loại bỏ và trừng phạt bất kỳ lực lượng xã hội chống đối nào. Giới trí thức bất đồng chính kiến, cùng với các nhà hoạt động tôn giáo, những người tổ chức lao động và các chính trị gia chống đối, đều trở thành mục tiêu của hoạt động loại trừ, trong khi đó thì Park đang tạo ra một liên minh theo chủ nghĩa duy phát triển [76] [developmentalism] bằng cách thu nạp và tưởng thưởng cho các quan chức nhà nước, doanh nghiệp lớn, các nông dân nhỏ bé và giới trí thức chính thống vào những năm 1970.

Ý thức hệ dân tộc chủ nghĩa cũng được tuyên bố trên lĩnh vực kinh tế. Park hình dung về hiện đại hóa chủ yếu trên phương diện phát triển kinh tế, cần phải đạt được trên nền tảng tự lực và tự cường. Với khả năng tự cường kinh tế, Hàn Quốc có thể hạn chế sự phụ thuộc vào Hoa Kỳ, bắt kịp Triều Tiên và cuối cùng là Nhật Bản đồng thời tăng cường sức mạnh quốc gia. Park muốn thỏa mãn điều kiện tiên quyết về sự tồn tại, thịnh vượng và uy tín của đất nước bằng cách thiết kế chiến lược trọng thương đẩy mạnh xuất khẩu và tạo lập con đường kinh tế dân tộc chủ nghĩa để đi đến công nghiệp hóa ngành công nghiệp nặng và hóa chất. Alice H. Amsden và Robert Wade đã đúng khi quan sát rằng, cả sự chuyển dịch sang chiến lược xuất khẩu mở cửa trên cơ sở bình ổn kinh tế và giải phóng thị trường từ năm 1963 đến 1966 của Hàn Quốc cũng bị dẫn dắt bởi tinh thần, mục tiêu và các nguyên tắc trọng thương của Park Năm 1967, Hàn Quốc tiến hành những biện pháp quan trọng nhằm tự do hóa cơ chế thương mại bằng cách thay đổi hệ thống bảo hộ thương mại từ “hệ thống danh mục được nhập khẩu” thành “hệ thống danh mục cấm nhập khẩu”. Mặc dù vậy, các rào cản bảo hộ vẫn còn cao khiến tỷ lệ tự do hóa nhập khẩu ở mức 61,3% vào năm 1978, kém hơn nhiều so với Nhật Bản, nước từng gia tăng từ 40% vào năm 1960 lên 90% vào năm 1969, và thậm chí kém hơn cả hệ số tự do hóa nhập khẩu đã đạt mức 90% của Đài Loan vào giữa những năm 1970.

Sự tồn tại chủ nghĩa bảo hộ bất chấp các hoạt động bình ổn hóa, tự do hóa và thúc đẩy xuất khẩu có một phần nguyên nhân từ việc tiếp diễn chủ trương công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu (ISI). Trái với các lý thuyết kinh tế chính thống, việc chuyển hướng sang phát triển xuất khẩu lại không hề kết thúc ISI ở Hàn Quốc. Ngược lại, Park xem hai chính sách này như bổ sung lẫn nhau, vì với sự thiếu hụt nhu cầu nội địa và sự kém phát triển của các ngành công nghiệp có liên kết thượng nguồn, hạ nguồn thì bất cứ dự án ISI nào cũng cần phải được đầu tư như một dự án thúc đẩy xuất khẩu và ngược lại ngay từ thời điểm ban đầu. Chính quyền yushin ưu tiên phân bổ tín dụng trước nhất cho các ngành công nghiệp nặng và công nghiệp hóa chất đang là mục tiêu cho cả phát triển xuất khẩu và thay thế nhập khẩu. Trong khi tỷ lệ bảo hộ thực tế trung bình là 2,3% ở tất cả các ngành công nghiệp vào năm 1978 thì các ngành công nghiệp nặng và hóa chất được hưởng tỷ lệ bảo hộ lên đến 16,4%. Với sáu ngành công nghiệp được xác định là các lĩnh vực chiến lược - thép, kim loại không chứa sắt, cơ khí, hóa chất, đóng tàu và điện tử - tỷ lệ bảo hộ thực tế lên đến 35%.

Việc theo đuổi ISI của Park có thể được nhận thấy rõ nét kế cả vào thời điểm cao trào của quá trình tự do hóa. Khi Bộ Thương mại và Công nghiệp chuẩn bị chuyển đổi sang hệ thống danh mục cấm nhập khẩu nhằm đưa Hàn Quốc vào Hiệp ước Chung về Thuế quan và Mậu dịch [GATT], Ban Kế hoạch Kinh tế đã nhanh chóng tận dụng các cuộc đối thoại Hàn Quốc-Nhật Bản về việc bình thường hóa làm cơ hội để xây dựng một nhà máy thép tổ hợp. Chống lại sự ép buộc từ phía Nhật rằng Hàn Quốc phải dùng những nguồn quỹ bồi thường thiệt hại để nhập khẩu hàng hóa tiêu dùng Nhật Bản, EPB đã thành công trong việc phân bổ các nguồn quỹ này vào quá trình xây dựng Công ty Sắt và Thép Pohang. Mỗi khi cơ hội để theo đuổi quá trình công nghiệp hóa ngành công nghiệp nặng và hóa chất nổi lên ở bên ngoài thị trường, như nó đã từng như vậy trong trường hợp các cuộc đối thoại bình thường hóa, Park đều không hề ngần ngại chớp lấy, bất chất rủi ro và chi phí. Chủ nghĩa dân tộc kinh tế và chủ nghĩa trọng thương vẫn tiếp tục vững mạnh kể cả khi chiến lược phát triển định hướng xuất khẩu được khởi động vào giữa những năm 1960.

Chiến lược phát triển định hướng xuất khẩu của Park được dẫn dắt bởi chủ nghĩa dân tộc kinh tế. Chiến lược trông giống như một bước chuyển tự do hướng đến thị trường toàn cầu này thật ra mang bản chất phi tự do, nó được xác định là con đường duy nhất của Hàn Quốc có thể đảm bảo được sự tồn tại và thịnh vượng quốc gia, được tiến hành từ trên xuống bởi nhà nước và sẽ phối hợp với các biện pháp bảo hộ cũng như tự do hóa để khởi động quá trình cất cánh kinh tế. Các lĩnh vực xuất khẩu trở thành những đối tượng hưởng lợi chính từ các ưu đãi chính sách bao gồm phân bổ vốn ưu tiên và tín dụng hỗ trợ; miễn thuế đánh lên nguyên liệu thô, bán thành phẩm và hàng hóa vốn; cùng rất nhiều những ưu đãi thuế, đặc quyền cấp phép, trợ cấp công nghệ và lợi ích cơ sở vật chất như cung cấp thông tin và các khu phức hợp công nghiệp. Nói cách khác, ngoại trừ những ngành công nghiệp sản xuất nhẹ thâm dụng lao động, tính cạnh tranh xuất khẩu của nhiều hàng hóa Hàn Quốc là một công trình nhân tạo của nhà nước chỉ huy kinh tế chứ không phải là một sản phẩm của lợi thế tương đối. Ý nghĩa và tinh thần của việc trao đổi cùng có lợi, một trong những chuẩn mực và nguyên lý nền tảng quan trọng của chế độ thương mại toàn cầu tự do thời hậu chiến, đã thường xuyên bị vi phạm hơn là bảo toàn trong nỗ lực đạt đến sự thịnh vượng và hùng cường quốc gia của Hàn Quốc, kể cả trong trường hợp các ngành công nghiệp xuất khẩu.

Thành công của tăng trưởng xuất khẩu định hướng nhà nước phụ thuộc rất nhiều vào sự sẵn có vốn đầu tư nước ngoài. Từ trước khi Luật Thu hút Vốn đầu tư Nước ngoài được ban hành vào năm 1966, Park đã ý thức được khả năng tiếp cận vốn và công nghệ sẽ là chiếc chìa khóa đấy mạnh phát triển kinh tế trong một đất nước nghèo tài nguyên như Hàn Quốc. Về vấn đề vốn đầu tư nước ngoài, Park là một kẻ thực dụng: “Tôi không quan tâm nguồn gốc của vốn đầu tư [đến từ đâu]. Tôi chào đón vốn đầu tư từ Hoa Kỳ, Tây Đức, Ý và các quốc gia châu Âu khác. Kể cả nếu đó là vốn Nhật Bản, tôi không quan tâm miễn là nó được sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế cho đất nước chúng tôi.” Tuy nhiên, chào mời vốn đầu tư nước ngoài không có nghĩa là gỡ bỏ các biện pháp quy định. Ngược lại, Park đã đặt ra rất nhiều những hạn chế và quy định, đặc biệt là những quy định lên hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài với mục đích nuôi dưỡng chaebol thành các doanh nghiệp độc tôn và kiểm soát dòng vốn nước ngoài cho các mục tiêu độc lập kinh tế của Park. Rất nhiều các ngành công nghiệp đã trở thành cấm địa với đầu tư nước ngoài trong hệ thống danh mục được nhập khẩu cho đến đầu những năm 1980 và hoạt động địa phương của các doanh nghiệp nước ngoài cũng bị hạn chế trầm trọng. Bên cạnh những đạo luật hạn chế, các thể chế bảo hộ, nạn quan liêu và sự chống đối của các tập đoàn chaebol đối với cạnh tranh nước ngoài, sự thù địch của công chúng đối với đầu tư nước ngoài cũng cản trở những nhà đầu tư ngoài nước thậm chí từ việc sở hữu đất.

Nhiều yếu tố đã tạo nên tình trạng luật lệ nặng nề này. Thứ nhất, cá nhân Park ưu tiên các khoản vay nước ngoài hơn là đầu tư trực tiếp nước ngoài vì ông chú trọng vào khả năng tự chủ và độc lập trong công tác quản lý nền kinh tế quốc gia. Ông cho rằng mình có thể phân bổ có chiến lược các khoản vay nước ngoài vào các lĩnh vực trọng tâm để hiện thực hóa các mục tiêu phát triển nếu nhà nước bảo lãnh cho các khoản vay nước ngoài. Cũng cần phải thấy là khó bảo mà vệ các nhà đầu tư nước ngoài đang sẵn sàng đầu tư trực tiếp vào các liên doanh khi mà vào một ngày nào đó các liên doanh này có thể trở thành đối thủ của họ. Thứ hai, thậm chí nếu Park sẵn sàng tiếp nhận các khoản đầu tư nước ngoài thì dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng chỉ ở mức thấp do nguồn tài nguyên thiên nhiên nghèo nàn, thị trường trong nước nhỏ hẹp, chính trị trong nước không ổn định và sự yếu kém về an ninh của Hàn Quốc. Kết quả là đa phần đầu tư trực tiếp nước ngoài Hàn Quốc có được lại chỉ loanh quanh trong những ngành công nghiệp nhẹ tương đối cạnh tranh ở các khu vực xuất khẩu tự do đặc biệt. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài được đưa vào tương thích đã cứu Hàn Quốc khỏi việc tu chỉnh lại hệ thống pháp lý và cơ sở hạ tầng thể chế để phục vụ nhu cầu của các nhà đầu tư nước ngoài, việc này có thể đã ngăn nhà nước phát triển các doanh nghiệp độc tôn. Cuối cùng, nỗ lực thực hiện công nghiệp hóa các ngành công nghiệp nặng và hóa chất của Park thông qua ISI đã tạo ra rất nhiều ngành công nghiệp sơ khai, các ngành này mong muốn ngăn cản bộ máy quan liêu kinh tế khỏi việc tiến hành các biện pháp tự do hóa cứng rắn về hoạt động đầu tư nước ngoài.

Lĩnh vực chính trị và xã hội cũng bị ảnh hưởng sâu sắc bởi chủ nghĩa dân tộc của Park. Để thiết lập được hệ thống huy động có thể hỗ trợ chiến lược kinh tế, Park đã không ngừng hiệu triệu ý thức hệ dân tộc chủ nghĩa và tổ chức lại các tổ chức quần chúng từ Quân đoàn Xây dựng Quốc gia đến Phong trào Tái thiết Quốc gia và Phong trào Cộng đồng Mới thành các lực lượng dự bị trong nước theo phong cách lãnh đạo từ trên xuống cổ điển với sự giúp sức của bộ máy quan liêu nhà nước hùng mạnh. Đối với Park, chủ nghĩa dân tộc không chỉ là một lý tưởng hoàn hảo, tự bản thân nó thôi đã là đáng giá, mà nó còn là một công cụ chính danh hóa rất quan trọng. Nếu tách rời hai điều này và tìm cách xác định Park là một tín đồ thật sự hay chỉ là một kẻ lợi dụng chủ nghĩa dân tộc thì sẽ đều không thể thấu hiểu được tinh thần trong chính phủ của ông. Park là cả hai và điều này tạo ra hiện tượng áp dụng triệt để tinh thần dân tộc chủ nghĩa vào mọi mặt trong chiến lược hiện đại hóa. Ý thức hệ dân tộc chủ nghĩa của Park tỏ ra rất hiệu quả trong đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa. Nếu tinh thần Nhật Bản giúp ông định hình khuôn khổ của công cuộc hiện đại hóa thì chủ nghĩa dân tộc cho Park một đầu tàu kéo các công tác huy động, phi chính trị hóa mang tính kinh tế xã hội nhằm phục vụ con đường hiện đại hóa và công nghiệp hóa độc tài của ông.

Dân chủ quản trị

Park cũng xác định mục tiêu cho công cuộc hiện đại hóa là “tái thiết nền dân chủ vững mạnh”. Với mục tiêu này, ông đề cập đến việc xây dựng một hệ thống cầm quyền chính trị phù hợp với các điều kiện lịch sử của Hàn Quốc:

Lịch sử du nhập dân chủ [phương Tây] là một giai đoạn thất bại. Thất bại này là một kết quả không thể tránh được do ‘nhập khẩu trực tiếp’ nền dân chủ ngoại sinh mà không hề sàng lọc [nó] bằng những phân tích cặn kẽ về lịch sử và hoàn cảnh sống của chúng ta. ‘Nền đạo đức đóng’ [77] [close morality] của cộng đồng gia đình dựa trên quan hệ thân thích đã sản sinh ra nạn bè phái chính trị dựa trên liên kết địa phương, gia đình và tín ngưỡng, dẫn đến sự thất bại của chính trị dân chủ. Chúng ta có thể du nhập hình thức của dân chủ, nhưng không phải nội dung của nó... may mắn là chúng ta đã nhận thức được về sự cần thiết của việc ‘Hàn Quốc hóa’ nền dân chủ. Dân chủ không đặt nền móng trên sự tự do về trách nhiệm mà trên một nền tự do tự điều tiết và có kỷ luật và vì vậy, cần phải kết hợp sự lãnh đạo và định hướng vào khái niệm về dân chủ của chúng ta.

Định hình thiên về hướng chủ nghĩa dân túy hoặc chủ nghĩa tập đoàn hơn là dân chủ đa nguyên, theo thủ tục, Park cho rằng bất cứ tư tưởng nào về dân chủ đều phải hàm chứa ba khái niệm chính trị. Điều đầu tiên trong ba yếu tố tiên quyết đó là “dân chủ hành chính”, khái niệm này đề cao mẫu hình lý tưởng về trật tự và hiệu quả chính trị hơn các phương cách dân chủ và tinh thần thượng tôn pháp luật. Thay vì phải tuân theo quy trình lập pháp chuẩn mực, dân chủ hành chính trông cậy chủ yếu vào bộ máy quan liêu nhà nước để điều khiển quá trình hiện đại hóa. Nhà nước quan liêu là cơ quan điều phối có nhiệm vụ rèn giũa, huy động và chỉ huy xã hội dân sự thực thi các mục tiêu và tầm nhìn của giới lãnh đạo hành pháp. Khả năng định hướng này không chỉ phụ thuộc vào năng lực bộ máy quan liêu và tính trì trệ thể chế mà còn vào lòng trung thành của bộ máy này với lãnh đạo quốc gia.

Do đó, nhằm đảm bảo cho khả năng định hướng các lực lượng xã hội không bị gián đoạn và hiệu quả, Park đã cố gắng bảo vệ các quan chức nhà nước khỏi va chạm với các áp lực lập pháp mang tính chính trị và xã hội để tạo cho họ những quyền tự quyết rộng rãi. Ông tin rằng cần phải vượt qua, đi đường vòng và thậm chí là phá bỏ các thủ tục pháp lý - nếu cần thiết - để đạt được các mục tiêu tổng thế. Tinh thần sẵn sàng thỏa hiệp về pháp luật biểu hiện rõ nhất khi ông trừng trị tham nhũng và tội phạm có tổ chức. Vào lúc ăn trưa với ban cố vấn vào ngày 8 tháng 6 năm 1972, Park hóm hỉnh nói: “nếu anh quá lệ thuộc vào tinh thần thượng tôn pháp luật, anh sẽ chẳng làm được gì. Triệt phá các băng đảng là một ví dụ điển hình. Nếu anh đang có nhiều nhiệm vụ quan trọng phải làm, đừng bị hạn chế bởi pháp luật!”

Park cố ý tạo ra nhánh hành pháp mạnh và nhánh lập pháp, tư pháp yếu. Ông xem các cuộc bầu cử là lãng phí, gây ra mâu thuẫn và muốn ngăn cản để những nhóm lợi ích không làm tổn hại đến lợi ích tập thể. Ông không phải là người biện hộ cho việc chuyển hướng sang chế độ độc tài. Ngược lại, đối với ông, chỉ có một nhà nước cứng rắn, mạnh mẽ mới có thể thực thi được những sứ mệnh về an ninh quốc gia và phát triển kinh tế. Khi tầm nhìn của ông về hệ thống chính trị kích động phản kháng từ các thành phần xã hội, ông từ chối thỏa hiệp và thay vào đó ông cố gắng tạo dựng sự đồng thuận và thống nhất bằng cách cưỡng bức, đe dọa và đàn áp, nếu cần thiết. Niềm tin vào con đường chủ nghĩa tập đoàn nhà nước dẫn đến hiện đại hóa đã đẩy ông vào những cuộc chiến chính trị trên nhiều mặt trận với nhiều loại thế lực chính trị và các nhóm lợi ích xã hội cho đến cuối cùng khi chúng lấy đi mạng sống và chính quyền yushin của ông.

Thứ hai, để nền dân chủ mang tính thực chất, nó cần phải là “nền dân chủ dân tộc chủ nghĩa” (minjokchok minjujuui). Trong chiến dịch tranh cử tổng thống của ông vào năm 1967, Park nhấn mạnh rằng nền dân chủ dân tộc chủ nghĩa cần phải được xây dựng trên cơ sở không chấp nhận lịch sử hiện đại bị ngoại bang thống trị của Hàn Quốc. “Chúng ta vẫn còn sống với những tàn tích của nạn xu nịnh 500 năm tuổi của triều đại Joseon và nền thực dân Nhật Bản. Các vết tích của những nhân tố phong kiến cận đại vẫn còn chưa bị xóa sạch. Chúng ta cần phải vượt qua những tàn tích này bằng cách trở thành một dân tộc độc lập và tự lực. Niềm tin dân tộc của tôi sẽ thay đổi các tư tưởng, suy nghĩ và thể chế chính trị nước ngoài để khiến chúng phù hợp với thực tế và truyền thống của riêng chúng ta.” Đối với Park, truyền thống Hàn Quốc bao gồm hai phần, một phần không được phép chấp nhận, cụ thể là những tàn tích của chủ nghĩa phong kiến và nạn xu nịnh (sadae-juui), và phần kia, gồm sự thống nhất, đoàn kết dân tộc, tinh thần yêu nước và chống đối sự can thiệp, thống trị của nước ngoài, phầ