PHẦN III
KINH TẾ VÀ XÃ HỘI
Chương 9 CHAEBOL
Kim Eun Mee & Park Gil-sung
Khi đối mặt với giai đoạn biến chuyển chưa từng có của Hàn Quốc để trở thành một nền kinh tế công nghiệp hiện đại chỉ trong vòng một thế hệ, nhiều nhà quan sát đã dựa vào các hình ảnh đơn giản để lý giải cho mối quan hệ nhà nước-doanh nghiệp từng thúc đẩy quá trình siêu tăng trưởng của đất nước. Một số nhà phân tích xây dựng hình ảnh “Công ty Hàn Quốc”, nơi mà nhà nước và chaebol tác động sâu sắc lên các tổ chức của nhau bằng những trao đổi nhân sự ở cấp cao nhất trong hệ thống thứ bậc và tìm cách gây ảnh hưởng lên các quyết định và cố gắng học hỏi lẫn nhau ở những tính năng và chức năng tổ chức. Chaebol được mô tả như là một tổ chức được sáng lập và quản lý bởi nhà nước vì lợi ích quốc gia, với Park ngự trên cùng đóng vai trò CEO. Một số người khác đồng tình với những người ủng hộ hình ảnh Công ty Hàn Quốc về mối quan hệ cực kỳ gắn bó giữa nhà nước và chaebol trong thời kỳ cầm quyền chính trị của Park, tuy nhiên họ cho rằng mối quan hệ này tạo ra đặc trưng “chủ nghĩa tư bản thân hữu” [126] trái ngược. Theo cách nhìn này, các chaebol buộc nhà nước phải cướp bóc ngân hàng và ngăn chặn các lực lượng thị trường trong việc tìm kiểm hoa lợi. Chaebol thay vì phải phục vụ cho các lợi ích quốc gia như nhà nước đã xác định, chính nhà nước lại trở thành người hỗ trợ cho các tập đoàn chaebol trục lợi theo đúng nghĩa đen của chủ nghĩa tư bản thân hữu.
Hai cách nhìn trên đều diễn giải sai các sự kiện lịch sử. Thật ra, quan hệ nhà nước- chaebol là cực kỳ gắn bó, nhưng bản chất của sự gắn bó này không thể được diễn tả đầy đủ bằng những khái niệm tĩnh, đơn chiều kích như “Công ty Hàn Quốc” hay “chủ nghĩa tư bản thân hữu”. Chaebol không phải là tù nhân cũng như không phải là chủ nhân của nhà nước. Chúng là các tổ chức không chỉ phụ thuộc vào các mối liên kết gia đình truyền thống mà còn dựa vào hoạt động kinh doanh duy lý hiện đại, ra quyết định độc lập dù vẫn trong những giới hạn của chính sách nhà nước. Như Stephan Haggard lập luận, sẽ có lợi hơn khi nhìn nhận mối quan hệ nhà nước- chaebol như một cuộc đàm phán đang diễn ra, tái định hướng và tái khởi động liên tục dưới các áp lực từ sự thay đổi kinh tế xã hội và chính trị. Ngay cả trong chế độ của Park, khi chaebol được tái sinh thành các tập đoàn công nghiệp nhờ sự bảo trợ chính trị vô cùng mạnh mẽ, mối quan hệ của chúng với nhà nước vẫn phức tạp hơn so với các hình ảnh về dòng quyền lực một chiều mà những người ủng hộ Công ty Hàn Quốc và chủ nghĩa tư bản thân hữu đã mô tả.
Việc chuyển các quan chức cấp cao đến chaebol không hề diễn ra quá thường xuyên trong thời kỳ cầm quyền của Park. [127] Trên thực tế, vì nơi ra quyết định và xây dựng liên minh đặt ở đỉnh của tổ chức nhà nước, Nhà Xanh của Park, nên chaebol ít có nhu cầu mời gọi những quan chức đã nghỉ hưu về hoạt động trong vai trò người liên lạc theo cách mà keiretsu Nhật Bản đã làm thông qua amakudari. [128] Các thỏa thuận lớn đều được quyết định trực tiếp giữa Park và những người chủ sở hữu-giám đốc do ông chọn, vì vậy các chaebol ít quan tâm hơn đến việc tạo ra các kênh hợp tác giống như amakudari với các bộ ngành nhà nước. Không những thế, tiến hành thỏa thuận ở Nhà Xanh diễn ra theo những cách khiến khái niệm người khởi xướng-người hưởng ứng ít có ý nghĩa hơn. Chắc chắn là, Park có quyền hạn để tạo dựng hoặc phá hủy bất cứ tập đoàn chaebol riêng lẻ nào, nhưng Park không thể làm suy yếu cả giai cấp chaebol nếu ông muốn biến đổi Hàn Quốc thành một nền kinh tế công nghiệp trong cuộc đời mình. Ngược lại, sau khi phạm phải một loạt các sai lầm trong chính sách kinh tế vào năm 1961-1962 mà gần như đã phải trả giá bằng cả chính quyền quân sự của mình (xem Chương 2 và 3), Park bắt đầu nhận ra rằng chaebol có nhiều kinh nghiệm hơn trong việc vận hành một tổ chức kinh doanh, như ông am tường hơn trong vận hành nhà nước. Miễn là chaebol chấp nhận định hướng chính sách kinh tế rộng của mình và kiềm chế không dính líu vào chính trị vị đảng phái, Park sẽ để chaebol trở thành các CEO trong quá trình phát triển kinh tế Hàn Quốc, theo đuổi các mục tiêu được hoạch định chính trị và được cụ thể hóa một cách quan liêu với quyền tự chủ và tự quyết rất lớn. Trên thực tế, các chaebol đã trở thành nơi sản sinh ra các ý tưởng chính sách đổi mới chính, từ việc xây dựng các đặc khu xuất khẩu và các khu phức hợp công nghiệp đến việc khởi động các công ty thương mại tổng hợp theo kiểu Nhật Bản và việc tham gia vào giai đoạn bùng nổ xây dựng Trung Đông vào giữa những năm 1970.
Cũng như sẽ không chính xác khi nhìn nhận Park và chaebol như người khởi xướng và người hưởng ứng, đặt vấn đề bên nào cần thiết hơn và bên nào yếu hơn cũng không mang lại ý nghĩa gì. Thay vì vậy, Chương 9 đề xuất cách nhìn nhận quan hệ nhà nước- chaebol như một mối hợp tác, đặt vấn đề về cách thức mỗi bên bổ trợ cho nhau như thế nào. Và đây là một mối quan hệ giữa những người nhìn xa trông rộng. Park cố gắng trở thành Minh Trị của Hàn Quốc, ngược lại các tập đoàn chaebol hàng đầu mong muốn phát triển thành các tập đoàn ngang ngửa với keiretsu của Nhật. Có cùng han, hay nỗi đau, là được sinh ra từ một trong những đất nước nghèo khổ nhất thế giới, chỉ vừa được giải phóng khỏi chế độ thực dân Nhật Bản và bị ám ảnh bởi ba năm xung đột chiến tranh lạnh bạo lực-chuyển thành-chiến tranh dân sự, Park và chaebol cùng mang theo tầm nhìn phải vực dậy Hàn Quốc và nhân dân thoát khỏi tình trạng thực sự nghèo đói, và được tập hợp lại bởi tinh thần “quyết chí ắt làm nên” ngoan cường cùng với đạo lý cần cù lao động. Đối với Park, chaebol không thể không có trong kế hoạch chính trị “nước giàu, quân mạnh” (pu-kuk kang-byeong) của ông, và đối với chaebol, Park đóng vai trò không thể thiếu cho sự phát triển thành một đế chế nghiệp đoàn. Như Yi Chun-lim có lần nhớ lại, “không hẳn là một bên dẫn dắt bên còn lại theo hướng mà anh ta không mong muốn. Park và [các doanh nghiệp lớn] xây dựng mối quan hệ hợp tác toàn diện trên cơ sở niềm tin phổ quát, tầm nhìn chung và đức tính cần cù lao động.” Theo quan điểm của David Kang, quan hệ hợp tác này là một trong những “hoạt động kiểm soát lẫn nhau”, với nhà nước và chaebol mỗi bên đều ngăn cản bên còn lại sử dụng các biện pháp đe dọa đến những lợi ích tối quan trọng. Trái lại, Chương 9 cho rằng mối hợp tác này là một trong những “hoạt động bảo vệ lẫn nhau”, mỗi bên thúc đẩy bên còn lại đạt được lợi ích thiết yếu của mình.
Vì mối hợp tác này dựa trên giao dịch chính trị bất cân xứng, mà ở đó Park bảo vệ các đồng minh chaebol khỏi mối hiểm họa lụn bại doanh nghiệp để đổi lấy sự tham gia của họ vào các dự án công nghiệp đầy rủi ro, khiến cả nhà nước và chaebol có những đặc điểm trái ngược. Nhà nước thì mang tính diều hâu và phát triển (xem Chương 7), tạo ra hoa lợi để thu hút chaebol vào các lĩnh vực phát triển đẩy rủi ro, tuy nhiên đồng thời cũng điều tiết một cách quan liêu và xác lập kỷ luật về mặt chính trị đối với những người trục lợi để giữ cho quy mô trục lợi dưới mức nguy hiểm hệ thống. Cũng như vậy, chaebol vừa là thân hữu vừa là doanh nhân, tạo dựng sự ủng hộ nơi Park để có được các giấy phép, trợ cấp và khoản vay, tuy nhiên họ cũng dùng những hoa lợi đó để đầu tư vào các chương trình công nghiệp của ông như một phần trong lời hứa ban đầu của mình về việc sẵn sàng ủng hộ tầm nhìn xây dựng đất nước. Vì vậy, trong suốt kỷ nguyên của Park, mối quan hệ nhà nước- chaebol được đặc trưng bằng một nỗ lực liên tục để cân bằng giữa xu hướng diều hâu và phát triển của nhà nước, giữa chủ nghĩa thân hữu và năng lực kinh doanh của chaebol cũng như giữa việc tạo ra hoa lợi với điều tiết các hiểm họa đạo đức theo sau đó.
Park biết rằng hoạt động giữ cân bằng đòi hỏi phải có quan hệ hợp tác nhà nước- chaebol mà ông hình dung rằng sẽ trở thành một nhiệm vụ chính trị cực kỳ thách thức. Nhằm tạo ra hoa lợi để chaebol sẵn sàng đầu tư vào các dự án rủi ro nhưng không làm tồi tệ hơn các hiểm họa đạo đức đến mức kích hoạt khủng hoảng toàn hệ thống, Park phát triển một bộ nguyên tắc và chuẩn mực cho quan hệ hợp tác nhà nước- chaebol. Thứ nhất, để đảm bảo được rằng các “thân hữu” kinh doanh của mình cũng là những cá nhân với tinh thần khởi nghiệp không bao giờ lùi bước, Park chọn ra trong số các chaebol những đối tác có một quá trình hoạt động chấp nhận rủi ro thấy rõ, có khả năng quản lý và kết quả kinh doanh tốt. Chắc chắn rằng, Park ưu tiên liên minh với chaebol từ vùng Gyeongsang của mình để đảm bảo không gặp phải mối nguy hiểm từ việc các tập đoàn không ở Gyeongsang liên minh lại xung quanh một trung tâm quyền lực chính trị thay thế khác đến từ địa phương này, tuy nhiên ông không hề né tránh hợp tác với các doanh nhân không đến từ Gyeongsang như Jeong Ju-young của Hyundai (tỉnh Gangwon), Kim U-jung của Daewoo (Gyeonggi), và Cho Chung-hun của Hanjin (Seoul) khi họ cùng chia sẻ tư tưởng nhìn xa trông rộng, tinh thần “quyết chí ắt làm nên” và các tiềm lực kinh doanh. Tuy nhiên, kể cả khi đó Park cũng ý thức được sự cần thiết phải chi phối được các đối tác chaebol này và kiểm soát việc họ lạm dụng lòng tin của ông. Cách tốt nhất để làm được việc này là tận dụng sự cạnh tranh giữa họ. Do đó, như một nguyên tắc cốt lõi thứ hai, ông xây dựng một cấu trúc cạnh tranh độc quyền nhóm trong các ngành công nghiệp chiến lược theo thời gian, tìm kiếm những kẻ thách thức trong số các tập đoàn chaebol quy mô tầm trung hạng hai và hạng ba để cạnh tranh với những người dẫn đầu.
Thứ ba, như những người ủng hộ hình ảnh Công ty Hàn Quốc và chủ nghĩa tư bản thân hữu lập luận, Park hỗ trợ các đồng minh chaebol của ông bằng các nguồn trợ cấp khổng lồ, tuy nhiên đối lập với cách mô tả về các thành tựu kinh doanh được đảm bảo, ông đã chuẩn bị để cho các tập đoàn chaebol sa sút phải giải thể khi cho rằng mình đã dùng hết các biện pháp giải cứu. Đây là một phương thức cực kỳ tốn kém để cân bằng giữa các yêu cầu về xã hội hóa rủi ro kinh doanh và thiết lập kỷ luật lên các hiểm họa đạo đức, mặc dù vậy lại hiệu quả để đưa mối quan hệ nhà nước- chaebol đến giai đoạn siêu tăng trưởng. Một mặt, bằng cách ủng hộ các đối tác doanh nghiệp gặp phải khó khăn tài chính đến khi nào ông dùng hết tất cả các lựa chọn chính sách khả dĩ trong giai đoạn điều chỉnh kinh tế vĩ mô, Park khéo léo tạo ra hình ảnh của một người bảo trợ đáng tin cậy, người giữ lời hứa hỗ trợ bằng các hành động cụ thể khi đối tác kinh doanh của mình gặp khó khăn. Hình ảnh này làm cho những lời cam kết của ông trở nên đáng tin, từ đó làm cho nhiệm vụ vận động chaebol ủng hộ các dự án công nghiệp rủi ro của ông dễ dàng hơn rất nhiều. Mặt khác, khi Park cần phải loại bỏ các chaebol yếu nhất để cứu những doanh nghiệp lớn khỏe hơn của Hàn Quốc và để bình ổn nền kinh tế trong giai đoạn điều chỉnh, hầu hết các chaebol không xem hành động của ông như là sự vi phạm lời hứa chắc chắn ủng hộ trước đây mà chỉ xem đó là một sự điều chỉnh không thể tránh khỏi do nền kinh tế yếu kém về tài chính của Hàn Quốc, vì ông đã dùng tới cách thức tái cấu trúc các chaebol yếu kém nhất sau khi tìm hết cách để duy trì các tập đoàn chaebol thông qua hỗ trợ nhà nước.
Việc các chaebol yếu kém nhất sẽ bị để cho sụp đổ - dù là sau thất bại của một chương trình giải cứu tổ chức bởi nhà nước - là một nguyên tắc ngăn cản các hiểm họa đạo đức gia tăng đến mức làm mất ổn định hệ thống. Nguyên tắc này không hiệu quả về mặt kinh tế, lãng phí quá nhiều nguồn lực để duy trì sự sống cho các doanh nghiệp quá yếu trong thời gian quá dài, tuy nhiên đây là một chiến lược hiệu quả về mặt chính trị để duy trì lòng tin và sự trung thành của các doanh nghiệp lớn trong khi bên cạnh đó cũng ngăn cản được những dạng thức tồi tệ nhất của hiểm họa đạo đức. Là hệ quả từ hoạt động giữ cân bằng đầy tốn kém kinh tế nhưng hiệu quả về mặt chính trị này, kỷ nguyên của Park đặc trưng bởi các thành công kinh doanh ấn tượng và các thất bại kinh doanh khủng khiếp. Những trường hợp như Jeong Ju-young, Kim U-jung và Cho Chung-hun đã phát triển thành các ông trùm công nghiệp trong 18 năm cầm quyền của Park, nhưng đã có nhiều hơn thế các lãnh đạo chaebol tiềm năng gặp thất bại trong khi đang cố gắng đạt được cái mà họ cho là cơ hội cả đời để xây dựng nên một đế chế doanh nghiệp. Rất tương phản với các lập luận theo hướng Công ty Hàn Quốc và chủ nghĩa tư bản thân hữu cho rằng các chaebol lên đến đỉnh cao một cách dễ dàng, kỷ nguyên của Park có tính hai mặt, ở kỷ nguyên này một cơ hội siêu tăng trưởng doanh nghiệp có thể biến thành thời điểm điều chỉnh đầy nguy hiểm và có thể dẫn đến lụn bại doanh nghiệp. Cơ hội và rủi ro đi cùng với giai đoạn này dẫn đến sự thay đổi thứ bậc liên tục của 10 tập đoàn hàng đầu. Chỉ vào cuối những năm 1970, cấu trúc cộng đồng doanh nghiệp Hàn Quốc mới được bình ổn.
Thứ tư, ý thức được về mối nguy hiểm rằng chaebol có thể sử dụng hoa lợi của họ để trở thành các trung tâm quyền lực chính trị thay thế bằng chính sức họ hoặc trở thành đồng minh thế yếu của các chính trị gia đảng phái, Park khẳng định rất rõ với các doanh nghiệp lớn rằng sự hỗ trợ của ông cho các dự án đầu tư công nghiệp rủi ro chỉ đến với điều kiện các doanh nghiệp này không tự họ theo đuổi quyền lực chính trị. Chắc chắn là đã có những chính trị gia chuyển từ chaebol sang như Kim Seong-gon của Ssangyong, người gây quỹ chính trị cho Đảng Cộng hòa Dân chủ (DRP) cầm quyền bằng cách nâng cao vị thế cho doanh nghiệp của mình, tuy nhiên những người này thường là ngoại lệ chứ không phải đa số. Park muốn chaebol duy trì vai trò doanh nhân. Khi ông trông cậy vào những người như Kim Seong-gon để gây quỹ chính trị, Park khẳng định rất rõ rằng họ chỉ làm việc cho mình ông với sự tin tưởng của ông. Khi họ vượt ra khỏi vai trò là người bảo vệ để tìm kiếm quyền lực riêng cho mình, như Park từng nghĩ về Kim Seong-gon vào năm 1972, ông nhanh chóng trừng trị những kẻ thách thức có thật hoặc trong tưởng tượng đó nhằm gửi đi một thông điệp rõ ràng đến tất cả mọi người rằng những người gây quỹ cho DRP chỉ là những người bảo vệ, rằng quyền lực tối cao chỉ nằm trong tay Park, và rằng chaebol không nên tìm kiếm quyền lực chính trị cho riêng mình. Nguyên tắc rằng chaebol không nên tự mình trở thành các thế lực chính trị là yếu tố cần thiết để Park chọn được các đối tác chủ yếu dựa trên kết quả kinh doanh, kiểm soát chaebol thông qua cạnh tranh độc quyền nhóm và thiết lập kỷ luật phòng tránh các hiểm họa đạo đức tồi tệ nhất bằng cách để cho các chaebol yếu kém nhất phải trải qua một giai đoạn điều chỉnh. Việc biến chaebol thành trung tâm quyền lực chính trị thay thế bằng chính sức mình hoặc trở thành đồng minh thế yếu với các chính trị gia đảng phái chắc hẳn sẽ ngăn cản nhiệm vụ vốn rất thách thức là cân bằng giữa các xu hướng diều hâu và phát triển của nhà nước, giữa chủ nghĩa thân hữu và năng lực kinh doanh của chaebol, và giữa việc sản sinh ra hoa lợi và điều tiết các hiểm họa đạo đức sau đó.
Nói như trên không có nghĩa là Park đã có sẵn bốn nguyên tắc và chuẩn mực này để vận hành mối quan hệ nhà nước- chaebol ngay từ thuở ban đầu của chế độ cầm quyền. Ngược lại, những nguyên tắc và chuẩn mực này được hình thành từ các xung đột chính trị, sai lầm chính sách và được học hỏi trong suốt 18 năm cầm quyền. Chúng liên tục được thiết lập và tái thiết lập khi Park đi lắt léo nhằm tìm một công thức phù hợp để quan hệ hợp tác nhà nước- chaebol có thể giúp ông sử dụng hoa lợi cho các mục đích hiệu quả kinh tế. Chương 9 phân tích quá trình thiết lập các nguyên tắc và chuẩn mực chi phối mối quan hệ nhà nước- chaebol trong kỷ nguyên của Park.
Hợp tác với chaebol, 1961-1963
Khi Park nắm quyền vào năm 1961, ưu tiên hàng đầu của ông là giành được sự ủng hộ của công chúng cho cuộc đảo chính quân sự của mình. Đã lật đổ chính quyền Chang Myon được bầu lên một cách dân chủ bằng vũ lực với lý do xóa bỏ tham nhũng, thiết lập trật tự chính trị và xây dựng năng lực nhà nước, Park chắc chắn phải biện minh cho cuộc đảo chính bằng cách nhấn mạnh vào khả năng tạo ra tăng trưởng kinh tế. Lý luận kỹ trị này đã khiến Park phải tìm ra cách thức thuyết phục cộng đồng doanh nghiệp, vì chỉ với sự ủng hộ của cộng đồng này ông mới có thể làm kinh tế tăng trưởng. Do đó, vào những tháng đầu tiên của chính quyền quân sự, Park bận rộn với nhiệm vụ chọn ra các doanh nhân mà ông tin tưởng và cộng tác để thiết kế các nguyên tắc và chuẩn mực vận hành mối quan hệ nhà nước- chaebol theo hướng tạo ra sự cất cánh về kinh tế. Mục tiêu là phải khiến chaebol hợp tác trong các dự án công nghiệp do nhà nước hoạch định thông qua trao đổi sự ủng hộ chính trị với hoạt động chấp nhận rủi ro bất cân xứng của chính phủ và chaebol.
Dù mang ý thức hệ trung ương tập quyền, Park biết rằng ông chỉ có thể đạt được các mục tiêu kinh tế với sự hợp tác từ khối tư nhân. Do đó, ông tìm cách nâng cao vị thế nhà nước, nhưng ông làm vậy không phải để mở rộng năng lực sản xuất trực tiếp của nhà nước bằng các chaebol, mà để có được sự tuân thủ của khối tư nhân với các mục tiêu chính sách do nhà nước thiết kế. Và để thuyết phục chaebol đầu tư vào các hình thức sản xuất và hoạt động thị trường rủi ro hơn nữa, Park sẵn sàng hỗ trợ các đối tác chaebol được ông lựa chọn một cách chiến lược trong hoạt động nâng cao năng lực kinh doanh. Để nâng cao vị thế nhà nước nhằm thuyết phục chaebol hợp tác với chính quyền quân sự, Park tập trung hóa quyền lực vào Ban Kế hoạch Kinh tế (EPB) và dùng cơ quan này khuyến khích chaebol gánh vác rủi ro để đổi lấy những hỗ trợ chính trị. Ông cũng quốc hữu hóa tất cả các ngân hàng thương mại nhằm kiểm soát các nguồn vốn. Theo lệnh của Bộ Tài chính (MoF), ngân hàng không còn hoạt động như những chủ thể giao dịch tài chính thương mại. Thay vì vậy, chúng trở thành một công cụ mà thông qua đó nhà nước có thể đảm bảo được sự tuân thủ của doanh nghiệp với các mục tiêu trong chính sách công nghiệp và kế hoạch kinh tế vĩ mô. Bằng cách ngấm ngầm đe dọa chấm dứt các khoản cho vay ưu đãi ngân hàng nếu người đi vay không thể đạt được các chỉ tiêu do nhà nước đặt ra, MoF sử dụng các ngân hàng thương mại như là cả củ cà rốt và cây gậy trong nỗ lực định hình lại những ưu tiên, lợi ích và chiến lược của các doanh nghiệp theo định hướng Kế hoạch Phát triển Kinh tế 5 năm (FYEDP).
Khi Park sắp xếp xong tổ hợp bộ máy quan liêu kinh tế tập trung hóa và các ngân hàng thương mại quốc doanh vào tháng 7 năm 1961, ông bắt đầu tìm kiếm các đối tác doanh nghiệp. Sự lựa chọn của ông là các chaebol mà ban đầu ông đã ra lệnh giam giữ tại gia những chủ sở hữu-giám đốc của chúng vì tội tích lũy tài sản phi pháp ngay sau cuộc đảo chính quân sự. Mặc dù công chúng vẫn còn chỉ trích hoạt động trục lợi của các công ty lớn này trong thời Lý Thừa Vãn (1948-1960), Park nhanh chóng đánh giá cao các kết quả kinh doanh thành công đã được chứng minh của những lãnh đạo này. Và trong bất cứ trường hợp nào, tính kinh tế theo quy mô cần thiết để hiện thực hóa tầm nhìn của Park về việc xây dựng một nền kinh tế công nghiệp hiện đại trong cuộc đời mình sẽ không thể đạt được khi dựa vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME). Các doanh nghiệp lớn với khả năng tiếp cận vốn và công nghệ là những chủ thế duy nhất có thể tham gia vào các dự án hạ tầng quy mô lớn và sản xuất hảng loạt các hàng hóa xuất khẩu.
Mặt khác, Park loại bỏ những công ty đa quốc gia (MNC) ra khỏi các đối tác doanh nghiệp tiềm năng của mình vì cả ý muốn của ông và vì điều đó là cần thiết. Các ký ức về sự bóc lột của thực dân Nhật vẫn còn mới đó trong tư tưởng của người Hàn Quốc khiến lựa chọn tạo ra tăng trưởng kinh tế thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) không được ủng hộ. Là một người ngưỡng mộ công cuộc Tái thiết Minh Trị Nhật Bản đã hiện đại hóa đất nước bằng cách nuôi dưỡng những “công ty hàng đầu quốc gia”, cá nhân Park cũng ưu tiên duy trì sở hữu quốc gia đối với các tài sản sản xuất và chọn các khoản vay thương mại nước ngoài thay vì FDI để xây dựng các ngành công nghiệp non trẻ. Không những thế, Park càng quyết tâm hơn trên con đường dân tộc chủ nghĩa tiến đến hiện đại hóa vì Hàn Quốc không phải là một nơi chốn đầu tư thân thiện với MNC, nước này bị ảnh hưởng bởi tình trạng bất ổn chính trị triền miên, thị trường nội địa hạn hẹp và tài nguyên thiên nhiên nghèo nàn. Nền kinh tế lúc bấy giờ cũng vẫn còn phải chật vật với hoạt động tái thiết sau Chiến tranh Triều Tiên.
Ngược lại, lựa chọn thay thế những nhà sản xuất tư nhân bằng các doanh nghiệp sở hữu nhà nước (SOE) để giữ vai trò bộ máy tăng trưởng đã được thử nghiệm trong một giai đoạn ngắn vào giữa năm 1962 khi Park thất vọng với sự đình trệ trong các hoạt động đầu tư do các tập đoàn chaebol hứa hẹn ở các dự án của FYEDP đầu tiên, ủng hộ các ý tưởng cấp tiến về tiết kiệm cưỡng bức được vạch ra bởi Cơ quan Tình báo Trung ương Hàn Quốc (KCIA) do Kim Jong-pil đứng đầu, Park xem Công ty Phát triển Công nghiệp Hàn Quốc (KIDC) thuộc kiểm soát nhà nước mới được củng cố như một kênh truyền dẫn nguồn lực tài chính từ các tài khoản ngân hàng bị đóng băng vào các dự án FYEDP trong cuộc cải cách tiền tệ tháng 6 năm 1962. Hoạt động trong thời gian ngắn với chủ nghĩa trung ương tập quyền cấp tiến này kết thúc như một thất bại chính trị cay đắng, Hoa Kỳ phản đối dữ dội với việc tạm ngưng viện trợ vì nước này cáo buộc chính quyền quân sự đang cố gắng hướng đến một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Với hơn 90% ngân sách quốc gia từ các quỹ đối giá [129] do viện trợ Mỹ tạo ra vào năm 1961, Park không thể nào quay lại với cuộc cải cách tiền tệ và hoạt động tài trợ dự án thông qua KIDC. Chính quyền quân sự nhận thấy cần chuyển sang nhiệm vụ ban đầu là đàm phán về mối quan hệ nhà nước- chaebol, mối quan hệ sẽ biến chaebol thành một đối tác sẵn sàng của nhà nước trong công cuộc phát triển kinh tế.
Đối với Hàn Quốc, loại bỏ các lựa chọn chủ nghĩa trung ương tập quyền trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển kinh tế sẽ dọn đường cho quá trình siêu tăng trưởng. Các SOE của Hàn Quốc không có vốn, công nghệ hoặc chuyên môn quản lý cần thiết để phát triển lĩnh vực sản xuất hiện đại. Chúng cũng từng là điểm nóng của tham nhũng và kém hiệu quả dưới thời Lý Thừa Vãn cầm quyền, chúng ủng hộ Đảng Tự do của ông này trong vai trò nguồn cung cấp quỹ tranh cử. Mặc cho những tuyên bố của chính quyền quân sự về chống tham nhũng, ít có khả năng những người tổ chức đảo chính yếu ớt về mặt chính trị - thiếu tính chính danh ý thức hệ bên ngoài và bị kẹt vào những cuộc tranh giành quyền lực bè phái bên trong - có thể duy trì kỷ luật trong việc sử dụng quyền lực và chống lại cám dỗ tham nhũng. Mở rộng các SOE chắc hẳn chỉ tạo ra thêm cho các bè phái cạnh tranh trong chính quyền quân sự một động lực nữa để sử dụng bộ máy nhà nước cho hoạt động trục lợi.
Vì vậy, chắc chắn là cho đến giữa năm 1962, nếu không phải là ngay từ những ngày đảo chính quân sự vào tháng 5 năm 1961, việc kết hợp với các doanh nghiệp nội địa lớn đã trở thành một lựa chọn ít rủi ro chính trị và có tính khả thi kinh tế hơn với Park. Do đó, cá nhân ông đã chọn ra một số đối tác doanh nghiệp trọn đời với mình trong số các chaebol trên cơ sở hai tiêu chí tiềm ẩn mâu thuẫn với nhau. Một mặt, Park tìm kiếm những chủ sở hữu chaebol có quá trình hoạt động kinh doanh vững vàng để tận dụng những nguồn lực kinh doanh tốt nhất của Hàn Quốc. Cụ thể hơn, ông tìm kiếm doanh nhân có khát khao tăng trưởng và sẵn sàng chịu rủi ro cao. Park tìm kiếm những lãnh đạo doanh nghiệp giống mình: có tầm nhìn. Jeong Ju-young của Hyundai bộc lộ được tinh thần này hơn hẳn bất cứ ai khác trong các chaebol. Tuy nhiên bên cạnh đó, Park cũng bảo trợ cho các chủ sở hữu-giám đốc chaebol sinh ra ở Gyeongsang mỗi khi có thể nhằm xây dựng một nền tảng tài chính vững chắc cho liên minh cầm quyền mang tính địa phương của mình. Chiến lược chọn ra các đối tác chaebol trên cơ sở kết quả kinh doanh và nền tảng địa phương nhằm cân bằng các yêu cầu về tăng trưởng kinh tế và xây dựng liên minh chính trị bắt nguồn từ những năm chính quyền quân sự khi Park bị thách thức bởi những người tổ chức đảo chính từ vùng Pyeongan và Hamgyeong (xem Chương 1 và 2), tuy nhiên điều này càng được tiếp tục tăng cường kể cả sau cuộc bầu cử tổng thống tháng 10 năm 1963. Mặc dù vậy, cần phải nhấn mạnh rằng mối hợp tác này đòi hỏi hai bên đối tác phải sẵn sàng. Lựa chọn của Park cũng cần phải là lựa chọn của các doanh nhân nếu muốn tạo thành khoản đầu tư thật sự. Theo quan điểm của giới doanh nhân, tầm nhìn của chính quyền quân sự về một cú hích lớn vào quá trình công nghiệp hóa không chỉ tạo ra những cơ hội mới mà còn có những thách thức mới. Tùy vào kết quả của các hoạt động chấp nhận rủi ro, các doanh nhân kỳ cựu có thể xây dựng nên một đế chế gồm các doanh nghiệp liên kết ở các ngành công nghiệp không liên quan với nhau hoặc phải chứng kiến các công ty của họ bị xáo động đến tận gốc rễ dưới các áp lực tài chính. Không tham gia vào cuộc đua cũng sẽ gây ra thiệt hại vì những doanh nghiệp cấp hai có thể sẽ chấp nhận rủi ro để gạt ra ngoài những công ty đang dẫn đầu với mục tiêu đạt được sự hỗ trợ chính trị của Park. Khi đã bị soán ngôi bởi các ngôi sao đang lên, các tập đoàn dẫn đầu có thể bị mất đi các quyền tiếp cận đặc biệt đến các khoản vay ngân hàng mà trước đó họ được hưởng.
Trớ trêu thay, nỗ lực của các lãnh đạo doanh nghiệp nhằm thiết lập các kênh liên lạc và hợp tác với các nhà cầm quyền mới của Hàn Quốc đã khởi đầu trong hoàn cảnh tồi tệ nhất có thể xảy ra đối với họ, vào lúc đó các lãnh đạo đảo chính, với mục tiêu giành được sự ủng hộ của quần chúng, đã phát động một cuộc điều tra nhằm vào tài sản của các lãnh đạo doanh nghiệp thu được vào những năm 1950. Ngày hôm sau cuộc đảo chính, Park bắt giam 21 lãnh đạo doanh nghiệp vì tội tích lũy tài sản phi pháp. Một số sĩ quan trẻ trong chính quyền quân sự thậm chí còn kêu gọi tử hình một số lãnh đạo chaebol để xóa bỏ tham nhũng một lần và mãi mãi. Đến cuối tháng 5 năm 1961, Hội đồng Tối cao Tái thiết Quốc gia (SCNR) đã chính thức thiết lập một ủy ban điều tra và đưa vấn đề này lên vị trí hàng đầu trong lịch trình nghị sự của hội đông. Tốc độ nhanh chóng khi chính quyền quân sự bắt giam các doanh nhân lớn và tính trầm trọng trong các án phạt cho thấy rằng phái chính thống của chính quyền này, do Park và Kim Jong-pil lãnh đạo, đã hoạch định một kế hoạch chi tiết để truy tố những cá nhân này trước khi phát động đảo chính. Các doanh nhân bị buộc tội chiếm đoạt phi pháp các tài sản do nhà nước đầu tư, thu mua không lành mạnh ngoại tệ của nhà nước với tỷ giá ưu đãi, kiếm lợi từ hoạt động đấu giá không công bằng, thu lợi phi pháp từ các khoản vay nước ngoài do nhà nước phân bổ, trốn thuế và chuyển trái phép tài sản sang nước ngoài để cung cấp quỹ chính trị cho các chính trị gia Đảng Tự do.
Vì đặc trưng hoạt động [Modus operandi] [130] của các doanh nghiệp dưới chế độ Đảng Tự do là trục lợi, khiến tham nhũng trở thành một phần của hoạt động kinh doanh thường ngày, nên hầu hết các chủ sở hữu-giám đốc chaebol vào thời gian đó đều rất khó chống cự lại các cáo buộc của chính quyền quân sự. Đặc biệt, những người quản lý doanh nghiệp trong “ba ngành công nghiệp trắng” siêu lợi nhuận (nhà máy đường, nhà máy bột mì và nhà máy sợi) đã trở thành mục tiêu của các cuộc thanh tra vì sự giàu có của họ phần lớn là nhờ vào những phân bổ ưu đãi hàng viện trợ Mỹ, cấp phép nhập khấu, giấy phép sản xuất và các khoản vay ngân hàng ưu đãi của nhà nước. Thị trường độc quyền nhóm đảm bảo lợi nhuận cao cho ba ngành công nghiệp trắng là một cấu trúc được nhà nước đồng thuận và duy trì. Chịu sự điều tra là hai trong số các ông trùm thành công nhất: Yi Byeong-cheol của Samsung, công ty với số tài sản phi pháp được ước tính chính thức là 800 triệu won (19% của tổng số tài sản phi pháp) và Hong Jac Seon của Dệt may Kumseong, tập đoàn mà sau này trở thành Ssangyong.
Cũng mạnh mẽ như khi chính quyền quân sự biểu dương sức mạnh nhằm đe dọa và thách thức các doanh nghiệp lớn vào tháng 5 năm 1961 với cuộc điều tra nhằm vào các thỏa thuận làm ăn do Đảng Tự do môi giới, động thái bỏ qua quá khứ và tiến đến xây dựng một cỗ máy tăng trưởng với cùng các chủ sở hữu-giám đốc chaebol trong vai trò những đối tác thế yếu bất thình lình diễn ra. Vào ngày 27 tháng 6, Yi Byeong-cheol trở về từ Nhật Bản để đối mặt với các án phạt. Tuy nhiên, những gì đang chờ đợi ông lại không phải là án phạt tù mà là một cuộc họp mang tính lịch sử với Park Chung Hee. Trong buổi họp, Yi Byeong-cheol thuyết phục Park rằng việc khởi tố sẽ vô tình ngăn cản Park theo đuổi quá trình tăng trưởng kinh tế vì gây tổn thương không thể khắc phục được đến niềm tin của doanh nghiệp. Vị lãnh đạo chaebol Samsung thêm vào rằng Park sẽ có lợi hơn khi yêu cầu các lãnh đạo doanh nghiệp phấn đấu vì quá trình công nghiệp hóa nhanh chóng của Hàn Quốc so với khi bỏ tù họ, điều đó chỉ làm lãng phí tài năng của họ. Park biết rõ hơn bất cứ ai khác rằng ông phải hợp tác với các doanh nghiệp lớn nếu muốn đưa đất nước vào lộ trình phát triển. Đa số các chuyên môn quản lý, năng lực tổ chức, vốn, công nghệ cần thiết cho quá trình hiện đại hóa đều nằm trong tay các chaebol, chứ không phải các lực lượng vũ trang. Hơn nữa, kể cả khi so sánh với bộ máy quan liêu nhà nước thì các chaebol, với tinh thần khởi nghiệp, mới giống với một phương tiện lý tưởng để tấn công vào các thị trường xuất khẩu.
Quan trọng không kém đối với Park, dựa vào chaebol như một công cụ hiện đại hóa không gây ra nguy hiểm cho các lợi ích chính trị của ông vì chaebol không phải là “giới tư sản hiếu thắng”, ông chắc chắn về sứ mệnh lịch sử và tính chính danh ý thức hệ của tầng lớp này. Thay vì vậy, các tập đoàn hàng đầu bị xem như là những kẻ trục lợi, chực chờ các giấy phép, khoản vay nhà nước và bị buộc tội tích lũy tài sản phi pháp. Họ không ở vào vị trí có thể đòi hỏi tính chính danh chính trị, điều này khiến Park bớt do dự khi tiến hành sự thay đổi bước ngoặt quay ngược lại để hợp tác với họ và ủng hộ sự đa dạng hóa cũng như sự tập trung hóa của các tập đoàn này. Vì vậy từ tháng 6 một loạt những cuộc đàm phán gây áp lực kín đã bắt đầu giữa nhà nước và chaebol, từ đó các điều kiện đổi chác chính trị được vạch ra để dọn đường cho hoạt động đầu tư doanh nghiệp và các dự án FYEDP.
Vào tháng 8, với sự đồng thuận của Park, các lãnh đạo doanh nghiệp khởi động Hiệp hội Chủ tịch Công ty Quốc gia, tổ chức sẽ trở thành Liên đoàn Công nghiệp Hàn Quốc (FKI) vào năm 1968. Được thiết lập như là một tổ chức hội nghị cấp cao của các tập đoàn công nghiệp lớn, FKI không chỉ đóng vai trò như một kênh đóng góp ý kiến và bảo vệ lợi ích tập thể của các doanh nghiệp lớn mà còn cho phép nhà nước kiểm soát, định hình và tác động đến những lợi ích đó. Tinh thần đồng đội phát triển thông qua FKI sẽ giúp nhà nước và chaebol cùng nhau thực thi các nhiệm vụ đầy thách thức về việc đàm phán phân chia thị trường cần thiết để thiết lập “các cartel hợp lý hóa công nghiệp” nhằm ngăn cản tình trạng “cạnh tranh quá mức” giữa các tập đoàn đối thủ. Đồng thời Park cũng tổ chức FKI để độc chiếm lòng trung thành chính trị của các thành viên trong tổ chức này và ngăn chặn không chỉ phe đối lập mà cả các đối thủ tiềm năng bên trong liên minh cầm quyền chiếm được nguồn cung các quỹ chính trị độc lập. Khi đã tập hợp tất cả các doanh nghiệp lớn vào FKI, Park ưu tiên tiến hành các thỏa thuận làm ăn với từng chaebol một, thường là sau những cánh cửa đóng và trong các cuộc trao đổi trực tiếp một đối một với các chủ sở hữu-giám đốc, thay vì công khai thông qua những kênh của FKI.
Trớ trêu thay, Park đã dựa vào chính vấn đề tích lũy tài sản phi pháp để xây dựng một hệ thống hợp tác nhà nước- chaebol theo điều kiện của ông. Ông có thể tiêu diệt bất cứ chủ sở hữu-giám đốc chaebol nào không hợp tác bằng cách áp mức phạt rất cao, hoặc bảo vệ những người hợp tác bằng cách tuyên trắng án cho họ trước những cáo buộc thỏa thuận làm ăn không minh bạch. Chính bằng cách điều chỉnh các mức phạt này, Park cho rằng ông có thể áp đặt điều kiện tham gia vào các dự án FYEDP cho các tập đoàn chaebol và vị trí của họ trong hoạt động chính trị đảng phái. Cuộc đàm phán về việc xóa án cho các chủ sở hữu doanh nghiệp khỏi các án phạt dành cho họ là một vở diễn được dàn xếp khéo léo, với Park là nhà sản xuất chú tâm đến tính tuân thủ tối đa từ các đối tác tương lai của mình. Các chủ sở hữu-giám đốc chaebol gồm cả Yi Byeong-cheol, người bị giam giữ tại gia, đều hiểu rõ các ý đồ của Park. Họ hiểu rằng chính trị trong công cuộc công nghiệp hóa nhanh chóng — chứ không phải là các cuộc bầu cử - là lựa chọn duy nhất và rằng họ phải giúp Park thực hiện được tầm nhìn và các tham vọng kinh tế của ông nếu họ còn muốn tồn tại. Họ cũng hiểu rằng vấn đề quan trọng nhất không phải là mối nguy bị bỏ tù, điều này sẽ không xảy ra khi Park đã họp với Yi Byeong-cheol vào ngày 27 tháng 6 để khởi động những cuộc đối thoại về quan hệ hợp tác nhà nước- chaebol, mà đó chính là quyết định của Park về hai vấn đề có quan hệ mật thiết là mức độ áp đặt các mức phạt và cách thức phân bổ các dự án FYEDP giữa các chaebol. Tùy vào bản chất của các dự án đã được xác định và mức phạt được áp dụng, các chủ sở hữu-giám đốc có cơ hội để phát triển thành tập đoàn công nghiệp ở cả hình thức lẫn thực thế, hoặc có thể mất khả năng chi trả dưới áp lực của các lực thị trường và các mức phạt pháp lý.
Tuy nhiên, để hai bên đến được thỏa thuận cuối cùng, một số nỗ lực đàm phán là cần thiết. Vào tháng 8 năm 1961, chính quyền quân sự thông qua Luật Đặc biệt Xử lý Vốn đầu tư Tích lũy Phi pháp, đạo luật này cho phép các lãnh đạo doanh nghiệp bị buộc tội tích lũy tài sản phi pháp “đóng góp” cho nhà nước những xí nghiệp mà họ sẽ xây dựng dưới sự định hướng của nhà nước thay cho một khoản phạt. Đây là ý tưởng của các chủ sở hữu-giám đốc chaebol. Bằng cách thuyết phục Park thông qua đạo luật đặc biệt này thay vì ngay lập tức trưng dụng khối tài sản tích lũy phi pháp đó, các lãnh đạo doanh nghiệp tranh thủ được thời gian để tạo dựng niềm tin nơi Park thông qua việc tham gia vào các dự án FYEDP và sử dụng lòng tin này nhằm tái đàm phán về các mức phạt sau này. Với chiến lược tái đàm phán điều kiện cho các hình phạt và thậm chí có thể là hủy bỏ chúng khi đạt được vị thế mạnh về chính trị, 18 trong số 21 kẻ tích lũy tài sản trái phép ban đầu bắt đầu xây dựng các xí nghiệp được Park hoạch định cho.
Như các chủ sở hữu-giám đốc hy vọng, Park nhanh chóng loại bỏ kế hoạch quốc hữu hóa các xí nghiệp sắp được xây dựng bởi những người tích lũy tài sản phi pháp. Thay vì quốc hữu hóa, Park quay lại với lựa chọn áp đặt các mức phạt. Tuy nhiên đến tháng 1 năm 1962, Park đã cắt giảm các mức phạt hai lần, giảm 90% vào lần thứ nhất và giảm một nửa vào lần thứ hai. Cuối cùng, chaebol cũng xoay sở vượt qua được với chỉ một hình phạt nhẹ. Rõ ràng, Park không bao giờ có ý định trừng phạt chaebol vì những thỏa thuận làm ăn không minh bạch trong quá khứ. Ngược lại, ngay từ đầu ưu tiên hàng đầu là buộc chaebol thỏa hiệp với tầm nhìn của ông về hiện đại hóa và chấp nhận sự chỉ huy về mặt hành chính của nhà nước ở các hoạt động đầu tư. Vấn đề tích lũy tài sản phi pháp chỉ là một công cụ trong trò chơi gây áp lực để “thuyết phục” chaebol hợp tác với Park.
Hơn nữa, khi Park mạo hiểm đàm phán các điều kiện mới cho quan hệ hợp tác nhà nước- chaebol, các doanh nghiệp lớn rõ ràng đã nâng cao vị thế trước Park. Thứ nhất, khi các nguồn lực được tập trung vào các dự án đầu tư của các tập đoàn chaebol, Park chắc chắn phải xem thất bại kinh doanh của các tập đoàn chaebol như là thất bại chính trị của nhà nước phát triển mà ông đang xây dựng trong vai trò là đối tác của chaebol. Vì vậy, cán cân quyền lực dịch chuyển về phía chaebol vì nhà nước cho rằng tình trạng phá sản của các tập đoàn sẽ đe dọa đến năng lực tài chính của chính nhà nước. Thứ hai, điểm yếu chính trị của chaebol trở thành một nguồn gây ảnh hưởng lên chính sách kinh tế vì nó cho phép Park ủng hộ các doanh nghiệp lớn mà không hề sợ hãi về việc vô tình phát triển một trung tâm quyền lực chính trị thay thế. Tự tin trước điểm yếu chính trị của các tập đoàn nhưng cũng lo sợ về các hệ quả chính trị tiêu cực của suy thoái kinh tế, Park cung cấp các khoản trợ cấp cho chaebol để tham gia vào các mặt trận tăng trưởng mới.
Thứ ba, động lực của giao dịch chính trị chính nó đã tăng cường ảnh hưởng của chaebol. Vì các chủ sở hữu-giám đốc ra quyết định gia nhập dựa trên lời hứa hỗ trợ của Park, việc thu hồi trợ cấp nhà nước trong giai đoạn khó khăn kinh doanh sẽ được nhìn nhận như sự vi phạm thỏa thuận chính trị giữa Park và chaebol, điều này có thể gây thiệt hại không thể khắc phục đối với niềm tin vào Park và theo đó là khả năng ông thuyết phục được những nhà đầu tư tương lai chấp nhận rủi ro. Theo một cách nào đó, thời điểm Park và chaebol đồng ý cùng nhau theo đuổi các dự án FYEDP như một phần trong các nỗ lực của họ để bỏ qua vấn đề tích lũy tài sản phi pháp, cả hai bên đều đánh mất đi phần lớn khả năng thao túng chính trị của mình. Nhà nước không thể ngừng việc hỗ trợ khi muốn. Chaebol cũng không còn tự do thoát khỏi các lĩnh vực kinh doanh chỉ vì thiệt hại tài chính. Liên minh giữa Park và chaebol có nghĩa là họ đã trở thành người bảo vệ lẫn nhau và rằng họ phải cùng nhau chống chọi với tình trạng kiệt quệ của doanh nghiệp và nền tài chính.
Cả trong thời kỳ định hình chính quyền quân sự, việc chaebol giúp Park hoạch định các mục tiêu còn bộ máy quan liêu nhà nước thực thi các ý tưởng của chaebol cũng không quá bất thường. Chính Yi Byeong-cheol là người thuyết phục Park nhượng bộ về vấn đề tích lũy tài sản phi pháp để đổi lấy sự tham gia của chaebol vào các dự án FYEDP vào tháng 6 năm 1961. Sau đó, Park định kỳ tham vấn Yi Byeong-cheol, và thậm chí hỗ trợ cho các cố gắng của Yi nhằm tổ chức khối doanh nghiệp lớn trong vai trò chủ tịch đầu tiên của FKI mới được thành lập. Trong vai trò này, Yi Byeong-cheol lãnh đạo một phái đoàn các lãnh đạo doanh nghiệp đến Hoa Kỳ và Đông Âu như một phần trong nỗ lực thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Điểm mấu chốt ở đây chính là sự tồn vong của các doanh nghiệp vì các chủ sở hữu-giám đốc đang tiến hành xây dựng các nhà máy họ cần phải xây để đổi lấy sự đồng ý trì hoãn và giảm nhẹ mức phạt của Park. Không lâu sau chuyến đi này, vào ngày 11 tháng 1 năm 1962, FKI trình một đề án xây dựng Khu phức hợp Công nghiệp Ulsan. Ba tuần sau, Park tổ chức lễ khởi công. Dự án Ulsan sẽ phổ biến ý tưởng xây dựng một cụm các ngành công nghiệp liên kết trước và sau trong một khu vực địa lý nhỏ với mục đích tạo điều kiện cho những hoạt động tập thể phối hợp nhịp nhàng giữa nhà nước và cộng đồng doanh nghiệp, giữa nhà cung cấp và công ty lắp ráp, giữa khu vực công nghiệp và dịch vụ. Rất nhiều các khu phức hợp công nghiệp và khu công nghiệp cuối cùng đã mọc lên khắp Hàn Quốc trong giai đoạn 1963-1979.
Kim Ip-sam, phó chủ tịch điều hành FKI trong toàn bộ kỷ nguyên của Park, có lần nhớ lại rằng “chính Park đã một vài lần thừa nhận rằng ông không biết gì về nền kinh tế trong các cuộc họp với các lãnh đạo doanh nghiệp ngay sau cuộc đảo chính quân sự 1961.” Nhiều trong số các ý tưởng đổi mới này sau này trở thành thương hiệu của ông có nguồn gốc từ chaebol. “Chiến lược phát triển xuất khẩu đầu tiên được đề nghị bởi Jeon Tae-bo của Cheonusa, một nhà sản xuất hàng hóa và đồ chơi từ da thuộc. Ý tưởng thu hút vốn đầu tư và các khoản vay thương mại nước ngoài thông qua các khu phức hợp công nghiệp cũng được các lãnh đạo doanh nghiệp đề xuất cho Park trong những ngày đầu của chính quyền quân sự.” Chắc chắn là, Kim Ip-sam công nhận rằng các ý tưởng này đơm hoa kết trái chỉ vì “Park là một con người phi thường, cởi mở với các ý tưởng mới và có khả năng biến chúng thành một chương trình hành động cụ thể khả thi” và là “một học viên nhanh nhạy... cực kỳ quan tâm đến nền kinh tế. Ông chăm chỉ tìm tòi để học hỏi về các vấn đề kinh tế và để khám phá ra những cách thức mang lại phát triển kinh tế. Tuy nhiên, điều quan trọng là chính chaebol mới là nơi có các ý tưởng và phương tiện để đạt được phát triển kinh tế.” Ngay cả trong giai đoạn phát triển công nghiệp nhẹ “dễ dàng” trong những năm 1960, Park cũng cần chaebol nhiều như chaebol cần ông để tạo ra tăng trưởng công nghiệp. Sự phụ thuộc lẫn nhau của hai bên càng trở nên rõ rệt hơn vào những năm 1970 khi Park tiến hành chương trình công nghiệp hóa ngành công nghiệp nặng và hóa chất (HCI).
Sự tái sinh của chaebol, 1964-1967
Vào những năm đầu của FYEDP thứ nhất, nền kinh tế tạo ra kết quả thảm hại bất chấp việc cải tổ toàn diện nhà nước và sự thay đổi rõ rệt các ưu tiên chính trị theo hướng tăng trưởng kinh tế. Ban đầu các điều kiện kinh tế bất lợi đã được viện đến, nhưng Park nhanh chóng nhận ra rằng vấn đề này có những gốc rễ sâu xa hơn. Sau những biện pháp tiết kiệm cưỡng bức cấp tiến, bao gồm sự đổ bể của cuộc cải cách tiền tệ và KIDC tháng 6 năm 1962, làm tê liệt nền kinh tế, Park ra lệnh cho EPB điều chỉnh FYEDP lần thứ nhất vào cùng tháng 12 năm đó. Kế hoạch điều chỉnh, được công bố vào tháng 2 năm 1964, kêu gọi tập trung nguồn lực vào một số ngành công nghiệp chiến lược và thúc đẩy xuất khẩu để chống chọi lại được với những biến động của thị trường thế giới. Các nguyên tắc tập trung nguồn lực và thúc đẩy xuất khẩu cho thấy rằng Park lúc này đang sao chép Nhật Bản Minh Trị trong chiến lược hiện đại hóa của ông, trong chiến lược này nhà nước toàn quyền làm việc với các siêu cường kinh tế zaibatsu để phát triển ở các thị trường xuất khẩu. Tuy nhiên không giống như zaibatsu của Nhật trước Thế Chiến II sở hữu các công ty công nghiệp và các tổ chức tài chính trong tổ chức tập đoàn của họ, chaebol của giữa những năm 1960 đơn thuần là những đơn vị sản xuất. Việc chính quyền quân sự quốc hữu hóa các ngân hàng thương mại vào năm 1961 đã giúp Bộ Tài chính kiểm soát chaebol.
Khi Park chắc chắn về sự tham gia của chaebol vào các dự án FYEDP, rất nhiều tập đoàn chaebol hàng đầu được hưởng những quyền tiếp cận đặc biệt đến bộ máy quan liêu nhà nước, gồm cả Nhà Xanh. Một số chaebol được ban phát cho các khoản vay ngân hàng ưu đãi, các khoản vay nước ngoài được nhà nước bảo lãnh và các giấy phép tham gia độc quyền nhóm nhưng đổi lại phải gánh vác rủi ro phát triển các ngành công nghiệp do nhà nước hoạch định và cung cấp các nguồn quỹ chính trị cho Đảng Cộng hòa Dân chủ cầm quyền của Park. Mặc dù Park ngăn cản các doanh nghiệp lớn tự họ trở thành người tham gia vào chính trị đảng phái, ông lại để cho rất nhiều thành viên trong gia tộc của các chủ sở hữu-giám đốc chaebol trở thành những lãnh đạo cấp hai trong liên minh cầm quyền bằng cách nắm giữ các vị trí quan trọng trong DRP. Kim Seong-gon của Ssangyong làm đến vị trí chủ tịch tài chính DRP, phục vụ cho lợi ích của Park trong việc kiểm soát phái chính thống trong DRP của Kim Jong-pil. Vừa là một chính trị gia dân sự thời trước với nền tảng Đảng Tự do và vừa là một cựu doanh nhân với mạng lưới mối quan hệ trải rộng toàn cộng đồng doanh nghiệp Hàn Quốc, Kim Seong-gon được giao cho nhiệm vụ xây dựng phái chống chính thống với mục đích duy trì cân bằng quyền lực bên trong DRP.
Quan hệ hợp tác nhà nước- chaebol mà Park xây dựng có tính hai mặt. Quan hệ này được nuôi dưỡng bởi những hoa lợi hình thành từ các khoản vay ngân hàng có trợ cấp, các khoản vay nước ngoài được nhà nước bảo lãnh, và các giấy phép được phân bổ có chọn lọc, mặc dù vậy chính trị trục lợi không tha hóa thành hình thức diều hâu cướp bóc truyền thống vì trong phân tích trước, chaebol với vai trò những nhà xuất khẩu tồn tại trong một thế giới cạnh tranh của các thế lực thị trường toàn cầu và vì họ vẫn chịu trách nhiệm với Park như những phương tiện được nhà nước thiết kế để xây dựng “nước giàu, quân mạnh”. Park kết nối việc cung cấp hoa lợi nhà nước với khả năng đạt được các mục tiêu FYEDP của các đối tác chaebol, thu hồi lại các nguồn hoa lợi khi ông nghĩ rằng người nhận không thể hoàn thành điều kiện đưa ra cho họ trong thỏa thuận mà không cần giải thích lý do.
Chiến lược của Park có tác dụng vì khả năng sản sinh hoa lợi của nhà nước được củng cố đáng kể thông qua một loạt các quyết định chính sách những năm 1960. Việc ký kết hiệp định bình thường hóa với Nhật Bản vào năm 1965 không chỉ tạo ra một khoản chuyển giao tiền từ Nhật Bản dưới dạng các quỹ bồi thường mà cũng dọn đường cho sự tham gia của các dòng vốn đầu tư thương mại Nhật Bản. Để tạo điều kiện về thể chế cho các khoản vay nước ngoài và FDI, Nghị viện Quốc gia thông qua Luật Phát triển Vốn đầu tư Nước ngoài, được Bộ Tài chính soạn thảo, vào năm 1966. Quyết định năm 1964 của Park để gửi quân chiến đấu đến miền Nam Việt Nam nhằm hỗ trợ các nỗ lực chiến tranh của Mỹ cũng tạo cho chaebol cơ hội kiếm được ngoại tệ. Cuộc chiến này đã tạo ra hai “nàng Lọ Lem”, Hanjin trở thành một ông trùm vận tải kiểm soát một công ty vận tải biển, một hãng hàng không, một công ty xe buýt và xe tải, còn Hyundai trở thành một tập đoàn xây dựng.
Dễ dàng nhận thấy chìa khóa dẫn đến tăng trưởng kinh doanh chính là khả năng tiếp cận các khoản vay nước ngoài được nhà nước bảo lãnh. Ngành sản xuất chiếm 52,1% tổng các khoản vay nước ngoài của Hàn Quốc vào năm 1966 và 69,1% vào năm 1968, đó là một cú nhảy vọt từ 10,3% vào năm 1962. Không những thế, để khuyến khích chaebol chấp nhận rủi ro và các ngân hàng thương mại nước ngoài cho các chaebol đó vay, nhà nước bảo lãnh chi trả 90% các khoản vay thương mại nước ngoài, cả trực tiếp (40%) và gián tiếp thông qua các ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước (50%). Việc nhà nước xã hội hóa các rủi ro và chi phí tài chính như vậy cuối cùng đã thúc đẩy các chaebol tài trợ cho quá trình mở rộng và đa dạng hóa kinh doanh quyết liệt thông qua các khoản cho vay được cấp.
Lợi ích chaebol nhận được khi trở thành người thụ hưởng các khoản vay nước ngoài được nhà nước bảo lãnh không chỉ là tổng số tiền vay nước ngoài đơn thuần mà bao gồm rất nhiều các đặc quyền từ lãi suất cho vay trong nước thấp đến khả năng tiếp cận dễ dàng nguồn ngoại tệ khan hiếm và thậm chí là lệnh cấm các tổ chức lao động hợp pháp. Lợi ích từ các khoản vay trong nước lãi suất thấp càng đặc biệt lớn khi Park áp dụng “hệ thống lãi suất đảo ngược” vào năm 1965, đặt lãi suất huy động của các ngân hàng trong nước cao hơn lãi suất cho vay. Sự tăng trưởng kinh doanh do được tài trợ từ nợ càng khó cưỡng lại được khi tỷ lệ lạm phát trung bình lúc bấy giờ vào khoảng 21%/ năm - ba đến năm điểm phần trăm dưới mức lãi suất cho vay của ngân hàng quốc doanh. Cũng quan trọng không kém, trái với lãi suất ngân hàng trong nước của Hàn Quốc vào khoảng giữa 24-26% giai đoạn 1965-1970; lãi suất của các khoản vay chính sách xuất khẩu, nhiều trong số này để cấp cho chaebol và được tài trợ bằng nợ nước ngoài, nằm trong khoảng 6,0-6,5%. Báo chí thậm chí còn cáo buộc một số chaebol đã cho vay lại các khoản vay ngân hàng của họ trên thị trường chứng khoán phi chính thức tư nhân, nơi mà lãi suất lên đến 50-60%, thay vì đầu tư vào các dự án sản xuất rủi ro. Theo một cách nào đó, các công ty càng có lợi nhuận khi giành được càng nhiều các khoản vay ngân hàng trong nước.
Bên cạnh đó, Park để cho chaebol xây dựng cấu trúc quản trị tập đoàn, các mối quan hệ liên doanh nghiệp và hệ thống thứ bậc nội bộ theo hướng cho phép họ gia tăng vốn đầu tư với mức rủi ro tối thiểu cho quyền kiểm soát doanh nghiệp của họ. Chaebol thành lập nhiều doanh nghiệp với một lượng vốn chủ sở hữu tối thiểu thông qua hệ thống nắm giữ cổ phần chéo và các khoản bảo lãnh cho vay chéo, khi đó vẫn được bảo vệ hợp pháp khỏi những kẻ mua lại thù địch. Chaebol cũng yêu cầu các công ty con của mình phải hỗ trợ lẫn nhau thông qua các hoạt động mua bán và trợ cấp nội bộ, đồng thời tập trung hóa quy trình ra quyết định nội bộ bằng cách thiết lập một văn phòng hoạch định và quản lý với mục tiêu phối hợp nhịp nhàng các hoạt động hỗ trợ lẫn nhau giữa các công ty liên kết. Cái mà chúng ta biết đến như là chaebol ngày nay đã hình thành từ các thử nghiệm tổ chức giữa những năm 1960: một nhóm các doanh nghiệp có vẻ như độc lập nhưng thật ra lại được điều hành bởi một gia đình chủ sở hữu-giám đốc thông qua cấu trúc quản trị doanh nghiệp khó hiểu, bao gồm nắm giữ cổ phần chéo, bảo lãnh cho vay chéo, mua bán, trợ cấp nội bộ giữa các công ty và các văn phòng hoạch định và quản lý được tập trung hóa. Cấu trúc này cho phép chaebol vận hành như một thực thể thống nhất trong các thị trường đa dạng không liên quan với nhau, có khả năng điều khiển một cách có hệ thống giữa các công ty liên kết về các vấn đề tài chính, nhân sự và quản lý. Nhờ vậy, chaebol tạo nên cách thức huy động các nguồn vốn khan hiếm và cách quản lý các rủi ro kinh doanh gồm những yếu tố không chắc chắn từ thị trường và các điểm yếu so v?