← Quay lại trang sách

PHẦN IV QUAN HỆ QUỐC TẾ Chương 14 BÌNH THƯỜNG HÓA QUAN HỆ VỚI NHẬT BẢN:
HƯỚNG ĐẾN MỘT QUAN HỆ ĐỐI TÁC MỚI
Lee Jung-hoon

Bất kỳ ai kể cả những người không quen thuộc với lịch sử Đông Á cũng sẽ tin vào bản chất độc nhất và phức tạp trong quan hệ Hàn - Nhật. Tính mâu thuẫn trong mối quan hệ thể hiện ở việc dù hai bên vẫn dễ bị tổn thương trước những mâu thuẫn lặp đi lặp lại về các di sản thực dân chưa được giải quyết, nhưng họ vẫn giữ quan hệ cộng sinh từ giữa những năm 1960. Bất chấp những cơn thịnh nộ bài Nhật vẫn thi thoảng nổ ra ở Hàn Quốc, Nhật Bản đã trở thành đối tác thương mại hàng đầu của Hàn Quốc trong gần bốn thập niên, chỉ đứng thứ hai sau Hoa Kỳ. Những năm 1990 và thiên niên kỷ mới chứng kiến sự hợp tác an ninh mở rộng giữa hai nước, tuy nhiên các phong trào chống Nhật vẫn bùng lên khi có vấn đề về chủ quyền của hai đảo nhỏ và nhiều dải đá hình thành nên Tokdo (hay Takeshima theo tiếng Nhật), hay vấn đề lời xin lỗi của người Nhật về những sai trái thời thực dân. Mặc dù sự đối xử theo pháp luật dành cho 680.000 cư dân Hàn Quốc ở Nhật Bản đã cải thiện, nhưng sự bất lực của chính phủ Nhật khi giải quyết vấn đề “phụ nữ giải khuây” [181] từ thời thực dân đã gây nên nhiều nghi ngờ về lòng chân thành của Nhật Bản trong việc giải quyết quá khứ quân phiệt. Nhiều vấn đề đã tạo nên vết đen trong quan hệ Hàn Quốc-Nhật Bản hiện tại, từ những nghi vấn quá khứ, các xung đột bản sắc đến lời xin lỗi chính trị, nghề đánh cá và các quyền lãnh thổ, đều đáng chú ý vào thời điểm bình thường hóa ngoại giao với Nhật Bản năm 1965 như ngày nay. Khía cạnh “chính trị” trong mối quan hệ Hàn - Nhật có vẻ đóng băng trong khi khía cạnh “kinh tế" không ngừng cải thiện thành mối hợp tác thân thiết.

Theo nhiều cách, sự sóng đôi của một mối quan hệ chính trị rạn nứt với mối hợp tác kinh tế mạnh mẽ giữa Hàn Quốc và Nhật Bản đã tác động đến cách thức nhìn nhận Park Chung Hee qua những nỗ lực bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Nhật Bản của ông năm 1965. Thay vì tìm kiếm lời xin lỗi và sự ân hận “thực sự” từ phía Nhật Bản vì những sai trái thời thực dân và buộc Tokyo công khai công nhận chủ quyền của Hàn Quốc ở Tokdo như đòi hỏi của chaeya và các đảng phái đối lập, Park chọn cách tiếp cận thực dụng để đạt được lợi ích kinh tế cũng như ổn định chính trị. Park nên được ca ngợi vì đã tạo ra hiện đại hóa bằng cách, bên cạnh những yếu tố khác, dẫn dắt quan hệ Hàn - Nhật vào một con đường mới mang tinh thần hợp tác, hay Park nên bị chỉ trích vì đã gạt bỏ lời yêu cầu của công chúng để chấp nhận vấn đề quá khứ nhanh chóng vì lợi ích kinh tế? Cũng như có nhiều tranh cãi khi đánh giá 18 năm cầm quyền của Park, vai trò của ông khi thiết lập mối quan hệ mới Hàn - Nhật cũng đẩy những đánh giá trái chiều. Rõ ràng là Park đã phá vỡ những rào cản quá khứ và đưa mối quan hệ song phương này vào một lộ trình tích cực hơn, mang lại lợi ích chung lần đầu tiên trong thế kỷ XX. Tuy nhiên, cũng rõ ràng là giai đoạn hòa giải thật sự không bắt kịp được tốc độ phát triển ở các mối quan hệ song phương rộng hơn.

Câu hỏi liệu Park có bỏ qua cơ hội có được một giai đoạn hòa giải thật sự hay không là cực kỳ khó trả lời vì thiếu những bằng chứng vững vàng. Hiện giờ, dù không thường được đặt ra, nhưng có lẽ câu hỏi xác đáng hơn nên là giai đoạn hòa giải chính trị có khả dĩ hay không nếu những thỏa thuận của Park với Nhật Bản đi theo hướng khác. Park có thể tạo ra giai đoạn hòa giải thật sự giữa Hàn Quốc và Nhật Bản không nếu ông giữ lập trường cứng rắn hơn khi giải quyết những vấn đề quá khứ? Nhật Bản phải làm gì để thỏa mãn yêu cầu khắc phục sai lầm lịch sử từ phía Hàn Quốc, và Nhật Bản có sẵn sàng để đáp ứng những yêu cầu này không? Với tình trạng mối quan hệ Hàn - Nhật dưới thời Lý Thừa Vãn cầm quyền (1948-1960), khó có thể tưởng tượng rằng Park có thể tạo ra điều khác biệt theo cách nào đó nếu chọn một quan điểm chống Nhật mạnh mẽ hơn. Rất có khả năng là hòa giải lịch sử vẫn là điều bất khả thi đối với cả hai nước vào giữa những năm 1960, cũng như ngày nay. Rõ ràng, Park cho rằng lịch sử không bao giờ có thể sửa sai. Dù sao, Hàn Quốc vẫn phải sống trong cái bóng lịch sử đau thương trong khi cố gắng tự đưa mình vào một quỹ đạo phát triển lịch sử mới thông qua chiến lược pu-kuk kang-byeong (nước giàu, quân mạnh) của Park.

Về phía Nhật Bản, tầm quan trọng của việc Park lên nắm quyền là ở nhờ ông mà Hàn Quốc cuối cùng cũng có một người không chỉ nhiệt thành, mà còn thật sự có sức mạnh chính trị để bình thường hóa quan hệ với quốc gia cựu thù và cũng là nước đã xâm chiếm đất nước này trước kia, bất chấp sự chống đối dữ dội trong nước. Người tiền nhiệm của Park, Chang Myon (1960-1961), cũng từng nhiệt tình cải thiện quan hệ với Nhật Bản, tuy nhiên lại không thể thực hiện được vì uy tín chính trị trong nước yếu. Tuy nhiên Park, người như chúng ta thấy đã lên nắm quyền theo cách không hề dân chủ, cần phải tìm càng nhiều cách càng tốt để bù đắp cho sự thiếu hụt tính chính danh bầu cử hiển nhiên của mình để từ đó củng cố quyền lực, điều hành xã hội thường xuyên tranh cãi của Hàn Quốc và thiết lập nền móng cho quá trình công nghiệp hóa. Đây là lý do để hình thành hiệp ước với Nhật Bản. Các liên kết thương mại không ràng buộc với Nhật Bản được xem là siêu quan trọng không chỉ vì chúng giúp tăng cường nền tảng tài chính cho liên minh chính trị cầm quyền của Park, mà còn vì chúng giúp thúc đẩy các kế hoạch phát triển của Park và, thông qua chúng, ông cải thiện tính chính danh chính trị dựa trên thành tựu kinh tế. Hơn nữa, bằng cách thỏa mãn chính sách từ lâu của Mỹ là tăng cường các liên kiết khu vực ba bên giữa Hàn Quốc, Nhật Bản và Hoa Kỳ vì các lợi ích an ninh khu vực chung, sáng kiến hiệp ước cũng nhằm mục đích tăng cường phòng vệ quân sự chống lại Triều Tiên, cũng như ngăn cản Hoa Kỳ can thiệp vào chính trị nội bộ của Hàn Quốc theo hướng ủng hộ phe đối lập. Cũng như quyết định gửi lính chiến đấu đến miền Nam Việt Nam năm 1965 của Park (xem chương 14), giải pháp hiệp ước là một trường hợp khác mà Park sử dụng chính sách ngoại giao như một công cụ hiện đại hóa kinh tế, củng cố quyền lực và phòng vệ quân sự.

Theo quan điểm của Park, bình thường hóa quan hệ với Nhật Bản khi không có lời xin lỗi công khai của nước này không làm cho ông giảm đi tinh thần dân tộc chủ nghĩa. Trong chế độ của Park, tinh thần panil (bài Nhật) bị kìm nén để nhường chỗ cho một cách tiếp cận thực dụng hơn nhưng vẫn mang tinh thần dân tộc chủ nghĩa kukil (đánh Nhật). Bình thường hóa quan hệ với Nhật Bản được xem như là một phương tiện để có được vốn, công nghệ và thị trường cần thiết tạo điều kiện cho Hàn Quốc bắt kịp và cuối cùng là đánh bại Nhật Bản trong chính cuộc chơi hiện đại hóa theo chủ nghĩa trung ương tập quyền của Hàn Quốc. Chắc chắn rằng nhiều người Hàn Quốc đã cáo buộc Park theo những xu hướng thân Nhật (chinil), một quan điểm mà một số người vẫn giữ đến ngày nay. Những người phản đối này bỏ qua sự thật rằng vấn đề hòa giải - thông qua lời xin lỗi phù hợp và thái độ ăn năn của người Nhật — thật sự nằm ngoài khả năng của bất kỳ ai lúc bấy giờ. Đối với những nhà dân tộc chủ nghĩa chống Nhật quyết tâm buộc Nhật Bản phải đền bù cho những trải nghiệm thực dân nhục nhã của Hàn Quốc, Park là một đối tượng thuận lợi để trút cảm giác thất vọng sâu sắc về những gì đã xảy ra và những điều ít ỏi có thể thực hiện được trong quá khứ. Sự biến động trong mối quan hệ Hàn — Nhật, nếu có ý nghĩa nào đó, sẽ chỉ ra các cố gắng có ý đồ, chứ không phải mù quáng của Park, nhằm giải quyết các tuyên bố gây xung đột về địa chính trị, địa kinh tế, chính trị trong nước và các di sản lịch sử bất chấp cáo buộc từ những nhân tố chống Park, chống Nhật ở Hàn Quốc những năm qua.

Lợi ích hội tụ và đặc trưng phân kỳ

Hiệp ước bình thường hóa làm hiện rõ sự khác biệt giữa Park và Lý Thừa Vãn trong cách tiếp cận với Nhật Bản. Cá nhân hóa chủ nghĩa dân tộc Hàn Quốc chống Nhật, Lý đòi hỏi lời xin lỗi công khai từ Nhật Bản vì những sai trái thực dân. Khi Nhật Bản không thể thực hiện, Lý cố ý thúc đẩy những cảm tình chống Nhật không chỉ để thỏa mẫn sự căm ghét Nhật thực sự của ông mà còn để huy động công chúng ủng hộ Đảng Tự do (LP) với mục tiêu ổn định chính trị. Khi đã chiến đấu cả đời để có được độc lập từ Nhật Bản, bản năng sau giải phóng của ông là sẽ tiếp tục chống Nhật. Nhật Bản càng chống cự không ăn năn, các chiến dịch chính trị chống Nhật của ông càng trở nên căng thẳng.

Do đó, trong vòng 6 năm sau khi giải phóng Hàn Quốc khỏi Nhật Bản năm 1945, hai nước sống cách biệt, gần như hoàn toàn không có các kênh liên lạc chính thức. Chỉ với sự gia tăng cường độ chiến tranh lạnh ở Đông Á và những cuộc đàm phán tiếp đó vì Hiệp ước Hòa bình San Francisco mà bối cảnh để đối thoại về vấn đề bình thường hóa ngoại giao mới xuất hiện. Kể cả khi đó, khoảng cách vẫn còn quá rộng để các cuộc gặp song phương thi thoảng diễn ra có thể mang lại những kết quả cụ thể. Lý không cảm thấy nhu cầu cấp thiết phải hợp tác với Nhật Bản, đặc biệt trong bối cảnh Mỹ tiếp tục cam kết đóng quân ở Hàn Quốc. Cũng vậy, Nhật Bản không gấp gáp phải bình thường hóa quan hệ. Dĩ nhiên, nước này muốn giải quyết xung đột về lãnh hải và các quyền đánh cá với Hàn Quốc nhưng không phải với cái giá chính trị là đưa ra lời xin lỗi công khai về chế độ thực dân của mình. Kết quả là các cuộc đàm phán bình thường hóa ngoại giao trở nên nhàm chán suốt những năm 1950.

Với lễ nhậm chức của chính quyền Đảng Dân chủ (DP) của Chang Myon năm 1960, lợi ích lớn hơn trong việc cải thiện quan hệ Hàn - Nhật được hình thành. Trái với Lý Thừa Vãn, người có mối quan tâm lớn nhất là tăng cường liên minh Mỹ - Hàn để phòng vệ trước Triều Tiên, Chang đặt tăng trưởng kinh tế làm ưu tiên cao nhất vì ông thấy đó là cách duy nhất để tạo tính chính danh chính trị cho chính quyền DP chia rẽ của ông. Sự công nhận tầm quan trọng của tăng trưởng kinh tế trong việc tạo ra tính chính danh tự nhiên khuyến khích Chang phát triển các mối liên kết chặt chẽ hơn với Nhật Bản, nước có nền kinh tế đang không ngừng mạnh lên. Ông trông chờ vào Nhật Bản như một nguồn cung cấp viện trợ kinh tế rất cần thiết chứ không phải là một kẻ thù vĩnh viễn cần phải đánh gục. Để khuyến khích mối hợp tác song phương, Chang mời các chính trị gia và các lãnh đạo doanh nghiệp Nhật Bản đến Hàn Quốc, tự do hóa hoạt động bán hàng hóa Nhật Bản, và chấm dứt đưa ra các đánh giá mang tính khiêu khích về Nhật Bản. Tuy nhiên khi tìm cách thúc đẩy các cuộc họp bình thường hóa, ông đã bị áp đảo bởi các lực lượng chống đối, bao gồm các phong trào bất đồng chính kiến do sinh viên lãnh đạo, các phong trào này đã tận dụng sự thiếu khả năng lãnh đạo của ông trong DP để chia rẽ bè phái. Cuối cùng, Chang không thể hành động như mong muốn để tạo ra thỏa thuận chính trị, kinh tế và lịch sử với Nhật Bản. Thủ tướng Nhật Ikeada Hayato cũng không hỗ trợ mà chọn lập trường chờ đợi và quan sát khi đối mặt với những lời mời chính trị của Chang Myon nhằm thu được tối đa sự nhượng bộ từ Hàn Quốc. Thời gian dĩ nhiên là một nhân tố quan trọng trong chính quyền Chang Myon yếu ớt, bị bao vây bởi những cuộc biểu tình quần chúng. Không may là không còn thời gian. Ngay khi Chang dũng cảm quyết định phá vỡ tình trạng bế tắc, ông đã bị buộc phải từ chức bởi cuộc đảo chính năm 1961 của Park.

Park Chung Hee có tiếng là một chuyên gia về nước Nhật với sự nghiệp trước đây của ông trong Quân đội Hoàng gia Nhật Bản. Giận dữ vì những chỉ trích dành cho mình, Park làm rõ sự ngưỡng mộ của ông đối với những nhà cách tân Minh Trị của Nhật Bản thế kỷ XIX và nhiệt tình theo đuổi hiệp ước bình thường hóa với Nhật khi ông có được quyền lực. Tuy nhiên, trái với hình ảnh kẻ bắt tay với thực dân mà các đối thủ chính trị và những nhà hoạt động chaeya đã vẽ nên về Park, ông không hề cho rằng việc học theo những nhà cách tân Minh Trị khiến ông giảm đi tinh thần dân tộc chủ nghĩa. Ngược lại, những phát biểu của ông về Nhật Bản Minh Trị bị ảnh hưởng nặng nề bởi các tư tưởng và tinh thần dân tộc chủ nghĩa. Park ngưỡng mộ những nhà cách tân Nhật Bản vì ông cũng muốn giúp Hàn Quốc trở nên giàu có về mặt kinh tế và hùng mạnh về mặt quân sự như Nhật Bản Minh Trị. Park còn hơn cả một người hùng quân sự. Ông là một lãnh đạo có quyết tâm sâu sắc, với sứ mệnh tự đặt ra là đưa Hàn Quốc ra khỏi tình trạng nghèo đói nặng nề. Đối với Park, Nhật Bản Minh Trị là một mô hình để sao chép cho những nhà dân tộc chủ nghĩa Hàn Quốc; nó chỉ ra con đường đến với “nước giàu, quân mạnh”.

Kể cả nếu là một người có cảm tình với Nhật Bản, tình cảm của Park cũng chỉ là nhân tố phụ trong quyết định vận động Nhật Bản hỗ trợ kinh tế và công nghệ. Những đòi hỏi vào thời của ông buộc Park phải dựa vào Nhật Bản, phải gắn tương lai kinh tế của Hàn Quốc với tương lai kinh tế của quốc gia láng giềng này. Vào thời điểm Park lên nắm quyền, GNP bình quân đầu người hàng năm của Hàn Quốc là 80 đô-la Mỹ, chỉ cao hơn 9 đô-la Mỹ so với thời điểm cuối Chiến tranh Triều Tiên năm 1953. Tốc độ tăng trưởng hàng năm là 1,1%, thâm hụt thương mại đạt đến 310 triệu đô-la Mỹ, tỷ lệ thất nghiệp 11,7% và lạm phát ở mức 10,5%. Không chỉ vậy, Hoa Kỳ đang giảm dần viện trợ cho Hàn Quốc như một phần trong chính sách ngoại giao toàn cầu để thay thế trợ cấp chính phủ bằng các khoản cho vay. Dao động ở mức hơn 200 triệu đô-la Mỹ đến năm 1963, viện trợ Mỹ giảm còn 149,3 triệu đô-la Mỹ năm 1964 và 131,4 triệu đô-la Mỹ năm 1965. Như trưởng ban cố vấn Yi Dong-won đề nghị và Park đồng ý, vì sự bất lực của Hàn Quốc khi ký hợp đồng vay và chuyển giao công nghệ nước ngoài theo con đường thương mại, cần phải chuyển sang ngoại giao để đạt được thứ mà Hàn Quốc không thể đạt được thông qua các lực lượng thị trường.

Trên thực thế, nếu đất nước của ông tìm được những nguồn vốn và công nghệ nước ngoài thay thế, Park chắc hẳn sẽ phải cân nhắc trước khi mạo hiểm một cuộc khủng hoảng chính trị mà ông tự gánh lấy trong giai đoạn 1963-1965 bằng cách vội vàng lao vào bình thường hóa quan hệ với Nhật Bản. Trong ngắn hạn, sự tái lập quan hệ gây tổn hại hơn là giúp ích cho các nỗ lực của Park nhằm củng cố nền tảng quyền lực trong nước vì ông bị kéo vào hoạt động chính trị theo bản sắc quốc gia đầy cảm tính. Thực chất việc ông mạo hiểm quyền thống trị chính trị của mình khi thúc đẩy bình thường hóa quan hệ với Nhật Bản cho thấy ông không có những phương tiện khác ngoài nền tảng thị trường để có được vốn và công nghệ. Đối với lực lượng đối lập cực đoan trong nước, Park ngang ngược nói “Hãy nhổ lên mộ tôi”, ông tin rằng tăng trưởng kinh tế cuối cùng sẽ biện minh cho quyết định thỏa thuận với Nhật Bản của mình. May mắn cho Park, Kế hoạch Phát triển Kinh tế 5 năm (FYEDP) lần thứ nhất thành công ngoài mong đợi vào năm 1964, khiến Park tin tưởng vào tiềm năng tăng trưởng của Hàn Quốc và nhờ đó càng tập trung hơn vào hiệp ước bình thường hóa. [182]

Lúc bấy giờ cũng có những lý do an ninh cho việc bình thường hóa quan hệ với Nhật Bản. Hoa Kỳ lập luận và Park đồng ý rằng việc ngăn chặn mối đe dọa từ chủ nghĩa cộng sản ở Đông Á không thể hiệu quả một khi các liên minh của Hoa Kỳ với Hàn Quốc và Nhật Bản còn chưa được hình thành. Căng thẳng chiến tranh lạnh đã tăng cao trên toàn thế giới vào đầu những năm 1960. Với sự kiện máy bay do thám U-2 và các tình hình khủng hoảng manh nha hình thành ở Cuba, Congo, Lào và miền Nam Việt Nam, quan điểm chi phối ở Hàn Quốc lúc đó là Xô-viết đang giành thế thượng phong trong chiến tranh lạnh. Từng là một trong những người chủ chốt ủng hộ quan điểm này, John F. Kennedy đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1960 nhờ thế mạnh từ cam kết chắc chắn của ông về việc chống chủ nghĩa cộng sản, bên cạnh những yếu tố khác. Các sĩ quan quân đội trẻ tuổi đã lật đổ Thủ tướng Chang Myon tháng 5 năm 1961 cũng lấy điểm yếu trong nước của Hàn Quốc khi đối mặt với mối đe dọa đang tăng cao từ chủ nghĩa cộng sản là lý do quan trọng nhất của cuộc đảo chính.

Do đó, năm 1961 có vẻ hứa hẹn cho một sự đột phá ở mối quan hệ Hàn - Nhật. Đảo chính quân sự đã giải thoát Hàn Quốc ra khỏi lập trường chống Nhật ngoan cố của Lý Thừa Vãn cũng như khỏi sự thay đổi chính trị chậm chạp và sự bất lực trong quản trị của Chang Myon. Park tỏ ra có sức mạnh để đảm nhận những thử thách gồm cảm tình chống Nhật của công chúng cũng như tình trạng phức tạp trong bộ máy quan liêu. Chính quyền quân sự có vẻ đang sở hữu sức mạnh chính trị cũng như khát khao không chỉ đưa hiệp ước bình thường hóa đến một kết thúc thành công mà còn phải điều hành quốc gia tiến lên con đường tăng trưởng định hướng xuất khẩu trên cơ sở hiệp ước đó. Câu hỏi là làm cách nào để khiến ngoại giao thực hiện được công việc mà thị trường không thể làm cho Hàn Quốc.

Yi Dong-won ủng hộ chiến lược tìm kiếm vốn và công nghệ từ Nhật Bản dựa trên am hiểu chính trị về những vấn đề thu hút Nhật Bản:

Những gì còn thiếu ở các nguồn tài nguyên thiên nhiên và các công cụ tài chính có thể được bù đắp thông qua những bước đi ngoại giao khéo léo tùy thời điểm chiến lược. Chính sách ngoại giao có thể xây dựng hoặc phá hủy một quốc gia. Nếu [chính quyền quân sự] có thể tập trung vào việc tăng cường các liên kết kinh tế với Hoa Kỳ cũng mạnh mẽ như với các liên kết an ninh và tập trung bình thường hóa quan hệ với Nhật Bản, Hàn Quốc có thể thu về rất nhiều viện trợ kinh tế ở thời điểm thích hợp. Với các nguồn lực có được thông qua ngoại giao, tôi tin [chính quyền quân sự] sẽ có cơ hội tạo ra điều thần kỳ về kinh tế.

Kể cả trước khi Yi Dong-won thúc đẩy ý tưởng hiện đại hóa kinh tế do ngoại giao dẫn dắt, Park đã tự hạ quyết tâm chính trị với chính sách theo đuổi thỏa thuận nhanh với Nhật Bản về các vấn đề song phương lúc bấy giờ nhằm dọn đường cho hợp tác kinh tế. Ngày 22 tháng 5 năm 1961, chỉ 6 ngày sau cuộc đảo chính, Park yêu cầu Bộ trưởng Ngoại giao Kim Hong-il, thiếu tướng trong lực lượng dự bị, tổ chức buổi họp báo để công bố rằng chính quyền quân sự quan tâm đến việc tiếp tục các cuộc đàm phán với Nhật Bản về vấn đề bình thường hóa quan hệ vào ngày sớm nhất có thể. Ngày 15 tháng 7, Yi Tong-hwan, cựu sinh viên Đại học Tokyo và lúc bấy giờ là Phó chủ tịch Hiệp hội Thương mại Hàn Quốc, được chỉ định làm bộ trưởng có toàn quyền với văn phòng đại diện Hàn Quốc ở Nhật Bản, với mục tiêu tận dụng tất cả các mối liên kết của khu vực tư nhân với các lãnh đạo chính trị và doanh nghiệp Nhật Bản nhằm để người Nhật biết đến các ý định bình thường hóa ngoại giao từ đầu. [183] Thế lực chỉ đạo đằng sau sáng kiến này của Hàn Quốc là Kim Jong-pil, cánh tay phải của Park và là giám đốc Cơ quan Tình báo Trung ương Hàn Quốc (KCIA) mới thành lập.

Đối với Hoa Kỳ, khi cảm giác hoảng hốt ban đầu vì không biết chuyện gì đang xảy ra với cuộc đảo chính tháng 5 năm 1961 qua đi, sự cầm quyền của Park được xem như là cơ hội để củng cố liên kết Seoul-Tokyo trong hệ thống các liên minh an ninh song phương của Mỹ. Chính quyền Kennedy đặc biệt thù địch với chủ nghĩa cộng sản, và xem Park, người trung thành chống chủ nghĩa cộng sản, là một yếu tố bổ sung đáng mừng trong danh sách các đối tác thế yếu thuộc thế giới thứ ba của nước này. [184] Dù Hoa Kỳ đánh giá cao những thành tựu dân chủ của Chang Myon, nhưng sự thật là ngày càng nhiều quan chức Mỹ trở nên hoài nghi về khả năng kiểm soát các lực lượng cánh tả đang nổi dậy của Chang ở Hàn Quốc. Giờ đây, với một vị lãnh đạo quân sự thực dụng và hùng mạnh đứng đầu, Hoa Kỳ hy vọng ngăn chặn được các lực lượng cánh tả ở Hàn Quốc cũng như xây dựng liên minh tam giác an ninh Đông Á giữa Hoa Kỳ, Nhật Bản và Hàn Quốc, như siêu cường đang nổi lên này vốn nuôi ý định từ thời của Ngoại trưởng John Foster Dulles. Không lâu sau cuộc đảo chính, Ủy ban Quan hệ Quốc tế Hạ viện Mỹ khuyến nghị Hội đồng An ninh Quốc gia tiến hành những biện pháp cải thiện quan hệ Hàn - Nhật: “Hãy thảo luận với Thủ tướng Nhật trong lần viếng thăm sắp tới, việc lên kế hoạch của Mỹ cho [Nam] Triều Tiên cùng cách thức thu hẹp khoảng cách kinh tế và chính trị giữa [Nam] Triều Tiên và Nhật Bản... Cần phải hiểu là dù Hoa Kỳ không chủ động tham gia vào các cuộc đàm phán nhưng cường quốc này đã sẵn sàng hành động như một chất xúc tác khi cố gắng đạt được thỏa thuận. Ngài Thủ tướng cần được khuyến khích tiếp tục các nỗ lực vốn đã khởi động gần đây nhằm phát triển thương mại Nhật Bản với [Nam] Triều Tiên, và nhằm cung cấp hỗ trợ kinh tế cho sự phát triển của [Nam] Triều Tiên có phối hợp với các chương trình của Mỹ.” Có lẽ là chính vì viễn cảnh xây dựng mạng lưới an ninh ba bên này mà Kennedy tiếp đón Park ở Washington ngày 14 tháng 11 năm 1961 để mở rộng sự ủng hộ liên tục của Hoa Kỳ dành cho Hàn Quốc, một động thái được nhìn nhận là sự ủng hộ dành cho quyền lãnh đạo chính trị của Park. [185]

Cũng như khi tin tức về cuộc đảo chính quân sự ở Hàn Quốc gây ngạc nhiên cho Hoa Kỳ, Nhật Bản hoàn toàn bất ngờ khi Park nắm quyền năm 1961. Cần có thời gian để hiểu được ý nghĩa đầy đủ của việc Park lên nắm quyền. Chỉ một tuần trước cuộc đảo chính quân sự tháng 5 năm 1961, phái đoàn nghị viện Nhật Bản trong một chuyến thăm Seoul đã vẽ ra một bức tranh màu hồng về tình hình chính trị nơi đây. Iseki Yujiro, với vai trò thành viên Bộ Ngoại giao của phái đoàn, đảm bảo với Ikeda rằng chính quyền Chang Myon “cực kỳ ổn định”. Noda Uichi, trưởng phái đoàn, cũng với tinh thần lạc quan đó, đánh giá những thành công của Chang Myon và khuyến khích Nghị viện Nhật Bản đặt niềm tin vào khả năng hoàn thành các cuộc đàm phán bình thường hóa của ông này. Một cách tự nhiên, tin tức về cuộc đảo chính không được đánh giá kỹ lưỡng bởi những người quan sát Hàn Quốc, họ bận rộn thuyết phục chính quyền của họ hợp tác với Chang Myon nhằm tạo ra quan hệ hợp tác kinh tế rộng hơn với Hàn Quốc. Giống như Kennedy, Ikeda Hayato cũng không vui vẻ gì khi chứng kiến chính quyền dân sự được bầu lên một cách dân chủ lại bị thay thế bởi một cuộc đảo chính quân sự. Các báo cáo về sự tham gia buổi đầu của Park vào các hoạt động chính trị do chủ nghĩa cộng sản truyền cảm hứng cũng không giúp ích gì. Quan ngại về định hướng tương lai của Hàn Quốc và hệ quả tiêu cực tiềm tàng cho an ninh Nhật Bản, Ikeda sốt sắng thu thập những thông tin về Park, lúc bấy giờ đang là một lãnh đạo tương đối ít người biết.

Không lâu sau, những lời đề nghị ngoại giao từ vị lãnh đạo mới của Hàn Quốc đã làm thay đổi tình hình mối quan hệ với Nhật Bản theo hướng có lợi cho Park. Đối với nhiều chính trị gia và quan chức Nhật Bản, cuộc đảo chính quân sự bắt đầu được xem là cơ hội hiếm có để theo đuổi các cuộc đàm phán bình thường hóa trên tinh thần thực dụng. Trong khi Chang Myon đã tỏ ra quá yếu về mặt chính trị để xóa bỏ được những ràng buộc từ ý kiến của công chúng Hàn Quốc, Park dường như có thể vượt qua các rào cản chính trị xã hội trong việc bình thường hóa quan hệ giữa hai nước nhằm đạt được thành công cho các chương trình phát triển kinh tế đầy tham vọng của ông. Những quan điểm như vậy càng có thêm độ tin cậy khi Park dùng vũ lực để ngăn chặn báo chí, các đảng phái chính trị, giới trí thức và các nhóm lợi ích nhằm thực thi tầm nhìn hiện đại hóa của ông. Cựu Thủ tướng Kishi Nobusuke có lần quan sát: “May mắn thay, Hàn Quốc được cai trị bởi một chế độ quân sự nơi Park Chung Hee và rất nhiều vị lãnh đạo có thể tự mình quyết định mọi chuyện... Chúng ta [cần phải] thuyết phục Park. [Chúng ta] có thể kỳ vọng ông ta thực hiện được, [đặc biệt từ khi] không có Nghị viện Quốc gia [ngăn cản ông ta]. Nếu báo chí phản đối, có thể kỳ vọng Park sẽ ngăn cản [fuzuru] họ.”

Kishi vốn đi đầu trong giải pháp xây dựng quan hệ gắn bó với Hàn Quốc của các nhà bảo thủ Nhật Bản. Lần này, được khuyến khích bởi tình trạng khẩn cấp của một chính quyền quân sự thực dụng, ông ủng hộ mạnh mẽ một thỏa thuận nhanh chóng về những khiếu nại tài sản [186] nhằm tránh gây nguy hiểm đến lợi ích an ninh của Nhật Bản trong tương lai. Trong mắt ông, sự sụp đổ chính quyền quân sự của Park có thể dẫn đến sự trỗi dậy của các lực lượng chính trị chống Nhật ở Hàn Quốc. Một cách rõ ràng, Kishi lý giải lập luận của ông về việc ủng hộ hợp tác chặt chẽ với chính quyền quân sự:

Thử hình dung Nhật Bản sẽ như thế nào nếu lực lượng cộng sản có thể mở rộng ảnh hưởng đến tận Busan... Lý do mà cha ông chúng ta, ít nhất từ thời Minh Trị trở đi, đã phải trải qua quá nhiều rắc rối với Bán đảo Triều Tiên - [kể cả việc phát động] Chiến tranh Trung - Nhật [1894-1895] và Chiến tranh Nga-Nhật [1904-1905] - không phải vì những tham vọng đế quốc mà vì quan ngại của họ về an ninh Nhật Bản, vốn luôn phải đối mặt với khả năng đáng sợ khi các lực lượng thù địch nổi lên ở [Bán đảo Triều Tiên]... Đó là lý do Nhật Bản phải bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Hàn Quốc, cùng Hoa Kỳ cung cấp viện trợ kinh tế khổng lồ và qua đó góp phần xây dựng nền tảng kinh tế Hàn Quốc... Nếu chúng ta không làm gì cả và để cho Park sụp đổ, những hậu quả thảm khốc nhất sẽ đến. Hiện giờ không phải là lúc để ngồi chờ.

Sự ám ảnh về một “lá cờ đỏ phấp phới ở Busan” (Busan cheokkiron) thường xuyên được các nhà bảo thủ Nhật Bản đặt ra để biện minh cho lời kêu gọi bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Hàn Quốc của họ. Lần này, với cảm giác không chắc chắn, cơ hội và sự cấp thiết do cuộc đảo chính quân sự tạo nên, Kishi tiến hành vận động sự ủng hộ của LDP cho quá trình bình thường hóa quan hệ. Bằng cách xác định các mối quan ngại an ninh của ông về những vấn đề địa chính trị của Nhật Bản từ thời Minh Trị, Kishi xác định chính sách Hàn Quốc của ông sẽ phù hợp với chính sách truyền thống của Nhật Bản ở lục địa châu Á.

Đồng tình với ông là Kōnō Ichirō, Bộ trưởng Nông nghiệp và là lãnh đạo lớn trong các phe phái LDP. Không phải là một chuyên gia về Hàn Quốc, nhưng là chuyên gia về Liên Xô, và ở một chừng mực thấp hơn, là chuyên gia về Trung Quốc, Kōnō bắt đầu quan tâm đến các cuộc đàm phán bình thường hóa chủ yếu như là một phần của chính sách khu vực của Nhật Bản nhằm chống lại các mối đe dọa từ Xô-viết và Trung Quốc. Trong các cuộc gặp với Ikeda, Kōnō cố vấn: “Chúng ta có cơ hội trước mắt tốt nhất kể từ khi kết thúc chiến tranh để giải quyết vấn đề Nhật — Hàn. Trải qua khủng hoảng kinh tế trầm trọng, đây là thời điểm Hàn Quốc đang cần tiền nhất. Hiện giờ là thời điểm để đàm phán.” Kōnō cũng hối thúc Sugi Michisuke, ông trùm doanh nghiệp từ vùng Kansai và là chủ tịch Tổ chức Ngoại thương Nhật Bản (JETRO), dẫn đầu phái đoàn Nhật Bản đến vòng đàm phán bình thường hóa thứ 6 được định sẽ bắt đầu vào tháng 10 năm 1961. [187]

Tuy nhiên, đối với Thủ tướng Ikeda Hayato, hợp tác với Park không dễ dàng như Kōnō và Kishi lầm tưởng. Thứ nhất, Ikeda vẫn hoài nghi về khả năng chính quyền quân sự có thể sắp đặt lại trật tự nội bộ và vượt qua các thách thức chính trị. Thứ hai, ông không chắc về khả năng của chính mình trong việc định hướng ý kiến quần chúng Nhật Bản đằng sau vụ đàm phán về vấn đề các tuyên bố. Tình hình này cũng không được trợ giúp bởi phong cách cai trị độc tài của Park, vốn có thể tập hợp các đảng phái, báo chí và giới trí thức chống đối của Nhật, cũng như những thành phần tự do hơn bên trong LDP, chống lại các thỏa thuận chính trị với chính thể mà họ xem là chế độ quân sự đàn áp. Hơn nữa, còn có giới cánh tả của Nhật, những người đã tổ chức Hội đồng Liên lạc vào tháng 1 năm 1961 để điều phối chiến dịch của họ chống lại việc bình thường hóa quan hệ với Hàn Quốc do điều đó sẽ kéo theo mối nguy hiểm bị kéo vào mạng lưới quân sự với Mỹ làm trung tâm ở Đông Á và thậm chí có thể là một xung đột quân sự không mong muốn. Hội đồng này gồm các đại diện từ Đảng Cộng sản Nhật Bản, Đảng Xã hội Nhật Bản, Tổng Hội đồng Công đoàn (Sohyo), và Hiệp hội Nhật Bản - Triều Tiên, cùng các tổ chức chính trị và xã hội khác. Trong một bối cảnh phân hóa chính trị trong nước như vậy, chính Hoa Kỳ phải bước vào để thúc đẩy Ikeda đến bàn đàm phán.

Lời đề nghị ban đầu

Tháng 10 năm 1961, dưới sự chỉ đạo của Park, Kim Jong-pil đã tiến hành chuyến đi bí mật gặp gỡ Ikeda Hayato để sắp xếp cho chuyến viếng thăm nhà nước của Park đến Nhật Bản trên đường đi Washington một tháng sau đó. Kim sử dụng chuyến đi này để mở rộng đầu mối liên lạc của Hàn Quốc ở Nhật Bản, gặp gỡ không chính thức Kishi Nobusuke, Ishii Mitsujiro, Satō Eisaku, Kōnō Ichirō và Ono Bamboku. Đây là những cuộc gặp không chính thức đầu tiên mà Kim thực hiện với các lãnh đạo của Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản (LDP) thông qua tiến trình của các cuộc đàm phán bình thường hóa. Park có hy vọng cao về một thỏa thuận nhanh chóng. Bằng cách gửi đi phái đoàn đa dạng nhất và chắc chắn là lớn nhất từ trước đến giờ đến các cuộc đàm phán, Park cho thấy sự sẵn sàng của ông trong việc giải quyết tất cả các lĩnh vực gây tranh cãi.

Vị lãnh đạo chính quyền quân sự xem Ngoại trưởng Mỹ Dean Rusk là người trung gian thân thiện. Với việc Triều Tiên hoàn tất các thỏa thuận về hiệp ước quốc phòng chung lần lượt với Liên Xô và Trung Quốc vào tháng 7 năm 1961, Rusk đảm nhận vai trò người trung gian giữa Seoul và Tokyo, ông viếng thăm Nhật Bản tháng 11 năm 1961 để họp với Ikeda nhằm thuyết phục ông này về tầm quan trọng trong việc đạt đến một thỏa thuận ban đầu với Hàn Quốc. Rusk hối thúc Nhật Bản chia sẻ cùng Hoa Kỳ gánh nặng tài trợ cho các chương trình phát triển kinh tế của Hàn Quốc bằng cách xem xét giải quyết đề xuất về các tuyên bố sở hữu. Ngược lại, Ikeda giải thích với Rusk những khó khăn về việc hợp tác với Hàn Quốc:

Các đảng đối lập [của Nhật], bao gồm Đảng Xã hội Dân chủ, phản đối mạnh mẽ việc chi tiêu những khoản tiền khổng lồ nhằm giải quyết vấn đề về các tuyên bố. Trong khi ở Hàn Quốc, chính quyền quân sự có thể thực thi các quyết định ngay lập tức, ở Nhật Bản mọi thứ phải được thông qua những quy trình Nghị viện. Chúng tôi chỉ đơn giản là không thể làm mọi thứ theo cách họ làm... Chúng tôi đã phải trải qua rủi ro về một cuộc khủng hoảng hiệp ước an ninh hết lần này đến lần khác [như lần năm 1960 bị kích động bởi Hiệp ước An ninh Chung Hoa Kỳ - Nhật Bản].

Tuy nhiên, trước khi cuộc họp kết thúc, Ikeda đi đến thỏa thuận với Rusk rằng ông sẽ cố gắng hết sức để giúp phát triển kinh tế Hàn Quốc và giải quyết nhiều trong số những khác biệt đáng kể giữa hai quốc gia. Ngài Thủ tướng Nhật có cảm nhận rằng Hoa Kỳ xem chính sách về Hàn Quốc của ông như cơ sở kiểm tra cam kết của Nhật với liên minh an ninh Mỹ - Nhật và với nguyên tắc chia sẻ gánh nặng trong địa chính trị khu vực. Ý thức được điểm mấu chốt, Ikeda phản hồi rằng ông sẽ bắt đầu các cuộc đàm phán nghiêm túc với chính quyền quân sự mới ở Hàn Quốc. Ikeda trở lại với việc tiếp tục các cuộc đối thoại bình thường hóa bắt đầu từ tháng 10 năm 1961 và chấp thuận tổ chức cuộc họp với Park. Đối với ngài chủ tịch chính quyền quân sự, người cần phải cho nhân dân của ông thấy rằng cuộc đảo chính quân sự có được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế, thì việc Ikeda bày tỏ quan tâm là một bước phát triển tích cực có thể giúp củng cố nền tảng quyền lực của mình.

Ngày 11 tháng 11, chưa đầy ba tuần sau chuyến đi bí mật của Kim Jong-pil đến Nhật Bản, Park tiến hành chuyến đi chính thức đầu tiên đến Nhật Bản ở vị thế người đứng đầu nhà nước Hàn Quốc trong thời kỳ sau chiến tranh. [188] Trước khi khởi hành, Park chỉ đơn giản bày tỏ hy vọng có “những buổi gặp thẳng thắn” với người Nhật. Khi ở Nhật Bản, ông không ngần ngại cho thấy quan điểm tích cực của ông về Nhật Bản trước rủi ro gây thù hận với các lực lượng chính trị trong nước của Hàn Quốc. Ở bữa tiệc cấp nhà nước được Ikeda Hayato tổ chức khi ông đến, Park gây ngạc nhiên thú vị cho người Nhật khi lập luận rằng “không khôn ngoan và cũng không có lợi chút nào khi cứ dằn vặt quá khứ [thực dân] và... cả hai quốc gia đều cần phải cố gắng hết sức để thúc đẩy hợp tác vì các mục tiêu và lý tưởng chung.” Ngày hôm sau, khi nói chuyện với Kishi Nobusuke, Ishii Mitsujirō, cùng các lãnh đạo LDP cấp cao khác, Park không giấu giếm sự ngưỡng mộ ông dành cho các nhà cách tân Minh trị, và tái khẳng định cam kết của ông với việc xây dựng “nước giàu, quân mạnh” theo cách mà giới lãnh đạo Minh Trị đã làm. Xúc động sâu sắc trước sự tôn trọng của Park dành cho tinh thần và lịch sử Nhật Bản, một trong những lãnh đạo LDP dự tiệc cho rằng Park giống với ishin no shishi (những nhà yêu nước Minh Trị).

Park quyết tâm hoàn tất thỏa thuận ngay lập tức nếu có cơ hội. Tuy nhiên, mặc cho cam kết công khai của Ikeda về một thỏa thuận ban đầu, Park nhận thấy ngài Thủ tướng Nhật cực kỳ cẩn trọng khi đối mặt với áp lực trong nước ngày một gia tăng về việc phải chấm dứt đàm phán bình thường hóa với Park. Công chúng Nhật trở nên quan ngại về việc Park sử dụng vũ lực để bịt miệng lực lượng chống đối Hàn Quốc. Thậm chí bên trong LDP, nhóm chống hiệp ước đang hình thành càng gây khó khăn hơn cho Ikeda trong việc xây dựng chính sách hướng tới tương lai với Hàn Quốc, đặc biệt kể từ khi những người phản đối gồm cả các lãnh đạo chủ chốt của LDP như Bộ trưởng Thương mại Quốc tế và Công nghiệp, Satō Eisaku, và Bộ trưởng Tài chính Mizuta Mikio. Satō Eisaku đặc biệt kích động khi chống lại thỏa thuận về vấn đề tuyên bố quyền sở hữu, công khai tìm cách ngăn cản đối thủ chính trị, Ikeda, đạt được thành tựu ngoại giao quan trọng. Sự chống đối của Mizuta Milđo là một vấn đề đau đầu khác đối với Park, vì ông này đứng đầu Bộ Tài chính, cơ quan chịu trách nhiệm sử dụng tiền công và điều tiết ngân hàng cùng các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Mizuta có thể làm chậm lại, nếu không phải là chặn đứng, các cuộc đàm phán bình thường hóa.

Chuyến viếng thăm tháng 11 năm 1961 không tạo ra những đột phá lớn về vấn đề bình thường hóa. Báo chí Nhật chủ yếu vẫn không quan tâm đến chuyến đi của Park, nên chỉ thông tin ít ỏi về cuộc gặp của Park-Ikeda, trong khi lặp lại yêu cầu hiện hữu của Nhật Bản rằng hai nước phải thỏa thuận về các vấn đề tuyên bố quyền sở hữu và bồi thường thiệt hại từ quan điểm “kinh tế” hơn là “chính trị”. Bằng cách nhấn mạnh vào kinh tế thay vì chính trị trong các vấn đề về tuyên bố sở hữu, người Nhật cho rằng quy mô của các khoản bồi thường thiệt hại nhỏ hơn rất nhiều so với Park kỳ vọng. Vì quan điểm của báo chí và công chúng Nhật không đổi, nên không gian cho Ikeda điều khiển tình hình chính trị trong nước Nhật bị hạn chế nặng nề.

Park gặp khó khăn trong việc nắm bắt các khó khăn chính trị trong nước mà vị đồng cấp người Nhật của ông phải đối mặt. Dựa trên kinh nghiệm chính trị ở Hàn Quốc, nơi quyền lực tập trung vào tay chủ tịch chính quyền quân sự, Park cho rằng việc thiết lập niềm tin chung, quan hệ hữu nghị, hay đơn giản là hoạt động cho nhận mang tính chính trị ở tầm chính quyền cấp cao giữa hai quốc gia sẽ đảm bảo một giải pháp nhanh chóng cho các vấn đề lãnh thổ, ngư nghiệp, lịch sử và bồi thường thiệt hại. Sự thiếu kinh nghiệm của ông trong các vấn đề ngoại giao và hình ảnh bị đơn giản hóa quá mức về quy trình ra quyết định của Nhật là các nguyên nhân dẫn đến sự thất vọng của ông về kết quả của chuyến viếng thăm, đặc biệt khi ban đầu ông nghĩ rằng chuyến đi sẽ mang lại một thành công ngoại giao.

Tuy nhiên, chuyến viếng thăm Tokyo của Park năm 1961 có ý nghĩa quan trọng ở ba khía cạnh. Thứ nhất, nó đảm bảo với người Nhật rằng Park sẽ không chính trị hóa các vấn đề lãnh thổ, ngư nghiệp, lịch sử và ý thức hệ thừa hưởng từ quá khứ thực dân, chắc chắn không đến mức như Lý Thừa Vãn đã làm những năm 1950. Người Nhật hiểu rằng Park đã chớp lấy cơ hội hợp tác, dù có hoặc không có sự hòa giải thực sự ở tầm nhân dân hai nước. Thứ hai, chuyến thăm Tokyo chỉ ra rằng Park sẽ nhượng bộ hơn so với “ranh giới hòa bình” được tuyên bố đơn phương của Lý Thừa Vãn nhằm mang lại một thỏa thuận về vấn đề lãnh hải và quyền đánh cá nếu Nhật Bản sẵn sàng thỏa thuận theo hướng có lợi về vấn đề tuyên bố sở hữu tài sản và khoản tiền bồi thường thiệt hại. [189] Thứ ba, chuyến đi cũng phát đi tín hiệu với Hoa Kỳ rằng Hàn Quốc đang tiến đến chính sách tăng cường quan hệ ba bên giữa Hàn Quốc, Nhật Bản, và Hoa Kỳ vì các lợi ích an ninh khu vực chung. Ba khía cạnh này đều là những thành tựu quan trọng cho mối quan hệ song phương vốn được ghi dấu bởi sự ngờ vực và thù địch. Tuy nhiên chúng vẫn chưa đủ để đem lại sự đột phá cho các cuộc đàm phán.

Trở ngại lớn là vấn đề tuyên bố sở hữu tài sản. Trái với hy vọng của Park về sự linh động của người Nhật, Nội các Ikeda khăng khăng về vị thế của Nhật rằng vấn đề này phải được giải quyết theo cách mà công chúng Nhật Bản có thể hiểu được và ủng hộ. Cụ thể, các nhà đàm phán Nhật nhấn mạnh rằng vấn đề tuyên bố sở hữu tài sản không phải là vấn đề gây tổn thất hoàn toàn cho Hàn Quốc trong thời thực dân. Nếu cần phải bồi thường cho các tổn thất thực dân, Iseki Yujirō, Giám đốc Cục Vấn đề Châu Á thuộc Bộ Ngoại giao Nhật Bản, lập luận rằng, cần phải giới hạn chỉ ở các khoản lương, lương hưu, trái phiếu nhà nước và trái phiếu doanh nghiệp chưa thanh toán của các công nhân và nhà đầu tư Hàn Quốc cùng những đối tượng khác. Hơn nữa, bên tuyên bố sở hữu phải chứng minh yêu cầu của họ bằng những bằng chứng pháp lý vững chắc. Các báo Nhật đã đưa ra các báo cáo rằng Bộ Ngoại giao và Bộ Tài chính đang xem xét một thỏa thuận ở mức 20-80 triệu đô-la Mỹ. Ngược lại, Park đang nhắm đến con số trong khoảng 600-900 triệu đô-la Mỹ.

Với những cuộc đối đầu về vấn đề lãnh thổ ở Tokdo, “ranh giới hòa bình” và các tuyên bố sở hữu tài sản tái xuất hiện cũng như phải đối mặt với sự chỉ trích của phái đoàn Nhật Bản về việc Hàn Quốc từ chối cấp phép thành lập văn phòng đại diện Nhật Bản ở Seoul, Park phải hủy bỏ các kế hoạch ở lại qua đêm tại Nhật Bản trên đường về nước từ Hoa Kỳ. Tình hình không tốt hơn với các cuộc bầu cử sắp đến ở Nhật Bản, sự kiện này ngăn cản những thành viên thân Hàn của Nghị viện Nhật Bản thay đổi quan điểm ở vấn đề tuyên bố sở hữu tài sản đầy nhạy cảm chính trị. Như một nỗ lực để kiểm soát tổn thất, Ikeda cầu cứu những người Nhật và Mỹ ủng hộ một thỏa thuận nhanh chóng vào tháng 1 năm 1962 với thông báo chính thức rằng sự ổn định chính trị của Hàn Quốc phục vụ cho các lợi ích an ninh của Nhật và rằng chính quyền của ông sẵn sàng theo đuổi các cuộc đàm phán bình thường hóa quan hệ một cách nghiêm túc. Để phá vỡ tình thế bế tắc, Bộ trưởng Ngoại giao Hàn Quốc Choi Deok-sin họp với người đồng cấp Nhật, Kosaka Zentarō vào ngày 15 tháng 3 năm 1962. Sáu ngày sau, giám đốc KCIA Kim Jong-pil tiến hành chuyến viếng thăm Nhật Bản lần thứ hai để củng cố thêm cuộc gặp của các bộ trưởng ngoại giao. Không nỗ lực nào thành công, bất chấp việc Kim Jong-pil cho thấy nhiệt thành và lòng quyết tâm. Nếu có thì chuyến viếng thăm của ông ta chỉ làm tăng thêm sự phản đối của người Hàn Quốc về việc bình thường hóa quan hệ. Thời điểm của chuyến viếng thăm cũng không thuận lợi, vì nó trùng với sự kiện từ chức của Tổng thống Yun Po-sun vào tháng 3 năm 1962 nhằm chống lại chế độ độc tài của Park, sự kiện này càng làm mạnh thêm các lực lượng chống hiệp ước ở Nhật Bản. Sự bùng nổ các cuộc biểu tình sinh viên ở Hàn Quốc buộc Kim Jong-pil phải cắt ngắn chuyến viếng thăm của ông. Từ đó, các cuộc đàm phán bình thường hóa bị trì hoãn trong 5 tháng.

Chính trong tình hình chậm tiến triển, nếu không phải là bế tắc này, chính quyền Mỹ can thiệp vào các cuộc đàm phán Hàn - Nhật để thuyết phục các lãnh đạo Nhật Bản về tầm quan trọng của việc đạt được một thỏa thuận nhanh chóng với Hàn Quốc. Việc Kennedy hối thúc cựu thủ tướng Yoshida Shigeru vào tháng 5 năm 1962 góp phần xúc tiến các cuộc đàm phán. Các sĩ quan Mỹ khác cũng làm theo với một thông điệp tương tự trong các cuộc gặp với các lãnh đạo chính trị Nhật Bản. Tuy nhiên, cuối cùng Hoa Kỳ không thể buộc Ikeda dứt khoát đánh cược sự nghiệp chính trị của ông này vào việc bình thường hóa quan hệ với Hàn Quốc. Vị thủ tướng Nhật miễn cưỡng thúc đẩy các cuộc đàm phán bình thường hóa vì sợ rằng, như ông giải thích với Rusk, chúng sẽ làm bùng phát một cuộc khủng hoảng chính trị giống như cuộc khủng hoảng hình thành từ việc ký hiệp ước an ninh chung Mỹ-Nhật năm 1960. Cực kỳ thận trọng, Ikeda thậm chí còn cố gắng xoa dịu cánh tả bằng ý tưởng theo đuổi một lời đề nghị riêng với Triều Tiên vào tháng 8 năm 1962. Ikeda đề nghị rằng Nhật Bản “một ngày nào đó” có thể đàm phán một thỏa thuận riêng với Bình Nhưỡng về các vấn đề tuyên bố sở hữu tài sản, ngụ ý rằng Seoul không thể tuyên bố quyền tài phán cho cả Bán đảo Triều Tiên. Ý tưởng về một thỏa thuận riêng với Triều Tiên làm nảy sinh một nguyên nhân nữa, bên cạnh tinh thần dân tộc chủ nghĩa chống Nhật, để công chúng Hàn Quốc chống lại sáng kiến ngoại giao của Park.

May mắn cho Park, sự tái đắc cử áp đảo của Ikeda Hayato trong vai trò chủ tịch LDP ngày 14 tháng 7 năm 1962 có vẻ như đã khuyến khích ông này tiến hành chính sách hướng đến tương lai với Hàn Quốc. Với việc khởi động nội các mới, Ohira Masayoshi, Bộ trưởng Ngoại giao mới được chỉ định và cũng là phó tướng thân thiết của Ikeda Hayato, bắt đầu xử lý các cuộc đàm phán bình thường hóa. Ohira được giao nhiệm vụ thỏa thuận các vấn đề còn tồn đọng càng nhanh càng tốt. Trong một nỗ lực chi tiết nhất, Ohira đề xuất một hướng dẫn 4 điều để giải quyết vấn đề về tuyên bố sở hữu. Thứ nhất, ông đề xuất rằng Nhật Bản sẽ chỉ tiến hành những thỏa thuận tư nhân với tổng giá trị không vượt quá 70 triệu đô-la Mỹ. Thứ hai, một khoản viện trợ trị giá 100 triệu đô-la Mỹ sẽ được cung cấp dưới dạng hỗ trợ kinh tế. Thứ ba, ông thúc đẩy ý tưởng cung cấp cho Hàn Quốc các khoản nợ dài hạn lãi suất thấp để viện trợ cho việc tiến hành FYEDP lần thứ nhất của nước này. Thứ tư, thỏa thuận sẽ được thực hiện với đồng thuận rằng thỏa thuận chỉ giải quyết những vấn đề tuyên bố sở hữu của người dân sống ở phía nam ranh giới đình chiến. Việc chỉ sẵn sàng thực thi các thỏa thuận tư nhân có nghĩa là Nhật Bản không sẵn sàng xin lỗi về quá khứ thực dân. Ohira và những người khác tin rằng lời xin lỗi có thể làm tổn thương đến bản sắc dân tộc và uy tín quốc tế của Nhật Bản. Ngược lại, việc hạn chế thỏa thuận chỉ cho những tuyên bố sở hữu của người dân ở Nam Triều Tiên được cho là xoa dịu phe cánh tả chống đối ở Nhật Bản. Tuy nhiên, vì đây là lần đầu tiên những chi tiết về các tuyên bố sở hữu tài sản được đề xuất, nên Park chào mừng sáng kiến của Ohira, đặc biệt với công thức cơ cấu về việc phân loại các tuyên bố thành tuyên bố sở hữu tư nhân, các khoản viện trợ và cho vay.

Khi các cuộc đàm phán nối lại ngày 21 tháng 8 năm 1962, Sugi Michisuke và Pae Ui-hwan ngay lập tức tổ chức một loạt những buổi họp cấp sự vụ để xử lý các chi tiết. Tuy nhiên do không có tiến triển về số tiền thực tế liên quan đến các tuyên bố sở hữu tài sản, Kim Jong-pil phải đi Nhật lần thứ ba. Trên đường đến Washington theo lời mời của Bộ Ngoại giao Mỹ, Kim Jong-pil trải qua ba ngày ở Tokyo vào tháng 10 năm 1962 để đàm phán về số tiền với Ohira. Theo chỉ đạo của Park, Kim đặt ra mục tiêu từ 600 đến 900 triệu đô-la Mỹ. [190] Từ đó trở đi, Park giám sát chặt chẽ quá trình đàm phán, đưa ra những mệnh lệnh cụ thể cho Kim Jong-pil về một số chi tiết trong các vấn đề thỏa thuận, bao gồm tổng số tiền trong tuyên bố sở hữu tài sản phải nhận được từ Nhật Bản.

Cuộc họp từ chặng nghỉ này giỏi lắm chỉ mang ý nghĩa khám phá. Chỉ cho đến khi Kim Jong-pil và Ohira tổ chức cuộc họp thứ hai khi Kim trở về từ Hoa Kỳ thì các cuộc đàm phán mới bắt đầu nghiêm túc. Bộ trưởng Ngoại giao Nhật Bản kỳ vọng Kim yêu cầu 800 triệu đô-la Mỹ dựa trên những buổi gặp từ trước với Phó Thủ tướng Kim Yu Taek vào tháng 9 năm 1961. Trái với lời đề nghị 50 triệu đô-la Mỹ của Nhật, Hàn Quốc cho rằng con số của Kim Yu Taek là một sự nhượng bộ từ phía Hàn, thấp hơn rất nhiều so với yêu cầu 2 tỷ đô-la Mỹ của Lý Thừa Vãn và con số 1,2 tỷ đô-la Mỹ của Chang Myon. Ohira thì rộng lượng hơn - nhưng không quá nhiều so với quan điểm của Hàn Quốc. Ohira ban đầu đề xuất 170 triệu đô-la Mỹ cho các thỏa thuận tư nhân và viện trợ, cộng với một khoản cho vay dài hạn lãi suất thấp chưa xác định. Một cách trùng hợp, Bộ Ngoại giao và Bộ Tài chính Nhật Bản đề nghị rằng toàn bộ gói này cần thấp hơn 100 triệu đô-la Mỹ. [191]

Ohira có lần nhớ lại những lời ông nói với Kim Jong-pil như sau:

Tôi có thể hiểu rõ những cảm giác của người dân nước anh về Nhật Bản. Tuy nhiên, tôi [không] nghĩ có bất kỳ lợi ích nào cho nước anh khi các anh chỉ nói những điều tức tối về Nhật Bản... Hai nước chúng ta là láng giếng mãi mãi, vì vậy [không phải chúng ta] cần quyết tâm loại bỏ mọi điều giờ đã thành dĩ vãng, như tàn thuốc trong gạt tàn và hướng đến tương lai [sao]? Nếu có một tư tưởng như vậy ở nước anh, Nhật Bản cũng sẽ đủ nhạy cảm để hành động theo. Hiện giờ các anh đã giành được độc lập và phải đối mặt với nhiệm vụ xây dựng quốc gia đầy khó khăn, Nhật Bản, với vai trò là một láng giềng mãi mãi, sẽ sẵn sàng hỗ trợ sự phát triển trong tương lai với quan hệ hợp tác kinh tế mạnh mẽ.

Sau một thời gian mặc cả, hai bên cuối cùng đồng ý với con số 300 triệu đô-la Mỹ viện trợ, 200 triệu đô-la Mỹ các khoản vay ODA (Viện trợ Phát triển Chính thức), và hơn 100 triệu đô-la Mỹ cho các khoản vay thương mại. Kết hợp các khoản viện trợ 300 triệu đô-la Mỹ là việc xóa món nợ 45,7 triệu đô-la Mỹ mà Hàn Quốc thiếu Nhật Bản. Để khiến các nhà lập pháp và quan chức Nhật Bản dễ chấp nhận thỏa thuận này hơn, và cũng cân nhắc tình trạng thiếu dự trữ ngoại hối của Nhật Bản, Ohira đề xuất thanh toán dần trong một giai đoạn dài. Kim Jong-pil đồng ý nhận cả các khoản trợ cấp và khoản vay ODA trong 10 năm. Ngược lại, các khoản vay thương mại sẽ được cung cấp kể cả trước khi hoàn tất quá trình bình thường hóa ngoại giao tùy từng trường hợp. Cuối cùng, hiểu được điểm yếu chính trị của nhau, cả hai đồng ý những cách giải thích khác nhau về thỏa thuận này. Trong khi Kim Jong-pil xem thỏa thuận này như một dàn xếp về các tuyên bố sở hữu tài sản và các khoản bồi thường thiệt hại cho những sai trái thời thực dân của Nhật, Ohira Masayoshi khẳng định đây là viện trợ kinh tế của Nhật cho Hàn Quốc. Với những điều khoản thỏa thuận được viết ra vào cuối cuộc họp, “Biên bản ghi nhớ Kim-Ohira” gây tranh cãi đã xuất hiện. [192]

Biên bản ghi nhớ Kim-Ohira thỏa thuận những vấn đề được cho là trọng tâm trong thỏa thuận toàn diện. Park vốn đã chỉ ra rằng ông sẵn sàng giải quyết các vấn đề về quyền đánh cá và tranh chấp “ranh giới hòa bình” nếu người Nhật cho thấy lòng chân thành ở vấn đề tuyên bố sở hữu tài sản. Tuy nhiên, ý thức được mối nguy hiểm về một đợt phản ứng kịch liệt của những người theo chủ nghĩa dân tộc ở Hàn Quốc chống lại Biên bản ghi nhớ Kim-Ohira, hai nhà đàm phán đồng ý giữ bí mật về thỏa thuận này. Chỉ đến ngày 29 tháng 1 năm 1963, nội dung thật sự của bản ghi nhớ mới được Bộ Ngoại giao Nhật Bản tiết lộ. Như Park và Kim Jong-pil dự đoán, việc tiết lộ các điều kiện thỏa thuận đã khiến phe đối lập của Hàn Quốc, vốn đang phẫn nộ vì phương sách “ngoại giao một người” (ilin oegyo) của Kim Jong-pil, càng tức giận dữ dội. Không chỉ thế, bản chất bí mật của các cuộc đàm phán càng làm tồi tệ hơn nỗi sợ bị phản bội của công chúng. Các cuộc biểu tình toàn quốc nhanh chóng diễn ra, và đặc biệt là nhóm ủng hộ hiệp ước ở Nhật Bản, đã buộc Park - vốn trước giờ vẫn được cho là không bị tác động bởi ý kiến quần chúng - phải ngừng các cuộc đàm phán trong hầu hết cả giai đoạn 1963-1964.

Khủng hoảng hiệp ước

Cũng như khi khởi động lại các cuộc đàm phán tháng 10-11 năm 1961, một lần nữa chính Hoa Kỳ đã đưa Hàn Quốc và Nhật Bản đến bên bàn đàm phán vào giữa những năm 1960. Hoa Kỳ không bao giờ trực tiếp dính vào các cuộc đàm phán. Thay vì vậy, nước này chủ động chọn vị trí trung gian ở phía sau, nhanh chóng gây áp lực buộc Seoul và Tokyo phải đi đến một hiệp ước về các điều kiện thỏa thuận chung. Kể cả vào mùa xuân năm 1963, khi bất đồng với Park vì ông tìm cách hủy bỏ lời hứa trở lại chính quyền dân sự (xem chương 2), Hoa Kỳ vẫn tiếp tục nỗ lực quy tụ hai nước đồng minh của mình. [193] Thông qua sự hỗ trợ của Rusk, Đại sứ ở Hàn Quốc Samuel D. Berger, Đại sứ ở Nhật Bản Edwin O. Reischauer, Thứ trưởng Ngoại giao phụ trách các vấn đề chính trị W. Averell Harriman, và Vụ trưởng ngoại giao phụ trách các vấn đề Đông Á và Thái Bình Dương William P. Bundy, Hoa Kỳ đóng vai trò trung gian xuyên suốt giai đoạn 1964-1965.

Vai trò trung gian của Hoa Kỳ được gia tăng vào năm 1964 vì áp lực gia tăng từ xung đột quân sự ở Đông Dương. Những sự kiện ở miền Nam Việt Nam diễn ra nhanh chóng. Chiến thắng áp đảo của Johnson trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ tháng 11 năm 1964 dẫn đến sự leo thang các cuộc rải bom tấn công miền Bắc Việt Nam trong Chiến dịch Săm Rền. Lập luận rằng mình phải đảm bảo an ninh cho người Mỹ, Johnson cũng kêu gọi gửi đi số lượng lớn bộ binh. Cuối năm 1965, quân đội Mỹ ở miền Nam Việt Nam có 184.314 người. Cuộc chiến không tuyên bố ở Đông Dương đã chính thức bắt đầu.

Cùng với sự kiện đó, Hoa Kỳ hăm hở chờ đợi bình thường hóa quan hệ Hàn - Nhật. Nhằm tiến hành hiệu quả chiến dịch quân sự ở miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ trông chờ vào sự hỗ trợ hậu cần của Nhật Bản và nguồn cung lính chiến đấu của Hàn Quốc. Như một phần trong chiến dịch chính trị nhằm tạo ra hình ảnh đoàn kết của thế giới tự do ủng hộ các nỗ lực chiến tranh