← Quay lại trang sách

Kết luận KỶ NGUYÊN HẬU PARK

Park Chung Hee mất ngày 26 tháng 10 năm 1979. Từ đó kết thúc kỷ nguyên phát triển của ông. Có phải vậy chăng? Với những thành công vĩ đại và thất bại tệ hại của ông, cùng phong cách lãnh đạo tuy vô cùng hiệu quả nhưng lại khét tiếng độc tài, rõ ràng là kể cả sau cái chết của ông, Park vẫn sống như một người hùng đồng thời cũng như một tội đồ trong chính trị Hàn Quốc. Trong ba thập niên sau cái chết của Park, ký ức về thời kỳ cầm quyền hào hùng và gây tranh cãi của ông vẫn còn cao ngất ở đất nước này. Ở giai đoạn có thể được gọi là “kỷ nguyên hậu Park”, các đồng minh và kẻ thù vẫn xác định phe mình và phe đối thủ bằng thái độ của họ đối với Park cùng hệ thống chính trị, kinh tế và những biện pháp cưỡng chế của ông. Các cấu trúc mà ông tạo ra lẫn các lực lượng ủng hộ cũng như chống đối ông đều vẫn hoạt động rất mạnh mẽ sau cái chết của ông. Bằng cách biến Park thành người hùng hoặc tội đồ và nhìn nhận sự lãnh đạo của ông là không thể hoặc có thể thay thế đối với sự tiến bộ của Hàn Quốc, các lực lượng bảo thủ và cấp tiến vào kỷ nguyên hậu Park mong muốn chính danh hóa quá khứ của họ, chiến thắng hiện tại và định hình tương lai. Hầu như mọi cuộc thảo luận về Park đều ẩn chứa sức mạnh từ hình ảnh của Park, dù tích cực hoặc tiêu cực. Sự tham gia sâu sắc của tất cả thành phần xã hội vào cuộc chiến “vì Park” và “chống Park” khiến việc phân tách cần thiết cho một cuộc thảo luận khách quan về việc ông là ai, ông làm gì và liệu tầm nhìn của ông có còn phù hợp với ngày nay không là điều bất khả thi.

Nỗ lực đạt đến một am hiểu chung cân bằng hơn về Park và vị trí của ông trong lịch sử chính trị Hàn Quốc đòi hỏi việc công nhận cả những thành công và thất bại của ông. Để làm được vậy, phải chấm dứt những khác biệt sâu sắc mà giới trí thức Hàn Quốc sử dụng rộng rãi giữa “kỷ nguyên hiện đại hóa” của Park và “toàn cầu hóa”, “dân chủ hóa” hậu Park nhằm cho phép một am hiểu chung ít khác biệt hơn về cách thức các thể chế trong kỷ nguyên Park tồn tại đồng thời được điều chỉnh sao cho phù hợp với nền dân chủ đang phát triển và nền kinh tế chính trị toàn cầu hóa. Để hiểu được di sản của Park đã được điều chỉnh và thay đổi như thế nào bởi những người ủng hộ và chống đối ông khi họ đối mặt với thách thức dân chủ hóa và toàn cầu hóa trong ba thập niên sau cái chết của ông, cần phải phân biệt chính trị cải cách sau thời Park ở ba chiều thể chế.

Thứ nhất, chương này sẽ tập trung vào các di sản của Park Chung Hee cho hệ thống kinh tế Hàn Quốc và hai thập niên cải cách của những người kế nhiệm ông nhằm kiềm chế bản chất cực kỳ bất ổn thông qua rất nhiều các chương trình tái cấu trúc. Tất cả những người kế nhiệm - dù quân sự hay dân sự, bảo thủ hay cấp tiến, sinh ra ở Gyeongsang hay Jeolla - đều xây dựng một hình ảnh cải cách nào đó, tái định hình nhà nước phát triển và các nhà công nghiệp chaebol của Hàn Quốc theo định hướng thân thiện với thị trường hơn và ít mang tính nhà nước chỉ huy hơn. Các nỗ lực đầy rủi ro của họ ở cải cách một phần tiếp diễn cho đến khi cuộc khủng hoảng khu vực châu Á hạ gục Hàn Quốc năm 1997. Chỉ khi đó giới cầm quyền chính trị nước này mới áp dụng chiến lược thay đổi toàn hệ thống. Tuy nhiên trớ trêu là điều này lại khiến bộ máy quan liêu nhà nước “Weber” của Hàn Quốc vốn thừa hưởng từ kỷ nguyên phát triển của Park loại bỏ các di sản khác trong các áp lực cấu trúc bùng phát và đổ vỡ từ nền kinh tế siêu tăng trưởng của Hàn Quốc. Kể cả khi đó, nhà nước hùng mạnh chỉ loại bỏ tinh thần chủ nghĩa phát triển. Biến đổi thành một nhà nước điều tiết, nhà nước tìm lại được các đỉnh cao chỉ huy trong nền kinh tế tự do mới vốn đã thay đổi nhiều của Hàn Quốc. Tương tự, các nhà công nghiệp chaebol loại bỏ “gen” bành trướng quá mức của họ, nhưng vẫn giữ lại đa phần các cấu trúc quản trị doanh nghiệp “đế chế”.

Thứ hai, hệ thống chính trị sau thời Park cũng tồn tại dưới cái bóng của Park. Trên thực tế, với vị thế chính trị yếu hơn trong nền chính trị Hàn Quốc, nhiều người kế nhiệm ông cuối cùng cũng sao chép chiến lược huy động bầu cử ba phần của Park: kích động chủ nghĩa địa phương, vận động ý thức hệ và chính trị tiền bạc. Chính trị địa phương chủ nghĩa, vốn đã lan tràn vào những năm cuối khi Park cầm quyền, chỉ trở nên tồi tệ hơn, với các địa phương nhỏ hơn phát triển chủ nghĩa địa phương “nhỏ” của chính họ để tách khỏi các khối cử tri lớn hơn. Chungcheong phá vỡ mối quan hệ với các cử tri Gyeongsang và trở thành một biến số thay đổi trong các cuộc bầu cử sau khi lãnh đạo theo chủ nghĩa địa phương của vùng này, Kim Jong-pil, mất hết hy vọng kế nhiệm tổng thống. Phe đối lập chính trị cũng chia rẽ thành phái Jeolla của Kim Dae-jung và phái Nam Gyeongsang của Kim Young-sam, rồi phát triển thành các đảng đối thủ khi quá trình dân chủ hóa diễn ra. Chính trị vận động ý thức hệ tương tự cũng leo thang suốt giai đoạn sau Park, nhưng với một cú ngoặt quan trọng. Cuộc cạnh tranh “trái-phải” mà Park phát động trong nỗ lực nhằm phi chính danh hóa các đối thủ của ông như lực lượng cánh tả đã biến thành một cuộc cạnh tranh bầu cử “cấp tiến-bảo thủ”. Các lực lượng cấp tiến, không ngừng tiến hóa và phân chia thành undonggwon (các nhà hoạt động chaeya), các lãnh đạo NGO và các chính trị gia đảng phái cùng lúc với quá trình dân chủ hóa, nhưng vẫn duy trì mục đích tồn tại của họ là một lực lượng chính trị có vai trò chuyển đổi được tổ chức một cách có đạo đức, đóng khung “chủ nghĩa cấp tiến” của họ bằng những niềm tin “chống Park”. Phe bảo thủ phản ứng bằng một hình ảnh đối nghịch, cá nhân hóa các lý tưởng hiện đại hóa của họ trong hình ảnh không ngừng được tái tạo, diễn dịch và hồi tưởng lại về Park. Công cụ thứ ba của huy động bầu cử, chính trị tiền bạc, cũng tồi tệ hơn cho đến khi hai cựu tổng thống bị truy tố tội nổi loạn quân sự, lật đổ quốc gia và tham nhũng năm 1995.

Ngược lại, hệ thống thứ ba về áp bức chính trị của Park Chung Hee, gồm có Cơ quan Tình báo Trung ương Hàn Quốc (KCIA), Văn phòng An ninh Tổng thống (PSS) và Bộ tư lệnh An ninh quân đội (ASC), bắt đầu sụp đổ sau bước đột phá chính trị năm 1987. Cơ quan an ninh vẫn lên kế hoạch, xử lý và giám sát các nhân tố chính trong chính sách của Hàn Quốc với Bình Nhưỡng, và thậm chí còn can thiệp vào chính trị trong nước như một cơ quan chiến lược, tuy nhiên nó gần như đã không còn vấy bẩn trong hoạt động chính trị cưỡng chế chọn lọc, đặc biệt từ thời tổng thống Roh Moo-hyun (2003-2008). Cũng như vậy, quân đội đã trở thành một lực lượng quốc phòng “hiện đại” như Park vốn hy vọng, dù đã từ bỏ một vai trò khác là bộ phận giám sát tính ổn định chế độ trong cuộc trừng trị Hanahoe của Kim Young-sam năm 1993.

Hệ thống kinh tế

Các thành công và thất bại cùng tồn tại song song không nơi đâu rõ rệt hơn ở lĩnh vực kinh tế. Park xây dựng hệ thống ngân hàng, cộng đồng doanh nghiệp và thị trường lao động Hàn Quốc với mục tiêu tối đa hóa tăng trưởng kinh tế. Xã hội hóa rủi ro và hiểm họa trong quá trình mở rộng doanh nghiệp đã cho phép Park đạt đến các mục tiêu tăng trưởng bằng mọi giá của mình. Khi các trợ lý cảnh báo về những xáo trộn kinh tế xã hội trầm trọng do chính sách công nghiệp mở rộng của ông gây nên, ông trả lời: “Hãy đẩy xã hội đến các giới hạn của nó khi các anh có thể.” Khi các cuộc đấu tranh chính trị lan rộng và tình trạng bạo động xã hội tồi tệ hơn, ông ngang ngược tuyên bố: “Hãy nhổ lên mộ tôi!” Ông không trốn tránh những mối nguy hiểm từ “hiện đại hóa phong cách Park”. Là một người biết lắng nghe hơn là một lãnh đạo thích phát biểu hống hách, Park luôn để cho các cố vấn của ông bày tỏ những hoài nghi và lo lắng của họ, tuy nhiên ông vẫn quyết định chọn chiến lược tăng trưởng bằng mọi giá đầy rủi ro.

Hệ thống kinh tế này vận hành như Park dự kiến, tăng trưởng với tốc độ hai con số trong hầu hết thời gian ông cầm quyền, nhưng như các cố vấn của ông cảnh báo, hệ thống cũng định kỳ bị tê liệt dưới các áp lực kiệt quệ về tài chính và tổ chức với chi phí xã hội cao. Đặc biệt, những đợt sụp đổ theo chu kỳ của tình trạng kiệt quệ tài chính và tổ chức lại tiến đến việc hạn chế các lựa chọn chính sách của ông và thậm chí đe dọa sự bền vững của chính hệ thống kinh tế. Tài trợ cho sự tăng trưởng doanh nghiệp chủ yếu thông qua các khoản cho vay nước ngoài được nhà nước bảo lãnh và các khoản cho vay ngân hàng do nhà nước điều phối, chaebol trở nên cực kỳ dễ tổn thương với tình trạng kiệt quệ tài chính trong các đợt suy thoái. Sự mỏng manh của họ cũng trở thành sự mỏng manh của Park, buộc ông phải đi đến những dự án công nghiệp thậm chí còn lớn hơn và nhiều khoản cho vay chính sách hơn để duy trì những chaebol đang sụp đổ trong các đợt suy thoái. Khi Park mất năm 1979 vào giữa một cuộc khủng hoảng thanh khoản - hiện tượng vốn đã trở thành một đặc trưng chung cho hệ thống kinh tế của ông từ cuối những năm 1960 - ông để lại lĩnh vực sản xuất với tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu cao đến mức khó tin 488%.

Tuy nhiên, từ những ván bài chính sách tưởng chừng như bất cẩn của Park cũng hình thành một nhóm các liên minh công nghiệp độc nhất trong các doanh nghiệp lớn của thế giới thứ ba. Trong khi hầu hết các nhà công nghiệp của thế giới thứ ba phát triển như là các công ty con và liên doanh của các tập đoàn đa quốc gia (MNC), mỗi chaebol tiến đến việc sở hữu thương hiệu quốc tế, mạng lưới cung cấp trong nước, năng lực công nghệ và cơ sở phân phối nước ngoài của riêng mình, thông qua đó mỗi chaebol cố gắng trang bị các năng lực độc lập để tạo ra tăng trưởng doanh nghiệp ở các lĩnh vực kinh doanh không quan hệ với nhau. Chaebol muốn trở thành các MNC dựa trên chính năng lực của mình. Trong quá trình mở rộng doanh nghiệp, đất nước này hằng năm gia tăng GDP hơn 8% theo giá trị thực. Điểm yếu là chu kỳ kinh doanh bùng phát và đổ vỡ rất rõ rệt đã gây bất ổn và phân cực mạnh mẽ xã hội dân sự Hàn Quốc.

Trên thực tế, chaebol thể hiện cả điểm mạnh và điểm yếu của hệ thống kinh tế xây dựng thời Park. Vấn đề trầm trọng nhất với cỗ máy xuất khẩu của Park nằm ở xu hướng hướng đến cuộc khủng hoảng tính thanh khoản khi thất bại thảm hại trong việc thiết kế một “chính sách thoát” khả thi cho các tập đoàn chaebol đang lung lay. Bằng cách buộc các ngân hàng quốc doanh ký bảo lãnh cho các khoản đầu tư và chấp nhận các rủi ro doanh nghiệp thông qua các khoản cho vay chính sách được trợ cấp, Park khuyến khích các tập đoàn chaebol trở nên liều lĩnh và đa dạng hóa vào những ngành công nghiệp không liên quan mà không có sự quản trị rủi ro tương xứng. Khi các khoản đầu tư được thực hiện bằng các khoản vay ngân hàng, chaebol bị đè nặng bởi cơ cấu nợ-vốn chủ sở hữu cực kỳ mạo hiểm, điều này lại ngăn cản những người quản lý-chủ sở hữu của các tập đoàn tái cấu trúc doanh nghiệp vì lo sợ mất quyền sở hữu và quản lý. Trái lại, chaebol yếu kém về tài chính lại càng tìm kiếm nhiều hơn bao giờ hết các khoản cho vay ngân hàng để tăng trưởng kinh doanh vì sợ rằng bất kỳ sự đình trệ nào trong doanh số kinh doanh của họ sẽ kích động một chiếc bẫy thanh khoản trong bối cảnh tỷ lệ nợ-vốn chủ sở hữu của họ cực kỳ cao. Tuy nhiên, khi gánh nhiều nợ hơn, họ đã tạo ra những mầm mống cho các cuộc khủng hoảng tài chính còn lớn hơn và kéo xã hội vào một chu kỳ bùng phát và đổ vỡ.

Chắc chắn rằng, Park đã có thể chọn cách đối phó với nguyên nhân gốc rễ của chu kỳ bùng phát và đổ vỡ tăng của Hàn Quốc bằng cách khiến các chaebol càng ý thức hơn được về các chi phí và bớt bất cẩn trong những tính toán rủi ro của họ. Ông đã có thể thành lập một hệ thống ngân hàng cho vay dựa trên dòng tiền khách quan của những đơn vị đi vay thay vì dựa trên hướng dẫn hành chính của các quan chức nhà nước, nhưng ông không làm, vì tái cấu trúc ngân hàng chắc hẳn sẽ đe dọa toàn bộ bộ máy tăng trưởng xuất khẩu của ông. Phương thuốc cho các ngân hàng chắc hẳn chỉ có tác dụng nếu Park trước đó đã hành động để đẩy mạnh hơn nữa những mối đe dọa phá sản của thị trường và hạ quy mô của các liên minh chaebol, điều sẽ đòi hỏi quy mô tái cấu trúc nợ và đợt cắt giảm việc làm khổng lồ. Hệ thống công đoàn công ty chắc hẳn cũng sẽ bị đe dọa vì công nhân vốn ngầm đồng ý từ bỏ quyền hành động tập thể của họ vì lời hứa đảm bảo việc làm và gia tăng lương lâu dài bằng cách không ngừng tạo ra siêu tăng trưởng kinh tế. Cắt giảm việc làm đe dọa đến thỏa thuận giai cấp ngầm này và chắc hẳn sẽ phá bỏ bất cứ ràng buộc nào mà lực lượng công nhân có thể đã chấp nhận khi đòi hỏi các quyền lợi chính trị và khi tăng cường các liên đoàn lao động trong ngành công nghiệp và toàn quốc gia.

Bên cạnh những rào cản cấu trúc chống lại cải cách toàn hệ thống này là tầm nhìn của Park về việc biến Hàn Quốc thành một Nhật Bản thứ hai với một đội quân các doanh nghiệp độc tôn trong cuộc đời ông. Mục tiêu này không ngừng khuyến khích Park chớp lấy thời cơ khi một mặt trận tăng trưởng kinh tế mới xuất hiện.

Ngoài ra còn có vấn đề khan hiếm vốn đầu tư, ban đầu vốn khiến Park phải đặt nền tảng cho chiến lược tăng trưởng dựa vào các khoản trợ cấp ngân hàng, các chaebol và chủ nghĩa công đoàn tầm công ty (chứ không phải tầm toàn ngành công nghiệp). Vì nguồn lực trong nước còn hạn chế, nên Park phải hướng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài không sớm thì muộn nếu ông đã thật sự quyết định tái cấu trúc chaebol theo một cách nào đó. Mặc dù vậy, gỡ bỏ các rào cản sẽ gây nên nhiều mối nguy hiểm chính trị cho Park. Các nhà đầu tư nước ngoài hẳn sẽ tái cấp vốn cho các doanh nghiệp và ngân hàng mất khả năng chi trả chỉ khi tình trạng thuê mướn thừa thãi có thể bị loại bỏ nhanh chóng và các dây chuyền sản xuất thừa thãi đóng cửa. Những nhà đầu tư như vậy cũng sẽ kêu gọi cải cách toàn bộ cấu trúc quản trị doanh nghiệp của Hàn Quốc, vì chỉ khi các sổ sách kế toán sạch sẽ và minh bạch, cổ đông đa số chịu trách nhiệm pháp lý, và tình trạng nắm giữ cổ phần chéo mù mịt giữa các công ty con chấm dứt thì ngân hàng mới có thể thiết lập hoạt động giám sát cẩn trọng lên những doanh nghiệp đi vay. Ngay cả với số ít các ngân hàng thương mại dưới sự kiểm soát của nước ngoài, Park hẳn đã nhận ra quyền tự quyết của ông về việc phân bổ tín dụng và chính sách công nghiệp nhanh chóng tụt giảm và các mối liên hệ cá nhân của ông với chaebol yếu đi. Để bù lại Park cố gắng kiềm chế những dư thừa trong bản chất mở rộng của nhà nước phát triển bằng cách áp đặt nhiều quy định hơn mỗi lần ông phải đối mặt với khủng hoảng ngân hàng trầm trọng.

Thay vì cải cách cấu trúc, Park phải dựa vào chiến lược “hợp lý hóa công nghiệp” để làm giảm nhiệt nền kinh tế quá nóng với các liệu pháp sốc như hạ giá ngoại hối, tăng lãi suất, tái cấu trúc nợ và kiểm soát lương, tuy nhiên đồng thời ông cũng sử dụng các biện pháp bảo vệ để ngăn cản các biện pháp này gây tan rã chaebol, nền móng vĩ mô của sự siêu tăng trưởng kinh tế Hàn Quốc. Để ngăn cản sự tan rã, ông buộc nhà nước phải môi giới, điều phối và trợ cấp cho các giao dịch hoán đổi [253] giữa các chaebol đối thủ cũng như buộc ngân hàng quốc doanh trợ cấp cho hoạt động tái cấu trúc nợ. Các giao dịch hoán đổi kinh doanh do nhà nước môi giới và trợ cấp được cho là một hình thức thay thế cho các hoạt động M&A (sáp nhập và mua lại) do thị trường dẫn dắt, hạn chế năng lực sản xuất dư thừa, giữ cho cấp giám đốc phải chịu trách nhiệm vì những sai lầm quản lý và giải quyết tình trạng kiệt quệ tài chính, nhưng không có sự lan rộng tình trạng phá sản doanh nghiệp. Tuy nhiên, không may là quá trình hợp lý hóa công nghiệp không bao giờ có thể trở thành một thay thế như vậy cho các hoạt động M&A do thị trường dẫn dắt, vì cơ chế của hoạt động hoán đổi kinh doanh do nhà nước môi giới và mua lại doanh nghiệp của quá trình hợp lý hóa được thiết kế như là một hành động giải cứu hơn là một biện pháp kỷ luật. Do đó, nó giúp chaebol che chắn 2-3 năm khó khăn nhưng không hề làm cho các tập đoàn này mạnh hơn về mặt tài chính. Ngược lại, chiến lược hợp lý hóa công nghiệp theo kiểu của Park khiến chaebol mắc sâu hơn vào chiếc bẫy hiểm họa đạo đức khi chúng càng đa dạng hóa và tập đoàn hóa với niềm tin rằng có thể trông cậy được vào sự giải cứu của nhà nước trong trường hợp có cú sốc cung hoặc cầu từ ngoài nước. Do đó, nhiệm vụ chấm dứt chu kỳ bùng phát và đổ vỡ ở tầm vĩ mô và kỷ luật hóa các hiểm họa đạo đức của các tập đoàn chaebol ở tầm vĩ mô mà không làm tê liệt các nguồn tăng trưởng đã bị đẩy cho những người kế nhiệm Park.

Tuy nhiên không may là tận cho đến khi cuộc khủng hoảng tài chính châu Á ập đến với Hàn Quốc năm 1997, những người kế nhiệm Park - dù độc tài hay dân chủ - đều như nhau bỏ qua lựa chọn thiết lập kỷ luật lên chaebol bằng một chính sách giải thoát đáng tin cậy dựa trên mối đe dọa phá sản của thị trường để tránh bước chuyển ngược trong chính sách công nghiệp và tài chính tổ chức làm bùng phát những thất bại to lớn của doanh nghiệp và ngân hàng. Cũng như Park, họ sử dụng các biện pháp phụ nhằm kiềm chế ham muốn của các tập đoàn chaebol đối với các khoản cho vay, và cũng như Park, họ thất bại, dù ở các mức độ khác nhau. Đã chứng khiến cuộc khủng hoảng đình/lạm phát năm 1979 lật đổ Park, Chun Doo-hwan (1980-1988) chấm dứt chu kỳ bùng phát và đổ vỡ ở tầm vĩ mô bằng cách chấm dứt hoạt động cho vay chính phủ dễ dãi và các chính sách tiền tệ khác, tuy nhiên ông thất bại ở các nhiệm vụ khác nhằm xóa bỏ hiểm họa đạo đức của các chaebol ở tầm vĩ mô vì ông đã sử dụng chiến lược hợp lý hóa công nghiệp của người tiền nhiệm do sợ bất ổn hệ thống. Năm 1981, làm theo Park trong chính sách công nghiệp, Chun Doo-hwan đã thấy được một số ít hoạt động hoán đổi kinh doanh giữa các tập đoàn chaebol hàng đầu của Hàn Quốc nhằm cắt giảm năng lực dư thừa và khuyến khích chuyên môn hóa, nhưng rồi chỉ nhận được một cuộc khủng hoảng thanh khoản khác đè nặng lên các chaebol nhỏ hơn và các tập đoàn xây dựng năm 1985, điều đó khiến ông phải xử lý bằng gói tiền cứu trợ khổng lồ. Nói cách khác, những phương pháp vận hành cũ tiếp diễn, dù với một thay đổi nhỏ nhưng quan trọng trong các ưu tiên chính sách. Chun tạo ra đặc quyền và lợi ích cho chaebol, nhưng ông cũng đảm bảo rằng các khoản trợ cấp này được thực hiện trong một khuôn khổ tổng thể của chính sách tiền tệ bảo thủ và, khi làm như vậy, ông đã loại bỏ các khoản trợ cấp khỏi mô hình tăng trưởng của người tiền nhiệm, vốn là một trong những nguyên nhân của tình trạng bất ổn hệ thống. Cải tiến chính sách mà ông tiến hành là một thay đổi trong mô hình tăng trưởng của Park, không phải là một cuộc cải tổ “tự do mới” căn bản ở các cấu trúc tài chính cũng như quản trị doanh nghiệp của Hàn Quốc.

Sự đột phá dân chủ vào tháng 6 năm 1987 không phải là động cơ cho bước chuyển ngược cần thiết. Trên thực tế, Roh Tae-woo (1988- 1993) vẫn còn đang trong mô hình chủ nghĩa trung ương tập quyền phát triển của Park và niềm tin ổn định tăng trưởng của Chun. Một loạt các chính sách công nghiệp Roh đề xuất là sự lặp lại chương trình kiềm chế của Park thay vì thiết lập kỷ luật cho chaebol. Mức trần lỏng mà Roh áp lên các khoản cho vay ngân hàng và hoạt động nắm giữ cổ phần chéo để ngăn cản các tập đoàn chaebol khỏi hoạt động xây dựng đế chế đầy rủi ro vốn đã khởi đầu vào năm 1984. Ý tưởng biến chaebol thành các tập đoàn công nghiệp “chuyên môn hóa” với 4-5 “mảng cốt lõi” của hoạt động sản xuất thông qua “giao dịch hoán đổi” các hoạt động kinh doanh “không liên quan” với các tập đoàn chaebol khác tương tự cũng có nguồn gốc từ chính sách năm 1985 của Chun rằng yêu cầu chaebol bán các hoạt động kinh doanh không liên quan của chúng trước khi tham gia vào một thị trường sản phẩm mới. Biện pháp đưa ra vào tháng 5 năm 1990 ngăn cấm các chaebol mua lại các mảnh đất lớn cũng như tham gia vào các ngành công nghiệp “không năng suất” cũng phỏng theo biện pháp vào tháng 9 năm 1980 của Chun. Roh có một giai đoạn ngắn cân nhắc “quan niệm công” cực đoan về đất năm 1991 để đặt trần sở hữu đất của các doanh nghiệp lớn, và áp thuế đặc biệt lên “thu nhập không kiếm được” [254] từ đầu cơ bất động sản, và để ra lệnh bán đất không dùng đến với lời đe dọa cắt giảm tín dụng, thanh tra thuế và trưng dụng, tuy nhiên thậm chí như vậy cũng không hàm ý về một sự chuyển dịch mô hình trong chính sách đối với chaebol. Quan niệm phổ biến về đất đai được đưa vào chính sách để kiềm giữ giá đất và chuyển vốn đầu tư vào những lĩnh vực kinh doanh có sản lượng cao hơn. Như vậy, chính sách này chỉ cho thấy việc tăng cường chính sách công nghiệp truyền thống nhằm buộc chaebol tập trung vào các hoạt động kinh doanh chính thay vì tìm kiếm các hình thức tổ chức kinh doanh thay thế.

Ý tưởng thay thế lời đe dọa thoái vốn cho các hoạt động hoán đổi kinh doanh do nhà nước môi giới, điều phối và trợ cấp tái xuất hiện dưới thời tổng thống Kim Young-sam (1993-1998) trong chính sách “chuyên môn hóa lĩnh vực” năm 1993. Theo chính sách này, mỗi tập đoàn chaebol hàng đầu chọn sáu hoặc bảy công ty liên kết hoạt động trong hai hoặc ba “lĩnh vực cốt lõi” như các doanh nghiệp độc tôn với thống nhất rằng nhà nước sẽ dỡ bỏ các quy định hạn chế về các khoản cho vay ngân hàng cho những công ty này để đổi lấy việc ngăn các tập đoàn phát hành những khoản bảo lãnh vay nợ mới cho các doanh nghiệp liên kết khác. Kết quả không đạt được gì ngoài chuyên môn hóa. Cũng như trong trường hợp chính sách doanh nghiệp chính của Roh năm 1991, chính sách công ty dẫn đầu của Kim Young-sam làm tồi tệ thêm những hiểm họa đạo đức và đẩy mạnh mở rộng công ty. Không những thế, vì nền kinh tế Hàn Quốc được tái phân loại từ 73 còn 15 lĩnh vực công nghiệp theo chính sách doanh nghiệp độc tôn, nên chaebol không gặp phải ràng buộc thật sự nào trong các lựa chọn mở rộng doanh nghiệp, vì quá trình đa dạng hóa hàng ngang và tích hợp hàng dọc trong các lĩnh vực lựa chọn về bản chất là sự chuyên môn hóa doanh nghiệp. Thậm chí chính sách chuyên môn hóa lỏng này cũng sụp đổ khi Tập đoàn Samsung vận động hành lang thành công vào tháng 12 năm 1994 để thành lập một nhà máy xe khách tổ hợp ở Busan - với nền tảng ủng hộ địa phương của Đảng Tự do Dân chủ cầm quyền lúc bấy giờ. Tổng thống chấp nhận sự tham gia của Samsung vào ngành ô tô với mục tiêu thắng cuộc bầu cử Quốc hội năm 1996, dù quyết định này đã làm sụp đổ giới hạn tối thiểu mà chính sách doanh nghiệp độc tôn của ông đã thiết lập cho việc tham gia vào các lĩnh vực không cốt lõi.

Chính cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, cùng với sự thắng cử chức tổng thống của Kim Dae-jung “cấp tiến” (1998-2003) mới buộc Hàn Quốc từ bỏ ý tưởng về các hoạt động hoán đổi kinh doanh do nhà nước môi giới, điều phối và trợ cấp của Park và để giải quyết nguyên nhân gốc rễ là sự chìm sâu của các tập đoàn chaebol vào các hiểm họa đạo đức bằng cách xem các cuộc cải cách tài chính, doanh nghiệp và lao động là các biện pháp tổ hợp tái cấu trúc hệ thống. Nhà nước giờ đây mang tư duy của nhà làm luật hơn là nhà hiện đại hóa và giám sát hoạt động tái đánh giá tài sản, phân loại và giãn nợ, bơm vào luồng vốn lưu động mới, cùng những thay đổi quyền quản lý và sở hữu trong cả các lĩnh vực tài chính và tổ chức theo một cách chỉ huy kinh tế đặc trưng của Hàn Quốc, xác định giới hạn trần 200% ở các tỷ lệ nợ-vốn chủ sở hữu cho chaebol vào tháng 2 năm 1998 thông qua định hướng hành chính. Đến tháng 7 năm 1999, 19 trong 30 ngân hàng thương mại ban đầu bị đóng cửa, 26 ngân hàng thương mại sáp nhập thành 12 thông qua M&A và thanh khoản, 18 các công ty đầu tư tín thác cải tiến còn 4, trong khi đó có thời kỳ chủ nghĩ tích cực về lập pháp phát triển các cơ chế thoát khỏi thị trường, gồm có một công ty quản lý tài sản công, các đạo luật phá sản, các thị trường M&A, các luật lệ an toàn và dỡ bỏ các mức trần pháp lý về sở hữu nước ngoài trong vốn chủ sở hữu, trái phiếu và các thị trường tiền tệ. Cuộc khủng hoảng hệ thống dai dẳng rốt cục cũng giải thể Daewoo và chia tách Tập đoàn Hyundai vào năm 2000, từ đó chôn vùi huyền thoại của Hàn Quốc về taema pulsa (doanh nghiệp lớn không bao giờ chết) cũng như hy vọng của giới chóp bu nhà nước về các chương trình hợp lý hóa doanh nghiệp an toàn hơn về mặt chính trị và được kiến thiết từ bộ máy quan liêu. Thất bại của hai chaebol lớn nhất Hàn Quốc thuyết phục những doanh nghiệp còn sống sót trở thành những chủ thể ý thức hơn về chi phí và nhỏ gọn hơn trong quá trình tăng trưởng kinh tế.

Nói cách khác, chính trị trong hoạt động tái cấu trúc của Kim Dae-jung không triệt tiêu được chaebol. Ngược lại, những doanh nghiệp sống sót từ tái cấu trúc nợ được cải tổ thành những chaebol với những mẫu hình hành vi mới. Cảnh tượng về những người anh em yếu ớt sụp đổ dưới các khoản nợ mất khả năng chi trả khổng lồ rõ ràng là dấu hiệu cho thấy Hàn Quốc đang bước vào một kỷ nguyên mới đầy can đảm, khi chaebol không thể dựa vào sự giải cứu của nhà nước khi trở nên kiệt quệ. Do đó, những doanh nghiệp tồn tại áp dụng những mẫu hình hành vi mới trong khi vẫn giữ lại nhiều đặc trưng tổ chức của chaebol về sở hữu gia đình, nắm giữ cổ phần chéo và cơ cấu ra quyết định theo kiểu đế chế. Chaebol mới bị ám ảnh bởi dòng tiền nhiều hơn là tăng trưởng doanh số, ít sẵn sàng chấp nhận các rủi ro cao hơn, cẩn trọng hơn với các mối đe dọa thâu tóm thù địch, trở nên nhỏ gọn hơn về cấu trúc, bảo thủ hơn về tài chính, cảnh giác hơn với việc tham gia thị trường, nhưng về mặt tổ chức vẫn tập trung xung quanh gia đình chủ sở hữu. Thay đổi hành vi không đâu rõ ràng hơn sự tích lũy lợi nhuận giữ lại khổng lồ của doanh nghiệp, khi doanh nghiệp thành công trong việc cắt giảm các khoản nợ xấu và thanh lý các hoạt động kinh doanh thua lỗ. Ngân hàng cũng thay đổi, nhưng không theo hướng của các mục tiêu chính sách. Trong khi nhà nước mong muốn hồi sinh các ngân hàng Hàn Quốc như là những nhà cấp vốn thật sự, tiến hành cho vay dựa trên đánh giá khách quan về dòng tiền tương lai của doanh nghiệp đi vay cũng như khả năng quản lý rủi ro của doanh nghiệp, các ngân hàng nổi lên từ cú sốc tái cấu trúc nợ lại né tránh rủi ro hơn là tính toán rủi ro cẩn thận. Họ khôi phục khả năng thanh toán tài chính sau một đợt bơm tiền công mạnh mẽ, nhưng do thiếu chuyên môn và kinh nghiệm quản lý rủi ro, họ tập trung vào các thị trường hộ gia đình tương đối an toàn của Hàn Quốc, lấy bất động sản làm tài sản thế chấp. Và với những biến đổi này của chaebol và ngân hàng, Hàn Quốc xóa bỏ các dạng thức hiểm họa đạo đức tồi tệ nhất nhưng cũng rời khỏi quỹ đạo siêu tăng trưởng.

Hệ thống chính trị

Trong gần ba thập niên sau cái chết của Park đã diễn ra các cuộc đấu tranh giữa một nhóm quý tộc chính trị muốn duy trì hệ thống chính trị mà Park đã tạo ra với những người quyết tâm tạo lập một đất nước dân chủ và cởi mở hơn. Khi hy vọng của phe đối lập về một chiến thắng sớm trước chế độ độc tài bị tiêu biến vào tháng 5 năm 1980, năm tiếp theo sau cái chết của Park, bằng cuộc đảo chính quân sự của Chun Doo-hwan, những người chống đối Chun - và từ đó cả Park - vẫn bất chấp điều đó để cố gắng xây dựng nền tảng ủng hộ và tận dụng các cơ hội. Chế độ của Park luôn là trung tâm của tranh cãi chính trị từ khi Park lật đổ Chang Myon, người được bầu lên dân chủ vào tháng 5 năm 1961. Cuộc tranh luận lại càng trở nên nóng hơn sau cái chết của Park.

Khi Park bị ám sát, lực lượng ủng hộ liên minh phát triển độc tài của Park trước tiên tập hợp lại dưới trướng Kim Jong-pil và sau tháng 5 năm 1980 là Chun Doo-hwan. Họ chi phối bối cảnh chính trị cho đến tháng 6 năm 1987 khi đột phá dân chủ chấm dứt một cách không thể cứu vãn khả năng độc quyền quyền lực chính trị của họ. Sự tồn tại những nhân vật chủ chốt trong thời của Park không có nghĩa là hệ thống cầm quyền chính trị và các mẫu hình tăng trưởng kinh tế sau năm 1979 không bị thay đổi bởi các lực lượng dân chủ hóa và toàn cầu hóa mạnh mẽ. Ba thập niên sau sự tiêu vong của Park, tinh thần cải cách đã lan rộng dần đến mọi ngõ ngách trong xã hội Hàn Quốc, và hệ quả đỉnh điểm không gì khác ngoài sự biến đổi hệ thống. Những nhân vật chính từ kỷ nguyên Park tồn tại được vì họ thích nghi với các lực lượng dân chủ hóa và toàn cầu hóa bằng cách áp dụng những ý tưởng mới, mở ra các liên kết mới với xã hội và thử nghiệm các hình thức tổ chức mới. Nhiều phái trong liên minh phát triển của Park tham gia vào cuộc chơi sáp nhập, chia tách và hợp tác đảng phái với các chính trị gia đối lập và giới bất đồng chính kiến chaeya nhằm tối đa hóa quyền lực của họ.

Trong quá trình biến đổi chính trị, các cuộc bầu cử trở thành “lựa chọn duy nhất”. Kể cả Park vốn cũng phải đối mặt với các cuộc bầu cử và để chiến thắng ông đã kết hợp chiến lược kích động chủ nghĩa địa phương, vận động ý thức hệ và chính trị tiền bạc làm nền tảng để xây dựng một liên minh cầm quyền rộng. Ban đầu chiến lược này cực kỳ có hiệu quả. Sau đó, Park phát triển quan hệ với giới quý tộc gắn kết cũng như quần chúng trung thành không lâu sau khi ông lên cầm quyền bằng cách ưu đãi cho những người đồng hương Gyeongsang. Nhằm kiểm soát quyền lực chặt chẽ hơn, Park lấp đầy các vị trí chính trị quan trọng chiến lược thông qua khả năng kiểm soát bầu cử, các quy trình lập pháp, lực lượng tình báo và quân đội của ông, chủ yếu bằng những người gốc vùng Gyeongsang. Thành phần địa phương của cộng đồng doanh nghiệp Hàn Quốc cũng thay đổi thấy rõ dưới thời Park khi ông kỳ thị chaebol phía bắc trong những năm chính quyền quân sự và chống lại chaebol Jeolla sau khi khôi phục chính trị bầu cử năm 1963. Với vốn đầu tư nước ngoài chảy vào ồ ạt sau năm 1963 và lãi suất cho vay hạ thấp hơn lãi suất huy động năm 1965, Park có công cụ hùng mạnh cần thiết để tái tổ chức cộng đồng doanh nghiệp xung quanh chaebol Gyeongsang. Các chaebol Ssangyong và Panbon, mỗi doanh nghiệp đều được thành lập bởi một người gốc Gyeongsang, nhanh chóng gia nhập bảng xếp hạng 10 chaebol hàng đầu của Hàn Quốc chỉ bốn năm sau cuộc đảo chính của Park, biến những người gốc Gyeongsang thành số đông trong nhóm quý tộc. Đến năm 1979, tất cả các chaebol miền bắc đều đã tụt khỏi danh sách này. Quan trọng không kém, chỉ một lần duy nhất vào năm 1965, một doanh nhân Jeolla có tên trong danh sách 10 nhà công nghiệp lớn nhất của Hàn Quốc. [255]

Bên cạnh đó, Park bổ sung thành phần quần chúng vào chiến lược liên minh chủ nghĩa địa phương của ông ngay từ đầu giai đoạn cầm quyền. Để xây dựng một khối cử tri ổn định cũng như khai thác các hiệu quả liên kết, ông chọn cách đặt vị trí các công xưởng và nhà máy của các ngành công nghiệp có liên quan vào một số ít các cụm công nghiệp gần gũi về mặt địa lý. Năm 1962, Park chọn Ulsan Mipo của tỉnh Bắc Gyeongsang làm trung tâm cho các ngành công nghiệp nặng và hóa chất chiến lược. Đến khi mất, Park đã xây dựng thêm 7 cụm công nghiệp quốc gia nữa, 4 trong số này đặt ở vùng Gyeongsang, trái với vùng Jeolla đối thủ chỉ có một, ở địa phận Yeocheon - Kwangyang của vùng này. [256] Trong số 4 cụm công nghiệp lớn nhất, tính theo số việc làm, 3 cụm đặt ở Gyeongsang. Bằng cách đặt các ngành công nghiệp có liên kết với nhau tại nhiều vị trí khác nhau trong chuỗi sản xuất ở gần nhau trong các vùng ven biển Gyeongsang phía đông nam Hàn Quốc, gần các nhà cung cấp, người tiêu dùng, nhà cấp giấy phép công nghệ và nhà đầu tư Nhật Bản, Park cũng tạo ra hiệu ứng hiệp lực gồm các mối quan hệ và liên kết liên quốc gia. Tại đó hình thành một mạng lưới dày đặc các hoạt động sản xuất xuyên biên giới, với các doanh nghiệp độc tôn của Nhật Bản thuê ngoài một số hoạt động kinh doanh cho các nhà thầu phụ, nhà cung cấp, nhà phân phối, hoặc nhà cấp dịch vụ Hàn Quốc rất giống với mô hình “đàn sếu bay” của hệ thống phân chia lao động khu vực và từ đó giúp ích cho công cuộc tìm kiếm thị trường xuất khẩu của Hàn Quốc. Tuy nhiên, bằng cách hậu thuẫn vùng Gyeongsang trong các cuộc tranh giành của nhóm quý tộc nội bộ cũng như quần chúng về các nguồn lực chính trị và kinh tế, Park gây thù địch với cử tri Jeolla nông thôn, do đó họ kết hợp với dân thành thị Seoul chống đối chế độ chính trị của ông, bắt đầu với các cuộc bầu cử tổng thống và Quốc hội năm 1967. Trục Jeolla-Seoul này phải tìm được cách bày tỏ ý kiến vào năm 1971 khi Kim Dae-jung của vùng Jeolla tham gia cuộc đua tổng thống với Park. Cử tri Jeolla thậm chí còn đoàn kết hơn để ủng hộ Kim Dae-jung sau sự kiện ông bị bắt cóc khỏi Tokyo bởi các đặc vụ KCIA năm 1974 và xem vấn đề của ông như là của chính họ.

Park càng phải phòng vệ hơn nữa khi vùng Gyeongsang cũng cho thấy những dấu hiệu chia rẽ nội bộ bởi các lực lượng chủ nghĩa địa phương “nhỏ”. Trớ trêu thay, đa số sự chia rẽ đều do những việc làm của Park. Chắc chắn, Kim Young-sam, sinh ra ở Keoje, một đảo gần Busan ở tỉnh Nam Gyeongsang, trở thành thủ lĩnh Đảng Dân chủ Mới (NDP) đối lập nhờ vào những thành tích của chính ông khi Yu Chin-san chết vào tháng 4 năm 1974; ông sử dụng ưu điểm này của mình để giành được phiếu bầu ở Busan, thành phố lớn thứ nhì của Hàn Quốc và theo truyền thống là đối thủ với Daegu, thành phố phía bắc Gyeongsang gần quê nhà của Park. Tuy nhiên, chính sự trấn áp chính trị của Park năm 1979 đã đánh thức chủ nghĩa địa phương nhỏ ở Busan và các phần khác của tỉnh Nam Gyeongsang, với Kim Young-sam là biểu tượng và phương tiện cho tham vọng của họ. Khi công nhân YH tổ chức một cuộc biểu tình ở tổng hành dinh NDP vào tháng 8 năm 1979, Kim Young-sam với vai trò chủ tịch đảng này sát cánh với công nhân theo những cách âm thầm, từ đó phát triển hình ảnh người bảo vệ quyền lợi của người lao động. Park đánh trả bằng cách vận động một lệnh tòa án nhằm đình chỉ các nhiệm vụ của Kim Young-sam như là chủ tịch NDP vào tháng 9, rồi chỉ đành chứng kiến Kim Young-sam đẩy cao thêm cuộc đấu tranh của ông với lời kêu gọi “thay đổi chế độ hòa bình” và gây áp lực buộc báo chí Hoa Kỳ chống lại chế độ yushin. Giống như cuộc bầu cử tổng thống năm 1971 và vụ bắt cóc Kim Dae-jung vào năm 1974 từ Tokyo, các sự kiện năm 1979 khiến tỉnh Nam Gyeongsang ủng hộ Kim Young-sam.

Từ đó hệ thống bầu cử theo chủ nghĩa địa phương cuối cùng đã chống lại Park bằng cách dẫn dắt mỗi địa phương chính hoặc địa phương cấp dưới của Hàn Quốc kết hợp quanh một lãnh đạo chính trị bản địa nào đó để cạnh tranh giành quyền lực tầm quốc gia. Tuy nhiên, mặc cho chủ nghĩa địa phương lan rộng, cần phải chú ý rằng khả năng kiểm soát chính trị đảng phái Hàn Quốc của chủ nghĩa địa phương khi đó không mạnh như sau khi chế độ yushin tiêu vong, và rằng chính các lựa chọn chính trị của những người kế nhiệm Park đã biến chủ nghĩa địa phương trở thành yếu tố phân biệt chính của chính trị đảng phái và nguyên tắc tổ chức trung tâm của các đảng phái chính trị Hàn Quốc. Vào năm 1978, dựa trên tâm lý chống đảng phái sâu sắc tràn lan khắp xã hội Hàn Quốc, các ứng viên độc lập giành được 28,1% số phiếu, tăng 9,5 điểm phần trăm từ cuộc bầu cử Quốc hội năm 1973.

Ở tỉnh Nam Jeolla quê hương của Kim Dae-jung và tỉnh Nam Gyeongsang gốc gác của Kim Young-sam, kết quả của các cuộc bầu cử Quốc hội năm 1978 tương phản với ý kiến phổ biến rằng đảng phái chính trị Hàn Quốc càng chịu ảnh hưởng không thể đánh bại mạnh hơn nữa của chủ nghĩa địa phương bởi sự kết thúc chế độ chính trị của Park. DRP giành 8 trong số 10 ghế đầu tiên ở tỉnh Nam Jeolla, còn NDP không có ghế nào trong số 9 ghế ở tỉnh Nam Gyeongsang. Không những thế, thực tế rằng Yi Cheol-sung của Chonju, Bắc Jeolla, đã cố gắng lãnh đạo NDP chấp nhận yushin của Park và theo đuổi hoạt động “cải cách thông qua tham gia” như là một “nhà gắn kết ôn hòa” từ tháng 9 năm 1976 đến tháng 5 năm 1979, đối lập với lập trường chaeya “cực đoan” đấu tranh dân chủ của Kim Dae-jung giúp chúng ta hiểu thêm về phần thưởng 4 trong số 12 ghế ở Quốc hội của tỉnh Bắc Jeolla dành cho NDP năm 1978 như là phiếu bầu cho Kim Dae-jung. Họ có khả năng cao là bầu cho Yi Cheol-sung không kém Kim Dae-jung. Nói cách khác, Kim Dae-jung và Kim Young-sam có được lòng trung thành không lay chuyển từ các địa phương tương ứng của họ chỉ sau khi Park mất năm 1979, hoặc, chính xác hơn, chỉ sau khi hành động đàn áp cuộc nổi dậy Dân chủ Kwangju của Chun Doo-hwan năm 1980 chia rẽ đến mức không thể phục hồi được Jeolla khỏi vùng Gyeongsang và ném các phần phía bắc và phía nam của vùng Gyeongsang vào mối thù hằn gia đình.

Chính những lãnh đạo thời kỳ sau Park đã nuôi dưỡng chủ nghĩa địa phương thành một nền tảng nguyên tắc để tổ chức chính trị ở Hàn Quốc. Các sự kiện bước ngoặt bi kịch và quan trọng nhất xảy ra năm 1980, khi Chun Doo-hwan lãnh đạo một cuộc đàn áp đẫm máu những người biểu tình chính trị ở Kwangju. Trước Cuộc nổi dậy Dân chủ Kwangju, cử tri Jeolla là những người cùng một nhà bị chia rẽ, một số ủng hộ Yi Cheol-sung “ôn hòa”, những người khác ủng hộ Kim Dae-jung “bất đồng chính kiến”, và vẫn có những người ủng hộ Park nhà hiện đại hóa. Sau cuộc thảm sát quân sự “đội quân công dân” đứng lên lần cuối ở tòa nhà thị chính của tỉnh Nam Jeolla ngày 27 tháng 5, cử tri ở cả các phần phía bắc và nam vùng Jeolla đồng lòng ủng hộ Kim Dae-jung như là hiện thân cho những hy vọng và nỗi thống khổ của Kwangju, cũng như các lý tưởng ý thức hệ cấp tiến. Sự thù hằn sâu sắc chống lại liên minh quân sự có nguồn gốc Gyeongsang của Chun Doo-hwan cũng lan sang văn hóa ngờ vực lẫn nhau giữa Kim Dae-jung với Kim Young-sam, khi Kim Dae-jung “cấp tiến” rời khỏi Đảng Dân chủ Hàn Quốc Mới của Kim Young Sam “bảo thủ ôn hòa” để phát động chiến dịch tranh cử tổng thống riêng rẽ vào năm 1987, kết quả của việc này là chiến thắng của Roh Tae-woo, người kế nhiệm được Chun Doo-hwan chọn, trong một cuộc tranh cử tổng thống bốn bên. Sau đó năm 1990, dưới khẩu hiệu thống nhất bảo thủ, Kim Young-sam sáp nhập các lực lượng của ông với những người thừa kế yushin độc tài và Đệ ngũ Cộng hòa (1980-1988) và các lãnh đạo địa phương của vùng Chungcheong và tỉnh Bắc Gyeongsang - lần lượt là Kim Jong-pil và Roh Tae-woo — nhằm cô lập Kim Dae-jung cấp tiến của Jeolla trong cuộc tranh cử tổng thống năm 1992. Sự chia rẽ và sáp nhập năm 1987 và 1990, lần lượt bị chỉ trích là hành động phản bội của Kim Young-sam và Kim Dae-jung, đã biến các tỉnh nhà của họ thành những đối thủ không thể tha thứ cho nhau.

Sau đột phá dân chủ năm 1987, chính sự kết hợp chủ nghĩa địa phương với xung đột ý thức hệ cấp tiến-bảo thủ đã tạo ra những đường nét và đặc điểm cơ bản cho chính trị đảng phái Hàn Quốc. Jeolla bầu cho Kim Dae-jung khoảng từ 83,5% đến 97,3% số phiếu của vùng này trong các cuộc bầu cử tổng thống trực tiếp sau năm 1987. Được cảnh báo về sự tập hợp của cử tri Jeolla quanh Kim Dae-jung, cử tri Busan và tỉnh Nam Gyeongsang cũng ủng hộ Kim Young-sam 53,7% số phiếu năm 1987 và 72,8% năm 1992. Tận đến khi Roh Moo-hyun của thế hệ sau chiến tranh đắc cử tổng thống năm 2002, chính trị đảng phái Hàn Quốc mới hoàn toàn bị chi phối bởi các chính trị gia có vị thế lãnh đạo được xây dựng hoặc bằng việc chống đối Park ở cương vị lãnh đạo các cuộc đấu tranh dân chủ trong trường hợp Kim Young-sam và Kam Dae-jung, hoặc bằng cách xây dựng hình ảnh một phó tướng tâm phúc của Park “nhà hiện đại hóa” trong trường hợp của Kim Jong-pil.

Sự kiên trì của chính trị đảng phái theo chủ nghĩa địa phương cũng phát triển thành di sản lâu bền của chính trị tiền bạc. Vì chủ nghĩa địa phương Hàn Quốc thiếu một tầm nhìn có kế hoạch, nên cả kỷ nguyên Park và sau Park bị cản trở trong việc xây dựng một hệ thống đảng phái chính trị mạnh dựa trên việc cân bằng thứ mà Angelo Panebianco có lần gọi là hai thành phần cần thiết cho hoạt động tổ chức đảng vững mạnh: “khuyến khích có chọn lọc” như quyền lực, uy tín hoặc tiền bạc để hấp dẫn giới quý tộc trở thành những đảng viên chuyên nghiệp; và “khuyến khích tập thể” hay ý thức hệ để có được sự ủng hộ quần chúng cho đảng chính trị từ đảng viên cấp dưới cũng như từ khối cử tri. Vì những khuyến khích tập thể không kéo dài đủ để cung cấp cho cuộc sửa đổi hiến pháp nhằm dọn đường cho nhiệm kỳ tổng thống thứ ba năm 1969 và cho sự cầm quyền suốt đời năm 1972, cùng với các ý thức hệ chiến tranh lạnh chống chủ nghĩa cộng sản của ông thất bại trong việc phát triển một tầm nhìn chủ động có hệ thống cho công chúng, Park Chung Hee ngày càng trông cậy không chỉ vào việc kích động chủ nghĩa địa phương và những nỗi sợ Đỏ theo chủ nghĩa McCarthy mà còn vào cả chính trị tiền bạc để xây dựng một bộ máy chính trị. Không có bất kỳ đảng viên cấp dưới nào thực sự sẵn sàng trả phí hàng năm cho một giá trị chính trị chung, DRP phải huy động tiền tranh cử từ các tập đoàn chaebol bằng cách hứa hẹn trợ cấp và đặc quyền giấy phép rồi sử dụng những nguồn tiền đó để thuê những người môi giới địa phương như là những nhân lực của chiến dịch tranh cử. Để giữ những người môi giới địa phương có năng lực bên mình giữa các cuộc bầu cử, DRP cũng phải duy trì các cơ sở đảng cấp quận huyện lớn trên cả nước với một số người môi giới địa phương trong biên chế. Từ đó hình thành một “chuỗi thức ăn” moki sasul, với các lãnh đạo đảng, tập đoàn chaebol và những người môi giới quyền lực địa phương nuôi dưỡng lẫn nhau để mua ảnh hưởng. Việc sử dụng “khuyến khích có chọn lọc” mang lại những hệ quả tiêu cực cho cơ cấu đạo đức của Hàn Quốc cũng như nền kinh tế nước này, phân tán các nguồn lực khan hiếm khỏi các hoạt động sản xuất ngay khi bộ máy xuất khẩu mở rộng quá mức gặp phải vấn đề về tính thanh khoản.

Trái với chính trị đảng phái theo chủ nghĩa địa phương chỉ tồi tệ hơn và sự huy động mang tính ý thức hệ biến thành các cuộc cạnh tranh cấp tiến-bảo thủ sau đột phá dân chủ năm 1987, chính trị tiền bạc ngày càng bị đẩy lui sau năm 1995. Kể cả trong thời Roh Tae-woo làm tổng thống, Quốc hội cải cách cũng đã cố gắng phát động chiến dịch đạo đức lớn chống lại chính trị tiền bạc bằng cách tổ chức các cuộc điều trần về các xâm phạm nhân quyền và tham nhũng trong thời cầm quyền của Chun Doo-hwan, tuy nhiên các cuộc điều trần cùng lắm cũng chỉ tạo ra những kết quả không rõ ràng. Lo ngại về tình trạng tê liệt chính trị và tác động của nó đến sự đình trệ kinh tế, nhưng cũng hài lòng với tổn thất chính trị gây ra cho Roh Tae-woo bằng việc hé lộ những vi phạm nhân quyền và tham nhũng được thực thi bởi Chun Doo-hwan, người thầy của Roh Tae-woo, phe đối lập để Chun Doo-hwan được tự do - nhưng với điều kiện ông phải trao lại mọi khoản quỹ chính trị còn lại và đi “lưu vong” tại một ngôi chùa Phật giáo hẻo lánh ở Solak trong hai năm. Tuy vậy, hai vấn đề vi phạm nhân quyền và tham nhũng không biến mất, kể cả sau khi Kim Young-sam, trong khả năng của vị tổng thống mới đắc cử, cách chức 11 thành viên Quốc hội có “thành tích đen” về tích lũy tài sản phi pháp và vi phạm nhân quyền; bắt giữ, buộc nghỉ hưu và sa thải 23 tướng lĩnh quân đội trong lực lượng chính quy hoặc dự bị vì những vai trò đáng ngờ trong cuộc nổi loạn quân sự năm 1979 và cuộc đảo chính năm 1980 của Chun Doo-hwan, hối lộ hoặc vi phạm nhân quyền; buộc tội 7 giám đốc doanh nghiệp vì những giao dịch đen tối; và xử tội hình sự 1 công tố viên nhà nước đã truy lùng những người bất đồng chính kiến từ thời yushin. Bước ngoặt diễn ra vào năm 1995, khi các quỹ đen do Roh Tae-woo cất giữ bị khám phá, buộc Kim Young-sam phải ra lệnh thực hiện một cuộc điều tra khác. Lần này, Trưởng công tố đã bắt giữ Roh Tae-woo sau khi hỏi cung khoảng 40 chủ sở hữu chaebol được xem như là “nguồn thông tin”, “đồng bọn” của ông và cũng buộc tội Chun Doo-hwan vì cuộc đảo chính quân sự năm 1980 cũng như vì đã tích lũy tài sản trái phép.

Dù vậy, bất chấp việc buộc tội Chun Doo-hwan và Roh Tae-woo, tiến triển diễn ra chậm chạp vì các đảng phái chính trị giai đoạn dân chủ sau năm 1987 vẫn còn đặt cơ sở tổ chức của họ dựa trên sự kích động của chủ nghĩa địa phương và những lý luận kém thuyết phục về ý thức hệ cấp tiến và dân chủ, không thể phát triển hơn giai đoạn đảng phái “nhóm tinh hoa ”. [257] Không có tầm nhìn ý thức hệ chặt chẽ cũng như một mạng lưới các liên kết có tổ chức với các lực lượng xã hội, các đảng chính trị sau năm 1987 sử dụng cuộc chơi chính trị tiền bạc cũ, dù theo những cách kín đáo hơn rất nhiều, nhằm duy trì mạng lưới dày đặc những nhà môi giới quyền lực địa phương và để vận hành các chiến dịch tranh cử không hệ thống tốn kém. Do đó, mặc cho các cuộc trừng trị hoạt động chính trị tiền bạc diễn ra rải rác, các đảng đã bị công chúng xa lánh vì là thủ phạm của các hoạt động chính trị xã hội làm xói mòn cấu trúc đạo đức mỏng manh của Hàn Quốc, làm suy yếu bộ máy xuất khẩu từng một thời năng động của nước này và ngăn cản sự tập trung của các nhà hoạch định chính sách vào chính sách bằng cách tạo ra những tình cảm định kiến địa phương chủ nghĩa và dân túy. Tuy nhiên, vì họ là các đảng chính trị mà về bản chất đảm nhận vai trò đưa cảm tình công chúng vào các mục tiêu, chương trình nghị sự và chiến lược cải cách đồng thời phát triển những ý tưởng hoặc các cuộc thảo luận chính trị hiện đại mà thông qua đó tập hợp những yêu cầu mâu thuẫn của xã hội, các đảng chính trị sau năm 1987 không ngừng được vận động để chấm dứt hoạt động chính trị kích động chủ nghĩa địa phương, rao giảng ý thức hệ và chính trị tiền bạc mà chính họ đang thực hành, đồng thời, trong quá trình thực hành đó, lại trở thành mục tiêu buộc tội của chính mình. Chắc chắn rằng, các đảng chính trị sau năm 1987 sống trong thời kỳ chuyển đổi, khi mà công việc vẫn được duy trì theo những cách thức kích động địa phương chủ nghĩa, định kiến ý thức hệ và chính trị tiền bạc cũ, nhưng lại bị đánh giá bởi tầm nhìn về nền dân chủ minh bạch và nhạy cảm, được vẽ ra một cách phi hệ thống nhưng lại mới mẻ đầy phấn khởi. Đến tận khi khoảng cách giữa hiện thực và lý tưởng này được loại bỏ, nhiều chính trị gia đảng phái sau năm 1987 đã được dự định sẽ phải thất bại trong kỷ nguyên dân chủ sau năm 1987, rất giống so với những người tiền nhiệm của họ thời trước năm 1987.

Hệ thống cưỡng chế

Hệ thống cưỡng chế chọn lọc là yếu tố rối loạn nhất trong ba hệ thống. Trên thực tế không chắc là hệ thống cưỡng chế có thật sự giúp được Park hay không, vì với mỗi một hành động cưỡng chế, ông tạo thêm một kẻ thù và làm suy yếu tính chính danh của mình. Tuy nhiên điều quan trọng là Park đã cho rằng KCIA là một trụ cột không thể thay thế trong chế độ chính trị của ông và hành động theo niềm tin này. Trong những năm chính quyền quân sự, Park yêu cầu KCIA tổ chức hoạt động thanh trừng các phe phái quân sự cạnh tranh ở phía bắc, dập tắt sự phản kháng của các nhà bất đồng chính kiến chaeya và các chính trị gia đối lập bằng các hoạt động phô trương sức mạnh, bí mật tổ chức DRP để chuẩn bị cho chính trị bầu cử. Vai trò cơ quan giám sát của KCIA tiếp tục vào thời Đệ tam Cộng hòa (1963-1972). Khi Park chuẩn bị cho nhiệm kỳ tổng thống thứ ba thông qua đợt sửa đổi hiến pháp năm 1969, KCIA hối lộ cả các nhà lập pháp đảng cầm quyền và đối lập để họ làm theo điều Park muốn. Cơ quan tình báo này cũng không ngần ngại khủng bố các lãnh đạo đảng phái khi cho rằng điều đó là cần thiết, như khi một số thành viên của phái chính thống Kim Jong-pil ngăn cản khát khao nhiệm kỳ thứ ba của Park vào năm 1969, khi chủ tịch tài chính DRP Kim Seong-gon ủng hộ các chính trị gia đối lập trong cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm chống lại các bộ trưởng nội các năm 1971, hay khi Kim Dae-jung đối mặt với thách thức về tính chính danh của chế độ yushin trong giai đoạn lưu vong năm 1973.

Tuy nhiên, sự kiềm chế thay vì sử dụng quyền lực thực sự là yếu tố chúng tỏ cho sức mạnh của KCIA. Cơ quan tình báo này lưu trữ các tài liệu phong phú về hoạt động của đảng phái, quân đội, doanh nghiệp Hàn Quốc và các lãnh đạo chaeya, kể cả tài sản, thói quen, báo cáo thuế và các nhóm thân hữu xã hội của họ, để kiểm soát đối thủ. Kể cả Kim Jong-pil cũng bị các đặc vụ KCIA lục soát nhà đến ba lần, để nhắc nhở về sự yếm thế của ông. Tác động của hoạt động giám sát ngầm đến giới quý tộc Hàn Quốc là rất to lớn. Ý thức được tầm bao phủ của cơ quan giám sát này lên cuộc sống của họ, các thành viên trong giới quý tộc luôn cân nhắc kỹ trước khi thách thức Park và thường ôn hòa hóa những chỉ trích về chế độ độc tài của họ với suy nghĩ rằng nếu họ làm thế, ông cũng sẽ không đe dọa các lợi ích thiết yếu của họ. Chỉ vào năm 1976, ba năm rưỡi sau khi khởi động chế độ yushin, chaeya cực đoan do Kim Dae-jung lãnh đạo đã công khai kêu gọi chấm dứt chế độ độc tài của Park. Đảng NDP, do Yi Cheol-sung “ôn hòa” và sau đó là Kim Young-sam “cải cách” đứng đầu, công khai ủng hộ lập trường chaeya giải tán yushin chỉ từ khi Park đe dọa loại bỏ luôn chủ nghĩa đa phương chính trị hạn chế ông vốn ban hành từ năm 1972 vào năm 1973. Thống nhất ngầm về các hạn chế “được phân định mờ nhạt một cách chính thức... nhưng thật ra tương đối dễ đoán biết” [258] về việc thực thi quyền lực được thiết lập giữa Park và những đối thủ của ông trước năm 1978 đã cho phép Park cô lập chaeya “ương ngạnh” khỏi các đối thủ NDP “ôn hòa” từ đó ông có thể đàn áp chaeya theo những cách không thể tha thứ. Việc phá vỡ thống nhất ngầm này, biểu hiện qua vụ trục xuất Kim Young-sam năm 1979 của đảng DRP khỏi Quốc hội, đã hợp nhất các chính trị gia NDP với chaeya trong việc đòi hỏi chấm dứt chế độ yushin.

KCIA càng tàn bạo hơn khi mục tiêu đàn áp không nằm trong giới quý tộc. Năm 1969, cơ quan này bắt giữ hơn 100 trí thức chaeya với cáo buộc vận hành một chi bộ cộng sản ngầm do Bình Nhưỡng tài trợ với t