← Quay lại trang sách

Chương 15 BẾ TẮC AN NINH, CHÍNH TRỊ
VÀ QUYỀN CON NGƯỜI, 1974-1979
Kim Yong-jick

Quan hệ giữa Hàn Quốc và Hoa Kỳ đi xuống rõ rệt vào giữa những năm 1970 với sự khởi đầu nhiệm kỳ của Tổng thống Jimmy Carter, người đã áp dụng một chính sách mới với Hàn Quốc khác hẳn lập trường chiến tranh lạnh truyền thống của Hoa Kỳ xét trên ba khía cạnh quan trọng. Đầu tiên, Carter đặt lên hàng đầu hoặc gần như hàng đầu vấn đề vi phạm nhân quyền dưới chế độ yushin (1972-1979) của Tổng thống Park Chung Hee trong chương trình nghị sự chính sách ngoại giao của Mỹ. Thứ hai, Carter vận động rút hoàn toàn bộ binh Mỹ khỏi Bán đảo Triều Tiên như một phần trong kế hoạch triệt thoái quân sự của Mỹ khỏi Đông Á vốn đã bắt đầu với Học thuyết Guam năm 1969 của Richard M. Nixon. Tranh chấp về quyền con người và rút quân gần như đã phá hủy liên minh này khi các vấn đề này lan rộng và khuếch đại những căng thẳng chính trị cuối cùng gây nên xung đột thứ ba, được biết đến như là “Koreagate”, liên quan đến nỗ lực của chế độ yushin bị cáo buộc là nhằm mua chuộc sự ủng hộ của Quốc hội Mỹ bằng các khoản tiền phi pháp.

Cuộc khủng hoảng trong liên minh phát triển theo thời gian. Việc tranh cãi về quyền con người bắt đầu với các phiên điều trần quốc hội Mỹ vào năm 1974 và 1975, khi Park sử dụng các sắc lệnh khẩn cấp để trừng trị phe đối lập đang lớn mạnh. Sự trấn áp này sau đó khiến nhiều nhà lập pháp Mỹ phải ủng hộ việc cắt viện trợ quân sự nhằm buộc Park phải có trách nhiệm hơn với những quan ngại của Mỹ về nhân quyền. Sau đó đến kế hoạch rút bộ binh của Mỹ năm 1977 vì lời hứa tranh cử tổng thống của Carter năm 1976. Vụ bê bối Koreagate cũng bắt đầu phát triển giữa những năm 1970 khi giới truyền thông đưa tin về hoạt động vận động hành lang bất hợp pháp của Hàn Quốc ở Điện Capitol, sự kiện này càng làm tình hình tồi tệ hơn nữa. Khi thái độ chống Park lớn dần ở Hoa Kỳ, chính quyền Carter kiên trì với chính sách trừng phạt Hàn Quốc mà nếu thành công, sẽ gây tổn hại nghiêm trọng đến liên minh an ninh Mỹ — Hàn.

Trong cuộc phỏng vấn với tờ Washington Post ngày 16 tháng 1 năm 1976, ứng viên tổng thống lúc bấy giờ là Carter tuyên bố ý định rút bộ binh và vũ khí hạt nhân khỏi Bán đảo Triều Tiên. Hội đồng ba bên, một nhóm tư nhân đa quốc gia do David Rockerfeller mới lập ra, họp vào tháng 5 năm 1976 ở Kyoto và bày tỏ sự tin tưởng với chính sách mới của Carter về việc ủng hộ rút quân. Tháng 3 năm 1977, Carter chính thức tuyên bố kế hoạch rút toàn bộ bộ binh Mỹ khỏi Hàn Quốc trong 4-5 năm. Bất chấp sự chống đối mạnh mẽ của Park, Carter thực thi lời hứa tranh cử của mình với tốc độ đáng cảnh báo đối với phía Hàn Quốc. Hai năm rưỡi tiếp đó là giai đoạn mà không nghi ngờ gì nữa, chính là giai đoạn tồi tệ nhất trong quan hệ song phương của hai nước từ cuối Chiến tranh Triều Tiên năm 1953.

Để chống lại chính sách mới của Carter, Park sử dụng chiến lược bác bỏ dứt khoát sự tồn tại của các vấn đề nhân quyền ở Hàn Quốc. Khẳng định Carter không nắm bắt được tình hình chia rẽ quốc gia cũng như cuộc đối đầu quân sự giữa Hàn Quốc với “nhà nước bất hảo” của Triều Tiên, các cố vấn của Park chỉ trích chính sách rút quân của Carter không chỉ là một hành động phản bội mà còn là một chính sách hoạch định kém sẽ làm tổn hại đến lợi ích của Mỹ trong việc duy trì trạng thái hiện tại trên Bán đảo Triều Tiên. Ngược lại, chính quyền Carter nhấn mạnh rằng việc vi phạm nhân quyền là không cần thiết cũng như không thể biện minh kể cả trong bối cảnh quân sự khó khăn của Hàn Quốc. Trái lại, những hành động như vậy là kết quả trực tiếp từ nỗ lực của Park nhằm duy trì chế độ độc tài khi đối mặt với sự chống đối chính trị gia tăng trong nước. Về tổng thể, hai chính phủ không bao giờ đặt câu hỏi về tầm quan trọng chiến lược của liên minh Mỹ — Hàn; và họ cũng không thật sự tranh cãi về sự tồn tại của các vi phạm nhân quyền. Park không thể thoát khỏi các cáo buộc đàn áp và tra tấn từ các quan chức Mỹ và giới chống đối chính trị trong nước. Câu hỏi thật sự ở đây liên quan đến sự chính đáng trong việc Hoa Kỳ can thiệp vào chính trị nội bộ Hàn Quốc. Với vai trò to lớn của Mỹ ở Hàn Quốc, từ là một nhà cung cấp viện trợ kinh tế đến phòng vệ quân sự quốc gia và bảo trợ dân chủ, Hoa Kỳ trên thực tế đang can thiệp vào chính trị nội bộ Hàn Quốc cho dù cường quốc này có hay không hành động theo bản năng truyền bá các giá trị dân chủ. Như các đối thủ của Park và Hoa Kỳ lập luận, việc án binh bất động sẽ làm mạnh thêm quyền lực của Park đối với chính trị trong nước còn hành động sẽ làm yếu đi khả năng nắm quyền đó bằng cách tước đi của ông những nguồn lực kinh tế, quân sự và ý thức hệ. Sự hiện diện mang tính bá chủ của Hoa Kỳ ở Hàn Quốc khiến bất kỳ hành động hay sự án binh bất động nào của Hoa Kỳ cũng tự động trở thành một hành động can thiệp.

Trớ trêu thay, tranh cãi này đã gây bất ổn sâu sắc ở Hàn Quốc và đe dọa khả năng phòng vệ quân sự của nước này, lại là lỗi của chính Park. Để bảo vệ chế độ yushin, Park dựa vào các quyền khẩn cấp để trấn áp giới bất đồng chính kiến chaeya và các chính trị gia đảng phái đối lập, dù điều đó chỉ làm mạnh mẽ hơn tinh thần phản kháng của phe đối lập. Để làm chậm lại, nếu không phải là đảo ngược, kế hoạch triệt thoái quân sự của Hoa Kỳ như được khẳng định trong Học thuyết Guam, Park yêu cầu Park Dong-seon vận động hành lang để có được sự ủng hộ của quốc hội Mỹ, điều này phản tác dụng, không chỉ dẫn đến các cuộc điều tra của Mỹ mà còn cả những lời chỉ trích trong nước.

Tuy nhiên, ba tranh cãi này đều đi đến một kết thúc đáng thất vọng. Các tranh cãi song phương về việc rút bộ binh Mỹ, Koreagate và vi phạm nhân quyền không kết thúc với chiến thắng cho Carter, không phải vì Park phản kháng, mà vì chính trị nội bộ Mỹ đổi chiều chống lại Carter và giới hoạch định chính sách Mỹ, với việc tái xác định các lợi ích chiến lược của Mỹ sau khi cơn hưng phấn của giai đoạn hòa dịu giảm dần với cuộc khủng hoảng Trung Đông. Khi Carter kết nối vấn đề vi phạm nhân quyền với lời hứa rút quân khi tranh cử, chính Bộ Quốc Phòng Mỹ (DoD) và Quốc hội Mỹ — chứ không phải Hàn Quốc - đã chấm dứt cuộc thử nghiệm chính sách ngoại giao của Carter. Mặc cho những đe dọa can thiệp trước đây, các hình phạt Hoa Kỳ thật sự áp dụng tỏ ra quá nhẹ không chỉ vì các hạn chế địa chính trị khu vực mà còn vì những chia rẽ nội bộ trong chính quyền Carter cùng mối quan hệ không suôn sẻ của chính quyền này với Quốc hội Mỹ. Về vụ Koreagate, Ủy ban Đạo đức Hạ viện cuối cùng chỉ khiển trách ba đại biểu quốc hội vốn bị cáo buộc nhận tiền từ Park Dong-seon sau hai năm điều tra căng thẳng. Về vấn đề rút quân, Carter thay đổi theo bước chuyển ngược sau khi ông quyết định rút về 2.400 bộ binh, gồm 800 lính chiến đấu, khiến những người ủng hộ việc tiếp tục hiện diện quân sự ở Hàn Quốc trong DoD, quân đội và Quốc hội Mỹ cùng nhau kìm hãm ông. May mắn cho liên minh giữa hai nước, tổn thất không lớn.

Nguồn cơn các rắc rối của Park, 1972-1974

Chế độ yushin

Tranh cãi giữa Hàn Quốc và Hoa Kỳ về vấn đề quyền con người xuất phát từ việc khởi động chế độ yushin tháng 10 năm 1972. Đối với Park, hiến pháp yushin là lời phản hồi chính đáng cho sự suy yếu thấy rõ trong cam kết quân sự của Mỹ ở Hàn Quốc khi Chiến tranh tại Việt Nam kết thúc. Mười ngàn lính Mỹ được rút khỏi Hàn Quốc đến năm 1970 và Sư đoàn Bộ binh 17 khởi hành năm 1971 dù mối đe dọa quân sự từ Triều Tiên không hề thay đổi. Park đối phó với lỗ hổng an ninh này bằng cách công bố tình trạng khẩn cấp quốc gia năm 1971 và tuyên bố hiến pháp yushin năm 1972. Với hiến pháp này, Park cho rằng ông có thể đưa Hàn Quốc đi theo con đường có mục tiêu kép là “phòng thủ tự lực” và công nghiệp hóa ngành công nghiệp nặng và hóa chất.

Hoa Kỳ bất ngờ với điều này. Park giữ bí mật các kế hoạch của ông đến phút chót, và Hoa Kỳ xem tuyên bố này là không chính đáng vì các căng thẳng chính trị-quân sự ở bán đảo đang trở nên bớt căng thẳng hơn thông qua đối thoại Bắc-Nam mà Park đã khởi động ngay trước khi thiết lập chế độ yushin . Hệ quả mà các lực lượng chống đối ở Hàn Quốc phải gánh chịu càng tồi tệ hơn nhiều. Tháng 8 năm 1973, Kim Dae-jung, người từng là ứng viên tổng thống của Đảng Dân chủ Mới năm 1971, bị các gián điệp của Cơ quan Tình báo Trung ương Hàn Quốc (KCIA) bắt cóc ở Nhật Bản, nơi ông được chính phủ Nhật Bản trao cho quyền tị nạn chính trị từ khi yushin ra đời. Trước đó cũng trong năm 1973, Kim Dae-jung đã tổ chức Liên minh vì Dân chủ và Thống nhất ở Triều Tiên (Hanmintong) để lãnh đạo các phong trào chống yushin ở Hoa Kỳ và Nhật Bản. Vụ bắt cóc ông giữa thanh thiên bạch nhật ở trung tâm Tokyo gây tổn hại nghiêm trọng đến hình ảnh của Park trong mắt hai nước bảo trợ quan trọng nhất đối với Hàn Quốc. Kim Dae-jung tái xuất hiện năm ngày sau ở gần nơi sinh sống của ông ở Soeul với sự thở phào của các chính trị gia đối lập, giới bất đồng chính kiến chaeya và giới hoạch định chính sách Nhật, Mỹ. Tuy nhiên, tổn hại là đã rồi khi các lãnh đạo cấp cao ở KCIA bị cáo buộc dính líu nghiêm trọng đến vụ bắt cóc. Chế độ yushin thẳng thừng bác bỏ sự liên quan của Park vào sự kiện này, nhưng chế độ này hiểu rằng nó phải phản hồi lại ý kiến của công chúng. Giám đốc KCIA Yi Hu-rak bị sa thải vài tháng sau đó.

Việc sử dụng thường xuyên các biện pháp đàn áp để bịt miệng phe chỉ trích và bình ổn các cuộc biểu tình sinh viên do chaeya cầm đầu trở thành dấu ấn của chế độ yushin . Ngày 8 tháng 1 năm 1974, Sắc lệnh Khẩn cấp số 1 và số 2 được ban hành, cho phép tòa án quân sự xét xử bất kỳ ai “bác bỏ, chống đối, diễn dịch sai hoặc gây ảnh hưởng đến uy tín hiến pháp”. Như Park biện minh, những sắc lệnh này rất cần thiết để “bảo vệ sự sống còn của quốc gia và thiết lập một nền tảng vững mạnh cho sự thịnh vượng và thống nhất quốc gia.” Các hệ quả chính trị của chế độ cai trị bằng các sắc lệnh khẩn cấp là cực kỳ thảm khốc, điều đó buộc Park phải ban hành thêm hai sắc lệnh khẩn cấp nữa tính đến tháng 4 năm 1974. Sắc lệnh Tổng thống số 4 có hiệu lực trong bốn tháng, dẫn đến vụ bắt giữ hơn 1.000 người bất đồng chính kiến để cảnh sát thẩm vấn và phiên xử 253 người của một tòa án quân sự khẩn cấp. Trong mối cảm thông lan rộng dành cho Park về cái chết của đệ nhất phu nhân dưới tay của một cư dân Hàn sống ở Nhật Bản có ý đồ ám sát ông, Park đã xóa bỏ sắc lệnh này như một động thái hòa giải chính trị ngày 23 tháng 8 năm 1974 nhưng rồi phải đối mặt với thách thức lớn hơn từ lực lượng chống đối. Sự leo thang xung đột chính trị khiến Park ban hành Sắc lệnh Khẩn cấp số 7 tháng 5 năm 1975 và số 9 tháng 5 năm 1975. Yushin trở thành chế độ cai trị bằng sắc lệnh khẩn cấp.

Phong trào nhân quyền

Khi Park thắt chặt vòng kiểm soát xã hội chính trị, phong trào chống yushin phát triển về cả số lượng và cường độ. Phong trào này ban đầu được lãnh đạo bởi các lãnh đạo giáo hội và các nhà hoạt động sinh viên, nhưng nhanh chóng mở rộng thu hút các chính trị gia NDP đối lập. Tháng 10 năm 1974, NDP có sự lãnh đạo của Kim Young-sam “cứng rắn” với diễn đàn “chống đối sạch” (seonmyeong yadang). Đảng đối lập nhanh chóng kết hợp lực lượng với tờ Dong-A Ilbo và Đài Dong-A để vận động Phong trào Cải thiện Hiến pháp Yushin. Các phóng viên của tờ báo và đài phát thanh này phản đối sự kiểm duyệt, phát đi “Tuyên bố vì Thực hành Tự do Ngôn luận” ngày 24 tháng 10 năm 1974, dẫn đến sự kiện hủy quảng cáo của cộng đồng doanh nghiệp dưới áp lực của giới cầm quyền chính trị vào giữa tháng 12. Các lãnh đạo Cơ đốc giáo cất tiếng phản đối, họ tổ chức Ủy ban Nhân Quyền vào ngày 17 tháng 5 năm 1974 để hỗ trợ các “tù nhân của lương tri” (yangsimbeom) cùng gia đình họ, bên cạnh nhiệm vụ thúc đẩy nhân quyền. Đến cuối năm 1974, các nhóm khác nhau trong phong trào chống yushin tổ chức Đại hội Nhân dân Tái thiết Dân chủ như là một tổ chức bảo trợ để thách thức Park.

Lực lượng dẫn dắt phong trào chống yushin ở Hàn Quốc bao gồm Liên minh Dân chủ và Thống nhất Hàn Quốc (Mintongrycon), Liên minh Tái thiết Dân chủ ở Đất mẹ (Cho-minryeon), và Liên minh Thanh niên Hàn Quốc (Hancheong). Khi kết hợp các lực lượng này với các tổ chức phi chính phủ (NGO) khác để tổ chức thành một thách thức chính trị đối với Park, các nhóm bất đồng chính kiến này nhận được sự ủng hộ từ bên ngoài, bao gồm từ Liên minh Bắc Mỹ vì Nhân Quyền Hàn Quốc của Mục sư Pharis J. Harvey, Tổ chức Giám sát Châu Á, Tổ chức Ân xá Quốc tế và nhóm Luật Nhân quyền Quốc tế. Chiến dịch nhân quyền do NGO lãnh đạo tạo ra kết quả tốt khi những người Mỹ có ảnh hưởng bắt đầu chỉ trích Park vì đàn áp chính trị. Cựu đại sứ Mỹ ở Nhật Bản Edwin O. Reischauer viết bài trên tờ New York Times để kêu gọi việc xem xét lại chính sách hiện tại của Mỹ với Hàn Quốc. Lập luận rằng cam kết dân chủ của Mỹ ở Hàn Quốc đã bị đe dọa nghiêm trọng bởi chế độ yushin của Park, và khẳng định rằng việc Park dùng đàn áp chính trị để nắm quyền sẽ chỉ làm gia tăng xung đột chính trị trong nước mà điều đó có thể đẩy Bán đảo Triều Tiên đến bối cảnh phức tạp, Reischauer đề xuất đặt nhân quyền lên hàng đầu trong chương trị nghị sự của Mỹ. Tuy nhiên, cho đến khi Carter lên nắm quyền năm 1977, đây chỉ là lập trường thiểu số - dù số lượng ủng hộ ngày càng gia tăng ở Hoa Kỳ.

Hoa Kỳ chia rẽ, 1974-1976

Các buổi điều trần của quốc hội Mỹ về vi phạm nhân quyền

Trong chính quyền Gerald R. Ford (1974-1977), tranh cãi về quyền con người giữa Hàn Quốc và Hoa Kỳ tập trung ở các buổi điều trần quốc hội. Donald M. Fraser, chủ trì Tiểu ban Tổ chức và Phong trào Quốc tế Hạ viện Mỹ đã tổ chức buổi điều trần chung với Robert N. C. Nix của Tiểu ban Các vấn đề Châu Á Thái Bình Dương Hạ viện về nhân quyền ở Hàn Quốc vào ngày 30 tháng 7 năm 1974. Đại biểu Fraser sẽ là điều tra viên chính về chiến dịch vận động hành lang phi pháp của Hàn Quốc đang bị cáo buộc là nhằm mua chuộc Quốc hội Mỹ. Hầu hết nỗ lực của ông được ủng hộ bởi các luật sư nhân quyền và lãnh đạo giáo hội Mỹ cũng như bởi giới trí thức Hàn Quốc bất đồng chính kiến hoạt động trong các chiến dịch chống yushin.

Các buổi điều trần Hạ viện thành công trong việc xác định các vi phạm nhân quyền ở Hàn Quốc và Philippin là một thách thức thật sự đối với chính sách ngoại giao Mỹ. Ở các buổi điều trần, luật sư người New York, William H. Butler, với vai trò là thành viên được Sứ mệnh Ân xá Quốc tế cử đến Hàn Quốc, đã chỉ trích chế độ yushin vì “những vụ bắt bớ hàng loạt, giam giữ kéo dài không xét xử”, “những trường hợp không tuân thủ thủ tụng tố tụng khác” và “hoạt động theo dõi liên tục của KCIA”. Jerome A. Cohen của Trường Luật Harvard khẳng định rằng lựa chọn trước mắt của Hoa Kỳ không phải là chọn an ninh bỏ mặc nhân quyền, hay chọn nhân quyền bỏ qua lợi ích an ninh. Thay vì vậy, Cohen cho rằng các lợi ích an ninh quân sự và nhân quyền bổ sung lẫn nhau. Ông nhấn mạnh rằng việc tiếp tục sự ủng hộ của Mỹ dành cho Park bất chấp việc sử dụng chế độ độc tài và đàn áp chính trị sẽ gây thiệt hại nặng nề cho sự thống nhất nội bộ trong nước của Hàn Quốc.

Đại biểu Fraser bày tỏ sự thất vọng về lời phản hồi tiêu cực của chế độ yushin trước làn sóng chỉ trích đang lên cao trong Quốc hội về các vi phạm nhân quyền của Hàn Quốc. Khi Fraser đến Hàn Quốc tháng 3 năm 1975, chế độ yushin từ chối cho ông gặp các nạn nhân của nạn tra tấn nhà nước. Các nhà hoạt động nhân quyền Mỹ, gồm có Cohen, nhắc lại lời cảnh báo của Fraser rằng chế độ đàn áp của Park gây ra rủi ro không chỉ làm yếu đi nền dân chủ Hàn Quốc mà, nghiêm trọng hơn, mang lại một cuộc chiến mới trên Bán đảo Triều Tiên khi nuôi dưỡng bất ổn chính trị trong nội bộ Hàn Quốc. Từ đó nổi lên nhóm tự do gồm những người trí thức, các nhà hoạt động nhân quyền, và phe cánh tả của Đảng Dân chủ, những người này kết nối trực tiếp vấn đề nhân quyền với viện trợ quân sự. Phe Cộng hòa cẩn trọng hơn, đặt lợi ích an ninh lên trên lợi ích nhân quyền trong mối quan hệ song phương. Những người có cảm tình với Park xem lịch sử chia cắt quốc gia, nội chiến và đối đầu quân sự của Hàn Quốc đã buộc Park phải chọn con đường hiện đại hóa độc tài. Ở các buổi điều trần, Franz Michael của Đại học George Washington lý giải chế độ yushin là một lời phản hồi trước những bế tắc an ninh gây ra do việc giảm cam kết của Mỹ với hoạt động phòng thủ của Hàn Quốc. Chong-Sik Lee của Đại học Pennsylvania cho rằng “môi trường quốc tế bị đe dọa” là nguồn cơn nỗi sợ của Park và dẫn đến việc ông dùng đến chế độ tài năm 1972. Lee khuyến nghị Hoa Kỳ theo đuổi chính sách đối thoại chung và thuyết phục thay vì trừng phạt.

Tháng 12 năm 1974, Fraser đề xuất hạn chế viện trợ quân sự cho Hàn Quốc từ đề nghị ban đầu là 165 triệu đô-la Mỹ còn 145 triệu đô-la Mỹ. Fraser cũng kêu gọi đưa thêm quy định về nhân quyền vào dự thảo cho phép một khoản cung cấp bổ sung viện trợ quân sự trị giá 55 triệu đô-la Mỹ tùy thuộc vào nỗ lực tạo ra tiến triển trong các điều kiện nhân quyền ở Hàn Quốc của Park. Các điều kiện trực tiếp Fraser tạo ra giữa viện trợ quân sự và nhân quyền đánh một “đòn tâm lý mạnh” vào chế độ yushin. Ngày 2 tháng 4 năm 1974 với sự ủng hộ của 118 đại biểu nghị viện từ cả hai đảng, Fraser kiến nghị chính quyền Mỹ xét lại chương trình hỗ trợ quân sự dành cho Hàn Quốc vì “sự gia tăng cường độ của cuộc khủng hoảng dân chủ dai dẳng ở Hàn Quốc”.

Khủng hoảng an ninh trầm trọng hơn ở bán đảo Triều Tiên

Trong khi một số thành viên của Quốc hội Mỹ bắt đầu xem xét ý tưởng biến viện trợ quân sự Mỹ thành công cụ cho ngoại giao nhân quyền, thì tổng thống hai nước lại kiên trì bám trụ chính sách truyền thống với việc đặt các lợi ích an ninh lên trên các mục tiêu và giá trị khác. Thật ra, tình thế bế tắc an ninh do cuộc khủng hoảng ở Đông Dương gia tăng gây ra chỉ càng củng cố thêm quan điểm của họ về giá trị cốt lõi của quan hệ song phương là an ninh quân sự. Tháng 8 năm 1974, khi trong gang tấc, Park đã thoát khỏi nỗ lực ám sát mà đã lấy mạng vợ ông, người ta cho rằng kẻ ám át, một người Hàn Quốc sinh sống ở Nhật Bản, đã được huấn luyện bởi một người có cảm tình với Triều Tiên. Tháng 11 năm 1974, quân đội Hàn Quốc phát hiện một đường hầm ngầm do Triều Tiên xây dựng cao khoảng 1,2 mét và rộng khoảng 0,9 mét về phía nam khu vực phi quân sự.

Chính quyền Ford nhận ra những quan ngại an ninh của Park là chính đáng, dù họ cẩn thận để không biến chúng thành lập luận cho đàn áp chính trị. Đầu tháng 2 năm 1974, Bộ trưởng Quốc phòng James R. Schlesinger làm chứng trước Ủy ban Quân đội Hạ viện rằng sự hiện diện tiếp tục của quân đội Mỹ ở Hàn Quốc là cực kỳ cần thiết đối với an ninh Đông Bắc Á. Ngày 30 tháng 3, cố vấn an ninh quốc gia Henry A. Kissinger xác nhận với Bộ trưởng Ngoại giao Kim Tong-jo rằng sẽ không có việc rút quân thêm khỏi Hàn Quốc. Peter Hayes lập luận rằng chính Kissinger là người đã đảo ngược kế hoạch tiếp tục rút quân có lộ trình của Schlesinger vốn được vạch ra trước đó bởi người tiền nhiệm của ông này là Bộ trưởng Quốc phòng, Melvin R. Laird.

Giữa lúc gia tăng thách thức từ chủ nghĩa cộng sản ở Campuchia và miền Nam Việt Nam, Ford cố gắng không vô tình khuyến khích Triều Tiên thực hiện những phi vụ quân sự bằng cách làm tổn hại đến niềm tin vào cam kết quân sự của Mỹ ở Hàn Quốc. Bất chấp sự chống đối chính sách truyền thống của Hàn Quốc lan rộng từ những tổ chức nhân quyền Cơ đốc giáo ở Hoa Kỳ, Ford tiến hành chuyến thám chính thức đến Hàn Quốc tháng 11 năm 1974 với mục tiêu biểu dương sức mạnh của liên minh. Trong một tuyên bố chung, Ford tái xác nhận cam kết của Hoa Kỳ về việc cung cấp “sự hỗ trợ đúng lúc và hiệu quả” cho Hàn Quốc trong trường hợp có tấn công vũ trang “theo Hiệp ước Phòng thủ Chung”. Về quân Mỹ đóng ở Hàn Quốc, ông đảm bảo với Park rằng “sẽ không có kế hoạch cắt giảm quy mô hiện tại”. Đáp lại, Park lặp lại cam kết tiếp tục đối thoại với Triều Tiên nhằm làm hạn chế căng thẳng và xây dựng hòa bình trên Bán đảo Triều Tiên. Tuy vậy bất chấp việc Ford cho thấy sự ủng hộ chính trị ở cuộc gặp thượng đỉnh, Quốc hội Mỹ tìm cách không để Park cảm thấy hoàn toàn yên tâm với sự ủng hộ của cường quốc này; các nhà lập pháp cắt giảm viện trợ quân sự cho Hàn Quốc 20 triệu đô-la Mỹ cho đến khi Ford trình một báo cáo về việc cải thiện chính sách nhân quyền của Park.

Sau đó nổ ra tin tức về việc sơ tán phần quân lính còn lại của Mỹ ở miền Nam Việt Nam vào tháng 4 năm 1975. Đồng thời, là lời cảnh báo dành cho Park khi Kim Il Sung, lãnh tụ Bắc Triều Tiên, đến Bắc Kinh ngày 18 tháng 4 để thảo luận về khả năng tổ chức tấn công quân sự ở Bán đảo Triều Tiên. Mặc dù Chu Ân Lai đã bác bỏ ý tưởng này, nhưng Park vẫn ban hành “Tuyên bố Đặc biệt về An ninh Quốc gia”. Tin tức về việc Kim Il Sung đang dò hỏi ý định của Chu Ân Lai về ý tưởng tham gia quân sự vào chiến tranh tại Việt Nam kích động nỗi ám ảnh Đỏ ở Hàn Quốc. Trong phát biểu của ông, Park khẩn thiết kêu gọi sự đoàn kết của quần chúng và cảnh báo mối nguy hiểm về một cuộc chiến chực chờ ở Bán đảo Triều Tiên. Hai tuần sau, Park công bố Sắc lệnh Khẩn cấp số 9 để tăng cường sức mạnh cho chế độ yushin. Cho rằng an ninh quốc gia đang gặp nguy hiểm, sắc lệnh này cố gắng bịt miệng những người theo chủ nghĩa tích cực về nhân quyền. Không những thế, Park bắt đầu xem xét phát triển tiềm lực vũ khí hạt nhân vì lo sợ khả năng mất đi sự bảo trợ hạt nhân của Mỹ. Trong một cuộc phòng vấn với tờ Washington Post tháng 6 năm 1975, Park khẳng định rằng Hàn Quốc có khả năng phát triển vũ khí hạt nhân và lấp lửng rằng nước này có thể sẽ hạt nhân hóa nếu Hoa Kỳ loại vũ khí hạt nhân khỏi Hàn Quốc. Lựa chọn hạt nhân bị ngăn chặn dưới áp lực mạnh từ Hoa Kỳ, quốc gia này cảnh báo rằng việc theo đuổi ý tưởng hạt nhân hóa sẽ đe dọa hủy hoại liên minh an ninh song phương (xem chương 16).

Bất chấp các buổi điều trần Hạ viện bất lợi về vi phạm nhân quyền và cuộc đối đầu về việc phát triển hạt nhân, chính sách chính thức của Mỹ đến năm 1975 vẫn nhấn mạnh vào sự ổn định trên Bán đảo Triều Tiên và hợp tác gắn bó với Hàn Quốc. Việc tiếp tục định hướng an ninh là ưu tiên hàng đầu được tái xác nhận ngày 11 tháng 5 cùng năm đó với sự bác bỏ dự thảo viện trợ nước ngoài sửa đổi của Đại biểu Fraser, dự thảo này đề xuất cắt giảm viện trợ quân sự cho Hàn Quốc trong năm tài khóa 1976-1977.

“Cú sốc Carter”, 1976-1977

Lời hứa rút quân trong chiến dịch tranh cử của Carter

Mặc cho thất bại năm 1975, đại biểu Fraser và những đảng viên dân chủ cấp tiến trong quốc hội Mỹ gia tăng áp lực buộc Park phải cải thiện điều kiện nhân quyền ở Hàn Quốc. Vô tình có lợi cho họ là tình hình leo thang xung đột chính trị ở Hàn Quốc dẫn đến quyết định sử dụng vũ lực của Park. Tháng 3 năm 1976, 11 người bất đồng chính kiến, tất cả đều là những nhà hoạt động Cơ đốc giáo, bị bắt giữ vì tội âm mưu lật đổ chính quyền. Động thái trừng trị này bị kích hoạt bởi tuyên bố phản kháng của những người Cơ đốc giáo ở nhà thờ Myeongdong. Các vụ bắt giữ ngay lập tức kích động phản ứng từ các nhà thờ Giám lý Thống nhất [198] ở Hoa Kỳ, giáo hội vốn có sự hiện diện đông đảo các nhà truyền giáo ở Hàn Quốc trong hơn một thế kỷ và liên kết chặt với những người Hàn Quốc bất đồng chính kiến những năm 1970 để vận động xem xét lại sự ủng hộ Mỹ dành cho chế độ yushin. Tháng 6 năm 1976, Tổng Hội Giáo hội Trưởng nhiệm Thống nhất [199] ở Hoa Kỳ gửi thư đến Park và Ford yêu cầu xét xử công bằng những người bất đồng chính kiến bị giam giữ. Hai tháng trước đó, Fraser cũng gửi thư đến Ford cùng với chữ ký của 118 đại biểu quốc hội, hối thúc việc xét lại sự ủng hộ quân sự cho chế độ yushin vì “sự gia tăng cường độ trong cuộc khủng hoảng dân chủ dai dẳng ở Hàn Quốc”. Khi những người bất đồng chính bị xác định là phạm tội lật đổ, tổng cộng 154 đại biểu quốc hội Mỹ đã cùng ký vào một bức thư gửi đến Park, cảnh báo rằng việc không tôn trọng nhân quyền sẽ làm suy sụp trầm trọng mối quan hệ Mỹ — Hàn.

Thách thức của các Đảng viên Dân chủ cấp tiến đối với chính sách truyền thống của Mỹ ở Hàn Quốc đạt đến đỉnh cao mới khi một trong những ứng viên tổng thống của Đảng Dân chủ, Jimmy Carter, hứa trong một phát biểu tranh cử tại Chicago ngày 23 tháng 6 năm 1976 rằng nếu đắc cử, ông sẽ rút bộ binh Mỹ khỏi Hàn Quốc. Carter từng hé lộ ý tưởng rút quân hoàn toàn trong một cuộc họp do Hội đồng Ba bên tổ chức ở Kyoto tháng 5 năm 1975. Kể từ đó, ông đưa ra một lý luận mạnh mẽ về việc móc nối những hành động vi phạm nhân quyền của Park với vấn đề rút quân, nhấn mạnh rằng “sự đàn áp trong nước [của chế độ yushin không chỉ] không thể chấp nhận được [mà còn] làm yếu đi sự ủng hộ [của công chúng] dành cho cam kết tiếp tục hiện diện quân sự của Mỹ.” Carter cũng lên án các hành động vi phạm nhân quyền của Ford trong một cuộc tranh luận trên truyền hình vào tháng 10 năm 1975, đặc biệt chỉ trích sự dửng dưng của ông này về vấn đề vi phạm Thỏa ước Helsinki [200] của Liên Xô. [201]

Trong cuộc tranh cử tổng thống Mỹ năm 1976, các nhà hoạt động nhân quyền đã thuyết phục thành công nhiều chính trị gia Mỹ rằng sự ủng hộ mù quáng dành cho Park có thể bẫy Hoa Kỳ rơi vào một cuộc chiến không mong muốn khác ở châu Á. Những đối thủ của Park lập luận rằng vì chế độ cai trị bằng sắc lệnh của ông đã gây bất ổn Hàn Quốc, nên ông đã tạo cho Triều Tiên cơ hội tấn công vũ trang. Một khi Triều Tiên xâm lược, Hoa Kỳ sẽ phải can thiệp vì vai trò “dây báo động” mà Sư đoàn Bộ binh 2, đóng gần khu vực phi quân sự hóa (và ở tuyến có thể quân xâm lược Triều Tiên sẽ sử dụng), đảm nhiệm. Mục sư James Sinnott của Dòng Maryknoll, người từng là nhà truyền đạo ở Hàn Quốc, đề nghị đặt điều kiện rút quân liên quan tới vấn đề nhân quyền và biến các khoản viện trợ tương lai thành có điều kiện tùy vào sự cải thiện tình hình này.

Bằng cách ủng hộ khía cạnh tự do-lý tưởng trong chính sách ngoại giao Mỹ, Carter tuyên bố rằng nhân quyền là “một chuẩn mực trong cộng đồng các quốc gia” và rằng sự ủng hộ nhân quyền của Hoa Kỳ như là một nguyên tắc đạo đức cho thấy “việc sử dụng sức mạnh và sức ảnh hưởng của người Mỹ”. Trong bài phát biểu nhậm chức, Carter tuyên bố rằng “vì chúng ta tự do nên chúng ta luôn khác biệt với số phận tự do ở nơi khác... [C]am kết nhân quyền của chúng ta phải là tuyệt đối.” Trong hồi ký của mình, Carter nhớ lại rằng “[là] Tổng thống, tôi hy vọng và tin tưởng rằng sự mở rộng nhân quyền có thể là làn sóng trong tương lai trên khắp thế giới, và tôi muốn Hoa Kỳ sẽ thành công trong phong trào này.” Theo cố vấn an ninh quốc gia Zbigniew Brzezinski, chính sách nhân quyền của Carter với mong muốn thực thi các vấn đề ngoại giao là phù hợp với các giá trị chính trị của Mỹ. Tuy nhiên, Brzezinski cũng xem chính sách nhân quyền là một công cụ thực dụng của bá quyền Mỹ có khả năng đối chọi với “thách thức ý thức hệ Xô-viết” và “định hình thế giới giống với các giá trị của Mỹ hơn và phù hợp với các lợi ích quốc gia của Mỹ hơn”.

Các đánh giá chiến lược của Carter

Ban đầu chính sách Hàn Quốc của Carter sử dụng vấn đề rút quân và nhân quyền để định hướng Park đi theo hướng phù hợp với các giá trị Mỹ và lợi ích Mỹ. Đứng đầu một đất nước vốn ủng hộ các giá trị dân chủ và sống sót nhờ sự hỗ trợ quân sự của Mỹ, Park nhận thấy áp lực kép này gây ra thiệt hại nặng nề cho chế độ chính trị của ông. Trong số hai cấu phần thuộc chính sách Hàn Quốc của Carter, cấu phần nhân quyền đòi hỏi Carter dành nhiều thời gian hơn để phát triển, trái lại quyết định rút quân Mỹ khỏi Hàn Quốc của ông gần như đã hình thành từ buổi lễ nhậm chức. Ngày 1 tháng 2 năm 1977, Phó Tổng thống Walter F. Mondale khẳng định trong một cuộc họp báo ở Tokyo rằng Hoa Kỳ rút dần bộ binh ở Hàn Quốc trong “tinh thần cố vấn và hợp tác gắn bó” với cả Nhật Bản và Hàn Quốc. Tiếp theo, trong một buổi phỏng vấn báo chí ngày 9 tháng 3, không lâu trước cuộc họp với Bộ trưởng Ngoại giao Hàn Quốc Park Tong-jin, Carter đơn phương công bố ý định rút toàn bộ bộ binh Mỹ khỏi Hàn Quốc trong vòng 4-5 năm. Trong cuộc họp với Park, Carter tập trung nhiều vào mối quan ngại vi phạm nhân quyền của ông hơn là vấn đề rút quân. Đối với Carter, chính sách rút quân là việc đã rồi mà Hàn Quốc phải chấp nhận. Tất cả những gì mà Bộ trưởng Park có thể đòi hỏi là quyền được tham vấn trước của Hàn Quốc trước khi bất kỳ quyết định nào về những chi tiết của hoạt động rút quân được đưa ra.

Kế hoạch rút quân của Carter dựa trên Biên bản Đánh giá Tổng thống 13 (PRM-13) do Brzezinski ký ngày 26 tháng 1 năm 1977. PRM-13 vẫn còn ở trong giai đoạn đầu của quá trình phác thảo chính thức bởi Hội đồng An ninh Quốc gia (NSC), nhưng quan điểm cốt lõi về việc thay đổi chính sách đã được quyết định. Tái khẳng định lời hứa tranh cử của mình, Carter làm rõ rằng nguyên tắc về việc rút quân sẽ không được chất vấn và nhiệm vụ của Ủy ban Đánh giá Chính sách (PRC) bị hạn chế ở việc vạch ra các chi tiết để thực thi cam kết tranh cử này của ông. Hơn nữa, PRC được chỉ đạo không “nghiên cứu các hậu quả của việc rút quân một phần hay toàn bộ”. Ngày 18 tháng 2, Carter chỉ đạo Brzezinski “nghiên cứu các mục tiêu và chiến lược quốc gia thay thế” được nêu trong một biên bản khác, PRM-10. Được phác thảo để hướng dẫn và đảm bảo tính linh động chiến lược của Hoa Kỳ, PRM-10 nghiên cứu việc rút quân khỏi Hàn Quốc cùng những vấn đề chủ chốt khác. Nghiên cứu Định vị Lực lượng PRM-10 cho thấy một góc nhìn tuy cẩn trọng nhưng nhìn chung là lạc quan về việc cắt giảm quân đội Mỹ ở Hàn Quốc, khuyến khích Carter tiếp tục lộ trình rút quân.

Chính sách rút quân của Carter được xem là một phần quan trọng trong chiến lược triệt thoái quân sự khu vực lớn hơn khỏi lục địa Đông Á. Nhìn nhận lạc quan về tình hình an ninh khu vực ở Đông Á, PRM-10 xác định mục tiêu chính của Hoa Kỳ ở khu vực này là duy trì hiện trạng giữa các cường quốc chứ không phải là ngăn chặn mối đe dọa từ chủ nghĩa cộng sản. Theo đó, vị thế phòng thủ của Mỹ đang chuyển dịch đến “vị thế quân sự xa bờ, từ đó tránh tham gia tự động” vào lục địa châu Á. Để cảnh báo về các xung đột song phương căng thẳng, PRM-10 chấp nhận vai trò thay đổi đáng kể của Hàn Quốc trong chính sách quân sự Mỹ, nhấn mạnh nhu cầu chiến lược của Hoa Kỳ là phải có được “sự linh động” trên Bán đảo Triều Tiên. Hơn nữa, trái với chính sách truyền thống là tổ chức đánh trả mạnh mẽ sau giai đoạn đầu nổi dậy chống trả Triều Tiên trong trường hợp chiến tranh, PRM-10 chủ yếu tập trung vào các biện pháp cần thiết để vô hiệu hóa đòn tấn công vũ trang ban đầu của Triều Tiên.

Sự chống đối của cộng đồng an ninh Mỹ

Tuy nhiên, sự chống đối chính sách rút quân của Carter vốn đã xuất hiện từ giai đoạn đầu của quá trình đánh giá các chính sách mới từ cộng đồng an ninh Mỹ. May mắn cho Park, sự ủng hộ chính sách rút quân của Carter ở Hoa Kỳ là không mạnh mẽ. Dựa vào quyết định PRM-10 và PRM-13, không có sự cố vấn của Hội đồng Tham mưu Trưởng Liên quân, Carter nhận ra nhiều người trong chính phủ chống đối chính sách Hàn Quốc của ông. Những người này bao gồm không chỉ Bộ Quốc phòng và ba binh chủng mà còn nhiều nhân sự ở Ủy ban Đánh giá Chính sách.

William H. Gleysteen, người được dự định sẽ trở thành đại sứ Mỹ ở Hàn Quốc giai đoạn 1978-1981, là một trong những quan chức như vậy, ông bị bất ngờ bởi chính sách rút quân của Carter. Là thành viên nòng cốt trong nhóm liên cơ quan đã chuẩn bị PRM-13, Gleysteen sau này nhớ lại rằng ở giai đoạn đầu hoạch định, hầu hết các quan chức trong nhóm đều phản đối kế hoạch của Carter. Rút quân là việc không bình thường ở Bộ Ngoại giao và đặc biệt hơn ở Bộ Quốc phòng, tuy nhiên lập trường kiên quyết của Carter về vấn đề này đã khiến bất kỳ tranh luận quan trọng nào vào giai đoạn đầu đó gần như là không thể.

Ngày 19 tháng 5 năm 1977, Thiếu tướng John K. Singlaub, Tham mưu trưởng của Lực lượng Mỹ ở Hàn Quốc (USFK) công khai chỉ trích chính sách rút quân của Carter trong một buổi phỏng vấn với tờ Washington Post, cảnh báo rằng chính sách này, nếu được thực thi, sẽ dẫn đến một cuộc chiến khác ở Bán đảo Triều Tiên. Mặc dù hành động của ông được xem là bất tuân công khai, nhưng Singlaub cảm thấy có lý do trong việc chống đối Carter khi có một báo cáo tái đánh giá của USFK về các tiềm lực quân sự đang gia tăng của Triều Tiên trong thời gian đó. Nói chung, Singlaub khẳng định rằng quyết định của Carter dựa trên những báo cáo tình báo cũ. Tổng thống triệu hồi Singlaub ngay lập tức, tuy nhiên hành động của Carter chỉ kích động sự chống đối hơn nữa, đặc biệt trong Quốc hội và quân đội. Ủy ban Quân đội Hạ viên phản hồi bằng cách tổ chức các buổi điều trần về sự kiện Singlaub 6 ngày sau, ngày 25 tháng 5.

Carter không bị ngăn cản. Ông ban hành Chỉ thị Tổng thống 12 ngày 25 tháng 5 lệnh phải rút một lữ đoàn (6.000 quân) cho đến năm 1978 và một lữ đoàn nữa trước tháng 6 năm 1980. Giai đoạn rút quân cuối cùng sẽ được xác định sau đó khi có tham vấn với Quốc hội và các nước đồng minh ở Đông Á. 12 ngày trước đó, Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân (JSC) khuyến nghị hoạt động cắt giảm quân bán phần và có lộ trình, theo đó 7.000 quân sẽ bị rút về tính đến năm 1982. Carter bác bỏ khuyến nghị này và ưu tiên kế hoạch rút quân nhanh của mình hơn khi ban hành Chỉ thị Tổng thống 12. Chỉ thị này được chuẩn bị đơn phương mà không hề tham vấn trước với Hàn Quốc. Hoa Kỳ sau đó giải thích quyết định của Carter là dựa trên sự tái đánh giá “cán cân quân sự, tiềm lực [Hàn Quốc] và bối cảnh quốc tế”, nhưng điều đó không làm giảm đi cảm giác bị phản bội của Park.

Phản ứng của Park

Để ngăn Park chống đối Chỉ thị Tổng thống 12, điều sẽ làm gia tăng lợi thế cho những đối thủ của Carter trong Quốc hội, Philip C. Habib, Thứ trưởng Ngoại giao phụ trách các vấn đề chính trị và Đại tướng George S. Brown, Chủ tịch JSC, được gửi đến Hàn Quốc tháng 5 năm 1977. Habib và Brown chuyển đi kế hoạch hoàn tất việc rút bộ binh USFK trong vòng 5 năm của Carter. Vì Park đã bày tỏ quan ngại của mình về sự tín nhiệm vào cam kết phòng thủ Hàn Quốc của Mỹ đang suy giảm trong bức thư gửi Carter ngày 26 tháng 2, Park chọn cách không đặt câu hỏi về sự khôn ngoan của chỉ thị này, tuy nhiên việc lựa chọn thời điểm trong quyết định của Carter khi thực hiện cam kết tranh cử năm 1976 là rất đáng lo ngại. Tinh thần của các tín hữu về chính sách của Park ở Nhà Xanh tồi tệ hơn rất nhiều so với thông điệp Park thể hiện trong cuộc gặp với Habib và Brown. Khi gặp riêng, các cố vấn an ninh quốc gia chủ chốt của Park phản đối quyết liệt chính sách rút quân của Carter, cảnh báo rằng chính sách này sẽ đặt liên minh an ninh Mỹ — Hàn vào một tình trạng bấp bênh. Ý thức được về quyết tâm của Carter với chính sách mới, Park tập trung vào hạn chế thiệt hại thay vì đảo ngược quyết định. Đối với Habin và Brown, sau khi giải thích vai trò quan trọng của USFK như là lực lượng phòng vệ chống lại Liên Xô và Triều Tiên, Park yêu cầu Hoa Kỳ tái khẳng định cam kết của nước ngày với Hiệp ước Phòng thủ Chung năm 1953 và tìm cách gia tăng các chương trình viện trợ quân sự để lấp lỗ trống tạo ra bởi việc rút bộ binh USFK. Bên cạnh đó, Park đề nghị Hoa Kỳ duy trì Bộ tư lệnh Sư đoàn Bộ binh 2 ở Hàn Quốc bất chấp việc rút các lữ đoàn của sư đoàn này, với mục tiêu cho thấy sự ủng hộ của Hoa Kỳ đối với hoạt động phòng thủ Hàn Quốc. Park cũng hy vọng về việc tiếp tục triển khai vũ khí hạt nhân chiến thuật ở Hàn Quốc.

Tại Cuộc họp Cố vấn An ninh Song phương Hằng năm Lần thứ 10 (SCM) ngày 16 tháng 7 năm 1977, hai đồng minh đồng thuận về các biện pháp bồi thường. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Harold Brown đã điều chỉnh lịch trình rút quân khi đối mặt với sự phản đối của Bộ trưởng Quốc phòng Hàn Quốc Seo Jong-cheol, hoãn việc rút hai lữ đoàn chiến đấu của Sư đoàn Bộ binh 2 từ năm 1978 đến năm 1981. Bên Hàn Quốc lập luận rằng việc rút các lữ đoàn này sẽ làm tổn hại nghiêm trọng đến khả năng phòng vệ nếu quân đội Hàn Quốc không được cho thêm thời gian để bắt kịp Triều Tiên và đảm nhận vai trò dây báo động trước đây mà quân Mỹ đảm nhận ở mặt trận phía tây. Là một biện pháp để bù đắp hệ quả từ việc rút quân của Mỹ, Seo Jong-cheol yêu cầu bán các máy bay chiến đấu tối tân cũng như thành lập Bộ tư lệnh Lực lượng Kết hợp (CFC) trước khi rút bộ binh USFK. Hoa Kỳ đồng ý khởi động CFC như là một đầu não tham chiến không chỉ để thỏa mãn mong muốn của Hàn Quốc về việc có được cam kết của Mỹ với hoạt động phòng thủ trước Triều Tiên trong thời kỳ rút quân bất ổn, mà cũng cho phép USFK tiếp tục duy trì quyền chỉ huy tác chiến lực lượng vũ trang hơn 600.000 quân của Hàn Quốc.

Để có được sự đồng thuận của Park, Hoa Kỳ đồng ý chương trình 1,9 tỷ đô-la Mỹ viện trợ quân sự bù đắp, bao gồm một khoản chuyển giao hệ thống vũ khí quân sự thuộc sở hữu của USFK (500 triệu đô-la Mỹ), khoản ủng hộ cho kế hoạch hiện đại hóa quân đội Hàn Quốc (300 triệu đô-la Mỹ) và khoản bán vũ khí quân sự (1,1 tỷ đô-la Mỹ). Park từ đó sử dụng việc rút quân Mỹ làm cơ hội để nâng cấp tiềm lực quân sự Hàn Quốc. Cũng có một thỏa thuận về tổ chức hoạt động quân sự chung hàng năm nhằm chuẩn bị cho quân đội hai nước liên minh trong hoạt động quân sự phối hợp trong trường hợp có chiến tranh. Từ các cuộc đàm phán, Park không chỉ có được thời gian chuẩn bị cho Hàn Quốc trước việc rút quân, mà còn xây dựng tổ chức (CFC) và phương tiện (các hệ thống vũ khí quân sự) để tăng cường liên minh Hàn - Mỹ.

Đối với Carter, mục tiêu chính là chấm dứt vai trò dây báo động của Sư đoàn Bộ binh 2, từ đó hạn chế nguy cơ bị bẫy vào một cuộc chiến không mong muốn ở lục địa châu Á. Theo Brzezinski khuyến nghị, Carter tập trung vào hợp tác chính trị và kinh tế với các nền dân chủ tiến bộ ở Tây Âu và Nhật Bản, hy sinh lợi ích với những nước phát triển muộn như Đài Loan, Hàn Quốc và Philippin.

Bất đồng về các vấn đề nhân quyền

Nửa sau trong chính sách Hàn Quốc của Carter, chủ nghĩa tích cực về nhân quyền, thừa hưởng trực tiếp hơn từ những hoạt động của quốc hội giữa những năm 1970. Như Bộ trưởng Ngoại giao Cyrus R. Vance từng công nhận, chính sách nhân quyền của Carter “đóng khung trong sự hợp tác và cố vấn với Quốc hội”. Xác định nhân quyền là nguyên tắc chính trong chính sách ngoại giao, Carter thay đổi đáng kể lập trường đặt an ninh lên hàng đầu và tiến đến chủ nghĩa tích cực về nhân quyền. Sự thay đổi này diễn ra được là nhờ vị thế thay đổi nhanh chóng của Hàn Quốc trong những tính toán chiến lược của Mỹ. Với việc rút quân, Carter có thể giải quyết vấn đề nhân quyền một cách nghiêm túc hơn mà không còn phải sợ những hệ quả địa chính trị bất lợi. Tuy nhiên, trớ trêu là việc rút quân cũng nâng cao vị thế của Park. Vì quyết tâm của Carter với việc hoàn thành lời hứa tranh cử là rút bộ binh, Park giảm đi động lực phải cân nhắc những quan ngại của Hàn Quốc về các vi phạm nhân quyền. Ngược lại, Park thẳng thừng tố cáo Carter can thiệp không chính đáng vào chính trị nội bộ Hàn Quốc.

Chính quyền Carter tạo ra một “Cục Nhân quyền” trong Bộ Ngoại giao và đặt nó dưới quyền lãnh đạo của Vụ trưởng phụ trách các vấn đề nhân quyền và nhân văn Patricia Derian. Cục mới này có lập trường theo chủ nghĩa tích cực, cục lập luận rằng “các điều kiện nhân quyền phải được đáp ứng trước khi viện trợ an ninh được gửi đi.” Đặc biệt trong năm đầu tiên Carter giữ chức, chính sách nhân quyền theo chủ nghĩa tích cực của ông gặp phải mâu thuẫn với các cục phụ trách vùng trong Bộ Ngoại giao cũng như Bộ Quốc phòng nên đã không thể tạo ra nhiều bước tiến. Nhóm Liên cơ quan về Nhân quyền và Viện trợ nước ngoài được thành lập để giải quyết các tranh cãi trong bộ máy quan liêu vào ngày 1 tháng 4 năm 1977 nhưng không có tác dụng. Nhóm liên cơ quan này được biết đến như là Nhóm Christopher, theo tên vị chủ tịch nhóm này, Phó bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Warren M. Christopher, và trở thành “vũ đài tranh luận”. Tuy nhiên, nhóm này không thành công trong việc thực hiện được sứ mệnh giải quyết các xung đột liên cơ quan về vị trí phù hợp của nhân quyền trong chính sách ngoại giao của Mỹ.

Trực tiếp gắn nhân quyền với chính sách an ninh quân sự là một phần quan trọng trong nghiên cứu theo hướng tự do về chính sách ngoại giao Mỹ ở các cuộc tranh luận Quốc hội. Một lần nữa, Fraser lãnh đạo nhóm tự do, ông lập luận rằng viện trợ quân sự cho Hàn Quốc cần được quyết định bởi những thực tiễn nhân quyền của chế độ yushin. Theo nghĩa này, Fraser là một người chỉ trích Carter, người ban đầu thúc đẩy rút quân mà không coi hành động này là một hình phạt dành cho các vi phạm nhân quyền của Park. PRM-13 của Carter có kêu gọi điều tra các vấn đề nhân quyền, nhưng trọng tâm trong các khuyến nghị chính sách của tài liệu này xem xét việc rút quân chỉ như một vấn đề an ninh. Theo Fraser, quan điểm này chính là vấn đề trong chính sách Hàn Quốc của Carter. Fraser khuyến khích Carter biến việc rút quân thành hành động có điều kiện, sẽ đảo ngược nếu tình hình nhân quyền được cải thiện. Đối với Fraser, việc loại bỏ bộ binh là lựa chọn cuối cùng sau khi mọi lựa chọn khác đều vô hiệu. Tuy nhiên đối lập với quan điểm của Fraser, Carter đã quyết định rút bộ binh USFK kể cả trước khi ban hành chính sách nhân quyền.

Việc kéo quân về được tiến hành đơn phương, ngăn cản bất kỳ cố gắng nào “sử dụng [vấn đề này] làm đòn bẩy để được nhượng bộ” về các vấn đề nhân quyền. Đối với các đối thủ chính trị của Carter ở Quốc hội, chính sách rút quân chỉ cho thấy ước muốn cứng nhắc nhằm thực hiện lời hứa tranh cử của ông vì rõ là không có yếu tố gấp gáp mang tính chiến lược nào để phải kéo quân về vội như vậy. Cũng không có yếu tố kinh tế nào liên quan đến việc giảm chi phí rút quân vì Hoa Kỳ vẫn phải chi trả cho việc hiện đại hóa quân sự của Hàn Quốc để có được sự đồng thuận của nước đồng minh châu Á. Không chỉ vậy, sự thiếu phối hợp giữa chính sách nhân quyền và chính sách an ninh đồng nghĩa với việc Hoa Kỳ mất đi cơ hội cải thiện tình hình nhân quyền. Khi chính quyền Carter biện minh cho chính sách rút quân của mình như là một thay đổi mang lại bởi tăng trưởng kinh tế của Hàn Quốc và giai đoạn xoa dịu sắp đến với Liên Xô và Trung Quốc, nhiều chuyên gia an ninh ở Quốc hội đã chứng minh sự cạnh tranh quân sự tiếp diễn giữa các cường quốc và cảnh báo về những thay đổi đột ngột trong chính sách ngoại giao Mỹ. [202] Mặc dù Quốc hội, thường được dẫn dắt bởi các Đảng viên Dân chủ chỉ trích Park, đã yêu cầu Carter dùng vấn đề rút quân để đổi lại những nhượng bộ nhân quyền của Park, nhưng Vance vẫn cảnh báo về việc sử dụng nguyên tắc nhân quyền khi tiến hành chính sách ngoại giao, khuyên Quốc hội “linh động và thực dụng khi giải quyết các trường hợp cụ thể có khả năng ảnh hưởng đến an ninh quốc gia [Mỹ].” Ông ủng hộ “linh động thay vì cứng nhắc trong việc tiến hành chính sách ngoại giao.”

Park không lay chuyển. Không chỉ ông tố cáo chính sách nhân quyền của Carter là can thiệp vào các sự vụ trong nước của Hàn Quốc, mà các trợ lý của ông còn chỉ trích chính sách này là đạo đức giả và bất hợp lý. Ở buổi lễ đón tiếp tại Nhà Xanh, Park khẳng định: “Sự bảo vệ và sự tồn tại của 36 triệu người dân [Nam] Triều Tiên [là] hình thức [bảo vệ] quyền tự do, nhân quyền và dân chủ cao nhất [có thể có].” Tuy vậy Park cũng nhượng bộ trước một số yêu cầu của Mỹ. Trái với việc bác bỏ sự tồn tại tù nhân chính trị trước đây, Park miễn cưỡng giải phóng 14 nhà bất đồng chính kiến hàng đầu ngày 17 tháng 7 năm 1977. Ông cũng trả tự do thêm 10 người bị bắt vì vận động công chúng chấm dứt hiến pháp yushin ngày 1 tháng 3 năm 1978 nhưng rồi lại chứng kiến họ tái tham gia vào lực lượng chaeya bất đồng chính kiến.

Chính sách nhân quyền của Carter do vậy vẫn là một chính sách không thỏa mãn được những nhà hoạt động nhân quyền cũng như những người ủng hộ an ninh. Bằng cách nhấn mạnh “động lực tích cực” thay vì các hình phạt tiêu cực như rút quân để trừng phạt “các chính phủ phạm tội vi phạm trầm trọng quyền con người”, các cố vấn chủ chốt của Carter vẫn xem nhân quyền là phụ so với “các tính toán quân sự, kinh tế và chiến lược”. Vance sau này nhớ lại rằng “với tầm quan trọng của Hàn Quốc đối với an ninh Nhật Bản và vị thế chính trị, quân sự [của Hoa Kỳ] ở Đông Á, [Hoa Kỳ] được đề nghị tiếp tục thúc đẩy cứng rắn vấn đề [nhân quyền], nhưng đừng gắn kết nó với viện trợ kinh tế và quân sự [của Mỹ].” Vance lập luận rằng quyết định rút bộ binh khỏi Hàn Quốc là một quyết định chiến lược cần phải được thực hiện dựa trên những tinh toán an ninh quân sự.

Một vũng lầy khác: Koreagate, 1976-1978

Cuộc điều tra Koreagate

Ngày 24 tháng 10 năm 1976, tờ Washington Post đưa tin về vụ vận động hành lang các đại biểu quốc hội bất hợp pháp của những người vận động hành lang Hàn Quốc, từ đó mở ra thứ mà báo chí gọi là “Koreagate”, giống như vụ bê bối Watergate dẫn đến sự từ chức của Tổng thống Richard Nixon. Được tờ Washington Post xác định là “những cáo buộc hối lộ đại biểu quốc hội chấn động nhất bị chính quyền liên bang điều tra”, đối tượng trung tâm của Koreagate là Park Dong-seon, một doanh nhân người Hàn và là một nhà vận động hành lang không đăng ký. [203] Báo chí trích nguồn FBI rằng nhiều quan chức chính phủ và đại biểu quốc hội Mỹ có trong danh sách hối lộ của Park Dong-seon vì lập trường thân Hàn Quốc của họ. Tờ New York Times hưởng ứng với một ước tính rằng khoảng 115 thành viên Quốc hội có thể dính líu đến Koreagate. Thượng nghị sĩ Howard H. Baker đưa ra một ước tính khác, khoản 50 đại biểu quốc hội là mục tiêu hối lộ của Park Dong-seon. Các cáo buộc này rất trầm trọng, khiến truyền thông Mỹ phải tiến hành truy tìm ngược về những người từng bị mua chuộc trong vòng gần 2 năm trở lại đó. Khỏi phải nói, quan hệ song phương giữa hai nước chịu thiệt hại từ đó.

Trong 24 tháng tiếp theo, Koreagate trở thành một bê bối chính trị lớn. Không chỉ Bộ Tư pháp mà cả các ủy ban đạo đức Hạ viện và Thượng viện cũng như Ủy ban Tổ chức và Phong trào Quốc tế Hạ viện cũng điều tra các nỗ lực có hệ thống của Hàn Quốc nhằm mua chuộc các đại biểu Quốc hội thông qua Park Dong-seon. Sau đó không lâu, các điều tra viên tập trung vào những người Hàn Quốc khác vì đã vận động hành lang phi pháp, bao gồm nguyên đại sứ Hàn Quốc tại Hoa Kỳ, Kim Tong-jo; một doanh nhân hoạt động ở Baltimore, Hancho C. Kim; Suzi Park Thomson, nguyên trợ lý cho Phát ngôn viên Hạ viện đã nghỉ hưu Carl B. Albert; và Park Bo-hui, phụ tá của Mun Seon-myeong ở Giáo hội Thống nhất.

Các cuộc điều tra được tiến hành bởi Tiểu ban Tổ chức Quốc tế của Fraser cuối cùng dẫn đến một đánh giá toàn diện về quan hệ Mỹ - Hàn. Trích từ các nguồn tình báo Mỹ, báo cáo của Fraser phát hiện Park bắt đầu tổ chức nhóm vận động hành lang Washington năm 1970, khi Nixon tuyên bố rút Sư đoàn Bộ binh 7 của Mỹ khỏi Hàn Quốc. Mục tiêu là xây dựng một nhóm vận động hành lang ở Washington có thể hoạt động để ngăn cản Hoa Kỳ tiến hành rút quân nhiều hơn trong tương lai và để có được viện trợ từ Mỹ trong quá trình hiện đại hóa quân đội Hàn Quốc. Khi Koreagate đổ bể, chế độ yushin sử dụng chiến lược bác bỏ mọi cáo buộc. Khi nguyên đại sứ William J. Porter công nhận những hành động nghe lén trong quá khứ của Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ ở Nhà Xanh để hỗ trợ tuyên bố của Hoa Kỳ rằng đó là bằng chứng để truy tìm mối quan hệ giữa hoạt động vận động hành lang Washington và Park Chung Hee, chế độ yushin cáo buộc Hoa Kỳ vi phạm chuẩn mực quốc tế về tôn trọng chủ quyền quốc gia. Những người ủng hộ yushin cũng gọi chính sách ngoại giao đạo đức của Carter là đạo dức giả vì sự can thiệp của Mỹ vào các vấn đề nội bộ của Hàn Quốc.

Báo cáo của Fraser kết luận rằng các nỗ lực vận động hành lang của Park Dong-seon là có tác dụng, nó đã thúc đẩy Quốc hội chấp thuận chương trình viện trợ quân sự 1,5 tỷ đô-la Mỹ cho Hàn Quốc trong các năm tài khóa 1971-1975. Thêm nữa, báo cáo cho biết từ năm 1972, đội vận động hành lang Washington của Park ngày càng phụ thuộc hơn vào KCIA để tiến hành vận động phi pháp. Không những vậy, ủy ban của Fraser cũng phát hiện ra rằng KCIA vốn đang đe dọa và uy hiếp những người Mỹ gốc Hàn chống yushin trước khi Koreagate nổ ra.

Trong tình hình các cuộc điều tra Quốc hội diễn ra rầm rộ về những vi phạm nhân quyền và hoạt động vận động hành lang Washington bất hợp pháp của chế độ yushin, thông tin nguyên giám đốc KCIA Kim Hyeong-wook sẽ làm chứng tại các buổi điều trần tại ủy ban của Fraser có vẻ cho thấy những nền tảng của chế độ yushin đang bị đe dọa. Kim từng là thành viên chủ chốt trong nhóm thân cận của Park, giữ chức giám đốc KCIA trong 6 năm (1963-1969), giai đoạn Park đưa ra những quyết định nền tảng định hình nên đặc trưng cho chế độ chính trị của ông, bao gồm việc gửi quân chiến đấu đến miền Nam Việt Nam (1965), bình thường hóa quan hệ với Nhật Bản (1969). Từ năm 1973, Kim ở trong tình trạng mà ông gọi là “lưu vong”. Bất chấp những cố gắng của chế độ yushin nhằm ngăn Kim Hyeong-wook làm chứng, thỉnh thoảng đe dọa và những lần khác là mời ông này làm đại sứ ở Mexico hoặc Brazil, nguyên giám đốc KCIA vẫn đứng trước ủy ban Fraser và nói rằng chính ông đã giúp Park Dong-seon có được giấy phép nhập khẩu gạo Mỹ siêu lợi nhuận ở Hàn Quốc để đổi lấy những nỗ lực vận động hành lang của Park Dong-seon cho Hàn Quốc ở Washington. Kim Hyeong-wook cũng tiết lộ rằng ông đã chuyển 3 triệu đô-la Mỹ đến các ngân hàng có trụ sở ở Mỹ cho Park Dong-seon như là “khoản cho vay” cho Câu lạc bộ George Town của ông ta hoạt động.