← Quay lại trang sách

CHÚNG TÔI Ở CỒN CỎ (Trích)
⚝ I ⚝

Cồn Cỏ, hòn đảo nhỏ bé mà chúng tôi được vinh dự đem tất cả trí tuệ, mồ hôi và xương máu ra bảo vệ nổi lên ở ngoài khơi về phía bắc vĩ tuyến 17, xa đất liền trên hai mươi hải lý. Những ngày quang mây, đứng ở Vĩnh-Linh nhìn ra, người ta có thể nhìn thấy rõ một vệt xanh lam nổi lên ở đường chân trời. Có người nói: nom nó thật hệt một con hổ đang chồm trên mặt sóng. Nhưng cũng có người lại thấy giống như một chiến hạm đang neo ngoài biển lớn. Về phía chúng tôi, đứng trên bờ đá của đảo nhìn vào đất liền cũng có thể thấy vệt xanh sẫm của những rừng dương ở Cửa Tùng, và bãi cát trắng của Vĩnh-Linh; nom thấy cả một số nơi thuộc bờ Nam thân yêu của Tổ quốc, cùng với dải Trường Sơn màu tím nhạt, nhấp nhô chạy dài tít tắp đến tận cuối trời. Quê tôi ở Triệu Phong, bên kia giới tuyến. Đồng chí Chỉ, một cán bộ của đảo cũng cgia đình ở vùng đó. Cả hai chúng tôi vẫn thường gặp nhau ở bờ đá, trong những buổi chiều hòa bình, rỗi rãi trước đây cùng hướng vọng về phía Cùa, Ba Lòng mà ngồi hàng giờ lâu không muốn quay trở lại.

Đã có không ít đồng chí khi đặt chân tới Cồn Cỏ đều phải công nhận: "Mỗi phút đứng trên hòn đảo này là mỗi phút ruột gan mình như cháy bỏng lên trong niềm đau thương vì đất nước bị chia cắt. Mỗi phút đứng trên hòn đảo bốn bề sóng gió này là mỗi phút đầu óc mình phải thức tỉnh với một tinh thần cảnh giác và sẵn sàng chiến đấu thật mạnh mẽ".

Ở đây ngay từ buổi đầu tiên đặt chân lên đảo, tất cả chiến sĩ chúng tôi đều hiểu rằng: mình đã được Đảng và Quân đội phái tới một đồn tiền tiêu khá đặc biệt. Ở đây, biển cả bao la trước mặt chúng tôi đáng lý phải đem lại nhiều điều hứa hẹn tốt đẹp; nhưng chúng tôi đều thấy như nó chỉ sẽ đưa tới nhiều điều bất trắc. Cảm giác ấy quả không nhầm. Cũng ngay trong buổi đầu tiên ra đảo, từ phía đường chân trời xa đã thấy hiện ra hai mươi tàu biệt kích Mỹ. Chúng tiến lại và bao vây, uy hiếp đảo liên tiếp ba ngày, ba đêm liền. Sau đó là những chuyện bắt thuyền đánh cá của ta một cách trái phép, máy bay thám thính tới nhòm ngó, khiêu khích... đã diễn ra gần như liên tục.

Ở đây, cũng ngay trong đêm đầu tiên ngủ trên đảo lắng nghe qua tiếng sóng thấy khá rõ tiếng đại bác từ đồn Ba Dốc (ở bên kia giới tuyến) bắn về phía những làng mạc ở Gio Linh (cũng ở trong vùng tạm chiếm). Thế là suốt đêm ấy không sao ngủ được. Nhưng, sau đó ít lâu, chúng tôi lại mừng rỡ reo ầm lên vì nghe thấy có xen lẫn cả những tiếng liên thanh, mà chắc chắn đấy không phải chỉ là tiếng liên thanh của địch. Anh chị em ta ở trong ấy đã cầm súng đứng lên và ngày một trưởng thành... Đã một vài lần, trong những cơn bão lớn, một số thuyền "trong ấy" bị nạn. Chúng tôi đã cùng nhau cứu được tất cả bà con, cô bác. Và đó làng ngày thật đặc biệt ở trên đảo. Tất cả cán bộ, chiến sĩ chúng tôi đã cùng với bà con, cô bác chia sẻ mọi nỗi niềm tâm sự. Khi chia tay, cả hai bên đều nửa cười nửa khóc. Cười vì tin rằng ngày thắng lợi chung không còn xa lắm nữa. Khóc vì quá lưu luyến. Đã có người lấy một nắm đất trên đảo đem đi. - "Ôi, hình như đây mới thực sự là Đất nước của tôi! Các anh ơi, hiểu cho nỗi lòng của bà con ở trong ấy chứ?"

Có lẽ cũng vì thế, vì tất cả những đặc điểm nói trên, mà đời sống tinh thần và tình cảm của chúng tôi trên hòn đảo tiền tiêu đột xuất này luôn luôn như mặt biển nổi sóng, không một buổi nào yên. Trời, biển ở đây quả là không hề gợi lên một chút cảm giác nghỉ ngơi nào, mà trái lại luôn luôn như giục giã chúng tôi phải làm việc, làm việc gấp hai, gấp ba khi còn ở hậu phương của Tổ quốc.

⚝ ⚝ ⚝

Nhiều người cũng đã biết: Cồn Cỏ rất nhỏ, diện tích của nó không quá bốn cây số vuông. Nhỏ đến nỗi tưởng như con gà gáy to ở đầu đảo, cuối đảo cũng nghe thấy. Tuy nhiên, Cồn Cỏ không phải là một hòn đảo trơ trụi, không màu sắc. Dù nhỏ bé, Cồn Cỏ cũng có những vẻ riêng biệt của nó với những khu rừng đại ngàn, những ngọn đồi gianh rậm rạp lá cao gần lút đầu người, với những lớp san hô rất dày ăn lẫn vào đất, làm cho người ta có cảm giác: cả hòn đảo có lẽ là do những lớp san hô tự nghìn, triệu năm về trước đã kết tụ lại mà thành. Xung quanh đảo có những bờ đá đen, từng hòn từng tảng đồ sộ, sóng biển đánh lâu ngày đã nhẵn bóng như mài. Đứng ở những bờ đá đen ấy, lắng nghe tiếng sóng gầm, rồi trở vào rừng ngắm nhìn những cây đùng đình thân cao, vằn vèo như rắn, đầy những đốt, mọc bên những cây khoai đại lá to bằng nửa cái chiếu một, không mấy ai không có một cảm giác khá đặc biệt tưởng như đứng trước một bức tranh vẽ cảnh trái đất hồi còn nguyên thủy. Rừng Cồn Cỏ còn có một thứ cây khác mà anh em chúng tôi đặt tên là cây “dầu máu”. Mỗi khi bị sây sát, nhựa cây chảy ra đỏ như máu người. Dầu máu cao to, gỗ cứng và nặng, thân thẳng, vỏ nhẵn như vỏ ổi, nom thật giống những chàng trai lực lưỡng, đầy khí phách.

Ngoài những loại cây khá lạ ấy, Cồn Cỏ còn có rất nhiều rắn, thứ rắn lục nhỏ, cắn không chết người, nhưng cũng làm cho vết thương sưng vù lên hàng tuần lễ. Trong hầu khắp các khe đá, các khu rừng, đâu đâu cũng có thể nhìn thấy những con mắt nhỏ tí đen láy, man rợ của chúng nhòm ngó, rình mò... Hồi anh em chiến sĩ ta mới ra đảo, đã có đêm rắn bò vào ngủ cả với người.

Nhưng không phải Cồn Cỏ chỉ có những thứ cây và loài vật hoang dại ấy. Cồn Cỏ còn có cả những rừng bàng đến mùa thu vàng rực cả một vùng, nom thật đẹp mắt. Anh em chiến sĩ thường hái lá đem về nhuộm áo. Có cả những rừng giâu gia, đến mùa hè, từng chùm chín đỏ, trĩu cành. Anh em lấy về từng bọc đầy, ăn chán không hết. Động vật trên Cồn Cỏ cũng không phải chỉ có rắn lục, mà còn có rất nhiều cua đá, những chú cua rất to, mai bằng bàn tay một. Chúng ở khắp các hốc đá, đêm đêm thường bò ra ăn. Đem thùng, đem bồ đi bắt về có khi được hàng gánh nặng. Những chú cua ấy thường làm cho lũ rắn lục phải kiềng sợ vì đôi càng mạnh mẽ của chúng. Cho tới về sau này, những chú cua ấy đã trở thành một nguồn thực phẩm hầu như vô tận cho chúng tôi trong những ngày chiến đấu liên miên, ác liệt. Chúng cũng đã trở thành nguồn cảm hứng cho đồng chí Cừ - một cán bộ, đồng thời là một nhạc sĩ nghiệp dư của đảo - sáng tác nên bài "Con cá đua" (có nghĩa là con cua đá) được anh em chiến sĩ rất thích. Nói tới thực phẩm, cũng cần phải nói ngay tới hải sâm. Quanh đảo có rất nhiều thứ hải sản rất quý, rất bổ ấy. Trắng có, đen có, con nào cũng to bằng ngón chân cái, dài tới hai mươi phân. Ở các bờ đá còn có cả những chú ốc nón, cạo đem về luộc ăn rất ngọt. Đó là không nói tới rất iều thứ cá biển, mùa nào loại ấy, tha hồ mà chài, lưới. Có thứ cá chỉ riêng cái thủ, cả một phân đội ăn một bừa vẫn thừa...

Trên đảo còn có những loại chim quen thuộc ở đất liền và những loài chim rất dễ đánh bạn với người. Mùa hè, chim cu cườm gáy loạn rừng, làm cho nhiều chiến sĩ ta trưa trưa thường không ngủ được vì nghe tiếng chim lại chạnh nhớ đến quê nhà. Khi gió mùa đông bắc thổi, chim én thường bay về làm tổ. Những đêm mưa, nằm nghe tiếng én lào xào ngoài mái hiên, cứ tưởng như có người lạ đứng trú nhờ.

Và giống như nhiều nơi khác trên đất nước, Cồn Cỏ cũng có một lịch sử “riêng” của nó, tuy chưa được ai ghi lại đầy đủ, tỉ mỉ. Nghe nói ngày xưa, đời nhà Trần, cũng có người ra tới đây. Nhưng đó là những người tội phạm của triều đình vì đã "nổi loạn" hoặc "chống lại nhà vua". Cho tới thời Pháp thuộc, bọn thực dân cũng đã có một thời gian dùng Cồn Cỏ làm nơi an trí các nhà hoạt động chính trị yêu nước. Ra tới đảo, những lớp chiến sĩ đầu tiên của chúng tôi, đi sâu vào những khu rừng già, đã tìm thấy trên những thân cây dầu máu có khắc những dòng chữ: Việt Nam độc lập vạn tuế nét vẫn còn khá rõ. Khi ra tới bờ đá, nơi có thể nhìn vào trong đất liền, một chiến sĩ lại tìm thấy mấy chữ “Bến sầu” cũng khắc sâu vào trong đá. Chắc hẳn ở chốn này, khi xưa những người yêu nước của chúng ta vẫn thường ra ngồi để tưởng vọng về quê nhà với tất cả những niềm đau, nỗi nhớ. Ở một góc đảo còn có một ngôi miếu đã đổ nát, không rõ ai xây và xây dựng tự bao giờ. Ở dưới chân miếu có một cái giếng, cỏ đã mọc đầy; vét lên thấy hai chiếc sọ người cùng mấy chiếc xiềng đã gỉ nát. Ngoài ra, các chiến sĩ còn nhặt được một lưỡi kiếm to bản, dài tới tám mươi phân. Lưỡi kiếm ấy cũng đã hoen gỉ hoàn toàn... Những chiếc sọ ấy là sọ ai? Những chiếc xiềng kia đã trói chặt tay ai? Và lưỡi kiếm kia ai đã dùng? Tất cả chúng tôi không khỏi bồi hồi xúc động. Hôm nay ra đả chúng tôi không còn bị xiềng chặt như các người xưa kia nữa. Tổ quốc của chúng ta đã chiến thắng! Nhân dân ta đã chiến thắng! Hôm nay chúng tôi ra đảo với tư cách là những người chủ, những người đã chiến thắng. Và hôm nay chúng tôi ra đảo chẳng còn phải để “an trí” hoặc “phát vãng” mà chính là để biến cái nơi trước đây là nhà tù của phong kiến, đế quốc thành tiền đồn, thành pháo đài chống Mỹ, bảo vệ Tổ quốc.

⚝ ⚝ ⚝

Những lớp chiến sĩ đầu tiên ra đảo đã tốn biết bao công sức để cải tạo hòn đảo này. Có những quyển nhật ký của đơn vị và một số cá nhân để lại đảo, đã ghi lại biết bao chuyện gian nan trong những ngày đầu tiên khai phá. Nào mưa gió, bão bùng, nào những ngày hè nóng như thiêu như đốt, nào rắn, nào muỗi, nào đói, nào bệnh... nếu không thật hiểu sâu sắc ý nghĩa công việc mình làm, nếu không có một lòng yêu nước nồng nàn, có lẽ khó có ai có thể hăng hái mà vượt qua được bấy nhiêu trở lực.

Những mái ngói đỏ tươi đã lần lượt hiện lên cùng với những vườn hoa xinh xắn, những con đường ngang dọc, những sân bóng phẳng phiu, những chuồng chim, chuồng lợn, chuồng bò... cùng với những vườn rau xanh tốt, gần như quanh năm mùa nào thức ấy. Cuộc sống từ đất liền đã được san sẻ ra tới đây và mỗi ngày một thêm phát triển. Các chiến sĩ đã đặt tên cho nhiều khu vực ở trên đảo: khu Hà Nội, khu Hà Đông, Sơn Tây, khu Bến Tre, khu Sài Gòn, Huế... Và cái “Bến sầu” trước đây cũng đã có một tên mới thích hợp hơn: "Bến vui". Ở cái Bến vui ấy vào những buổi chiều, những đêm trăng, các chiến sĩ ta thường kéo ra rất đông. Cũng ngóng nhìn về đất liền, nhưng không phải là để rầu rĩ, xót thương, mà để ca hát, đàn sáo vui vẻ. Không phải bây giờ các chiến sĩ ta không biết nhớ quê nhà, nhưng chính vì hiểu được ý nghĩa vinh quang của nhiệm vụ mình ở nơi tiền tiêu anh em đã yêu đảo như một quê hương thứ hai của mình.

Lớp chiến sĩ vinh quang đầu tiên ra đảo kiến thiết đã trở về đất liền gần hết. Anh em chúng tôi hiện nay là những lớp người ra kế tiếp. Đội ngũ của chúng tôi rất trẻ, tuổi trung bình của chiến sĩ là mười chín, hai mươi, tâm hồn thật tươi sáng và tinh thần thật khỏe khoắn. Bất cứ ai ra đảo đều bị cuốn ngay vào cái không khí sinh hoạt, lao động, chiến đấu thật lạc quan và mạnh mẽ của anh em. Tiếng cười luôn luôn vang rộn. Chạy, nhảy, vật..., những chàng trai mười chín, đôi mươi ấy suốt ngày làm việc và nô đùa không biết mệt. Bác sĩ Lê, một cán bộ đã đứng tuổi, có phần hơi đạo mạo, khi ra đảo được ít ngày cũng đã phải "trẻ" lại với những chàng trai tinh nghịch và đầy sức sống ấy. Anh cũng xông vào các cuộc vui chơi, các công việc học tập, lao động, hăng hái không thua kém bất cứ một người nào...

Trình độ kiến thức của anh em giờ đây cũng khác với những lớp người đã lớn tuổi như chúng tôi hồi mới vào bộ đội trước đây. Còn nhớ, ngày đầu tiên ra đảo tôi gặp một chiến sĩ đang xoay trần hì hục đào đá ở một cửa hầm, mặt mũi rất chất phác nói một cách "văn vẻ" là: toàn thân cậu ta như còn toát ra mùi ruộng đất. Khi hỏi đã học tới lớp mấy, thì anh chỉ nhoẻn cười không đáp. Gặng mãi, anh mới nói thật là: "làm giáo viên cấp ba!". Và sau đó, khi đã quen nhau hơn, tôi mới hiểu rõ: anh rất mê những tác phẩm cổ điển cũng như hiện đại của các nhà văn, nhà thơ có tên tuổi trong và ngoài nước.

Một trường hợp khác: có bữa ngồi với mấy chiến sĩ thông tin, hóa học, cũng là những thanh niên nông thôn rất hồn nhiên, giản dị, chỉ một lúc sau, tôi đã được nghe anh em nói không những rất thông thạo về cách đặt dây khoai, hom mía, cách chọn lúa giống, cách ủ các loại phân chuồng, phân xanh; mà còn nói được khá dễ hiểu về các vấn đề viễn thông vũ trụ và nguyên tử... Lẽ cố nhiên không phải phần l anh em chiến sĩ trên đảo đều có trình độ văn hóa khá cả. Lớp 3, lớp 4 vẫn còn. Nhưng rõ ràng là tầm kiến thức của anh em không phải chỉ đóng khung trong những chương trình ở lớp học. Từ ngày xây dựng xã hội chủ nghĩa cho tới nay, toàn dân ta, trong đó có những anh em thanh niên này, đã được hấp thụ nhiều điều mới mẻ. Trí óc và tầm mắt của anh em đã được mở rộng ra không ngừng qua biết bao cuộc học tập chính trị, thời sự, và những cuộc tiếp xúc thưởng thức văn học, nghệ thuật trong nước ngoài nước. Anh em cũng thường được nghe phổ biến khoa học, kỹ thuật và được trải qua không ít cuộc vận động cải tiến quản lý kinh tế ở nông thôn cũng như ở thành phố. Vì thế, ở đảo có cả những thanh niên rất tài hoa, chẳng khác gì những nhà nghệ sĩ hoặc những kỹ thuật viên đã được đào tạo trong các nhà trường chuyên nghiệp.

Lê Ngọc Vân, cây súng máy cừ khôi nhưng đồng thời lại là một "nghệ sĩ nhào lộn có tiếng" của đảo. Trong buổi liên hoan nào mà Lê Ngọc Vân trình diễn tiết mục nhảy qua vòng lửa thì thật là rôm rả.

Pháo thủ Lâm Văn Hiếu, cũng một tay súng giỏi nhưng đồng thời lại là một nhạc sĩ nghiệp dư, một tổ viên đắc lực của câu lạc bộ đảo. Không một ai không mê cây sáo trúc và cây đàn bầu của anh. Đáng chú ý là cây đàn bầu ấy đã do chính bàn tay khéo léo của Hiếu tự chế lấy bằng các vỏ hộp đạn và cành tre nhặt nhạnh ở trên đảo. Bùi Thanh Phong, một chiến sĩ trẻ phơi phới tuổi thanh xuân, cũng là một pháo thủ giỏi đồng thời là một trung phong cứng của đội bóng thanh niên trên đảo. Phong lại còn là một người rất thích nuôi chó. Bầy chó ở trên đảo rất quyến luyến anh. Có một lần, trong một đêm mưa rét, con Sao Sa - một con chó cái rất mắn đẻ - càm về hai con chó nhách đã lả đi vì rét và đói. Bùi Thanh Phong thương chúng quá. Anh cùng với Đinh Kinh, một chiến sĩ ưu tú của đảo nhóm lửa sưởi rồi hì hụi nấu cháo cho chúng. Hai người đã thay nhau chăm sóc lũ chó nhách ấy cho đến khi chúng khỏe khoắn và lớn lên thư t

Nguyễn Văn Thiêm là một chiến sĩ quan trắc; nhưng với một tinh thần hăng say và óc tháo vát, anh đã tự động mày mò tìm hiểu, học cách sử dụng và sửa chữa được khá nhiều thứ vũ khí khác nhau; đến nỗi quân khí viên Nguyễn Đức Báu, một người về sau này đã nổi danh là "kỹ sư chưa qua trường học" đã phải ngạc nhiên và coi Thiêm như người thay thế số I của mình, mặc dầu Thiêm không hề ở tổ quân khí lấy một ngày.

Nghị, chiến sĩ bắn súng máy vào loại "cứng", có thể soi gương tự cắt tóc cho mình trông cũng khá gọn mắt. Với cái tài ấy, anh đã phục vụ rất đắc lực cho cả đơn vị. Ngoài ra, anh xạ thủ cao lớn, hiền lành đó được toàn đảo liệt vào hàng ngũ những cây đơn ca và ngâm thơ có nhiều triển vọng. Phương, Tràng, Bường... các chiến sĩ thông tin, mỗi anh cũng đều có một "tài mọn". Tràng chơi đàn, Phương vẽ, Bường hát. Cả ba cũng đã đóng góp tích cực trong công tác câu lạc bộ chung của chúng tôi.

Còn có thể kể ra đây nhiều người hơn nữa, vì hầu như tất cả cán bộ, chiến sĩ trên đảo người nào cũng có những nét đặc sắc riêng trong cá tính, tâm hồn và những khả năng phong phú, chỉ có khác ở người này những sắc thái và khả năng ấy bộc lộ ra rất dễ nhận thấy, còn ở người khác thì tất cả những cái đó lại lẩn kín vào bên trong, chỉ có lúc nào đó mới phát lộ ra, và khi ấy mới thấy rằng: các chiến sĩ ta, cán bộ ta quả là ai ai cũng đều tết đẹp như hoa mùa xuân, tất cả đều xứng đáng là những người con yêu quý của Tổ quốc, của Đảng.

Tâm hồn, trình độ, nói chung gần nhau như vậy, thêm nữa lại cùng chung nhiệm vụ ở trên hòn đảo tiền tiêu đột xuất này, cho nên tất cả chúng tôi đều rất thân nhau, yêu quý nhau vô hạn. Nói một cách khác: nhiệm vụ đặc biệt, trên hòn đảo tiền tiêu này, cùng với tất cả những sự gần gũi về tâm hồn, cá tính, trình độ, đã gắn chặt chúng tôi lại một tập thể keo sơn trong một mối tình đồng đội, đồng chí thiêng liêng chẳng khác gì một tập thể thủy thủ trên một con tàu biển. Chúng tôi biết: mỗi người chúng tôi là một thành viên không thể thiếu trong cái tập thể được tổ chức rất chặt chẽ này. Ở đây, chúng tôi phải cánh sát cánh với nhau và thương yêu nhau, tin tưởng nhau hơn lúc nào hết; có như thế chúng tôi mới có thể đứng vừng ở nơi "đầu sóng ngọn gió", và mới có thể chiến thắng được mọi kẻ thù.

⚝ II ⚝

Ngày 5 tháng 8. Một ngày không sao quên của nhân dân toàn quốc ta; Bọn Mỹ đã ngang nhiên dùng không quân đánh phá một số địa điểm của miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Cuộc chiến tranh trên phạm vi toàn quốc cũng coi như bắt đầu từ đấy. Ở Cồn Cỏ, chúng tôi đã sống trong tháng ngày thật sôi sục. Tập họp dưới ngọn cờ, tất cả anh em chúng tôi cùng thét lên át cả tiếng sóng biển: "Đả đảo đế quốc Mỹ xâm lược!", “Phải trừng trị đích đáng bọn Mỹ xâm lược!” Chúng tôi gửi về đất liền lời chào mừng những chiến công đầu oanh hệt của Quảng Ninh, Lạch Trường, Bến Thủy, sông Gianh... chào mừng riêng chiến công vẻ vang của các bạn hải quân Việt Nam trẻ tuổi anh hùng.

Ngày 5 tháng 8! Không sao quên được! Những trái bom của giặc Mỹ và tay sai đã trút xuống. Những làn khói đen đã cuồn cuộn bốc lên cùng với những đám cháy ở nơi này nơi khác. Bầu trời hòa bình của miền Bắc xã hội chủ nghĩa bắt đầu nhuốm khói lửa từ hôm ấy. Lịch sử đã mở sang một trang mới. Trên đảo, Đảng ủy nhóm họp và đã nói cho các cán bộ, chiến sĩ rõ: Từ hôm nay chúng ta bắt đầu chuyển sang thời kỳ chiến đấu thực sự. ..

Những ngày hòa bình ở miền Bắc thế là đã chấm d

Lệnh báo động được ban bố. Toàn đảo chuẩn bị gấp rút mọi mặt, nhất là về mặt hầm hố, công sự và sơ tán đội hình . ..

Hàng năm, cứ đến ngày mồng 8 tháng 8 là chúng tôi mở hội. "Ngày sinh của đảo". Năm nay, vì đất nước đã có ngày mồng 5 tháng 8, nên, mặc dầu vẫn chuẩn bị liên hoan như thường lệ, chúng tôi vẫn sẵn sàng chiến đấu. Nhưng có điều đặc biệt là trong ngày kỷ niệm long trọng này, thâm tâm từng người chúng tôi ai ai cũng muốn, nếu bọn Mỹ dẫn xác tới đây, quyết sẽ đánh cho chúng rơi rụng tơi bời, lập thành tích để vừa ăn mừng đảo, vừa góp phần trả thù cho đồng bào trong đất liền.

Thật là "cầu được ước thấy". Đúng buổi sáng hôm đó máy bay của bọn Mỹ kéo tới, cứ hai chiếc một, lượn vòng quanh đảo, hết ngoài xa lại vào gần, chúng có ý muốn thăm dò "gân cốt" của Cồn Cỏ.

Tiếng động cơ phản lực rú hét liên hồi như "loa như quỷ". Nhưng không có một ai hoảng sợ trước cái thuật "tác động tinh thần" của chúng.

Những nòng pháo quay loang loáng dưới ánh nắng chói chang.

– Trời! Tụi nó dát như cáy thế kìa! Vào đi! Vào nữa đi xem nào! - Những anh chiến sĩ bồng bột, nóng nảy đều kêu lên, làm cho những đồng chí chỉ huy phải ra lệnh "Im lặng để theo dõi địch".

Đếm tới vòng thứ mười một, chiến sĩ Ngụ đã nản:

– Thôi, thế là có lẽ chúng chỉ tới biểu diễn để chào mừng sinh nhật đảo rồi về cũng lên!

Nhưng không, tiếp đến vòng sau, hai chiếc phản lực bắt đầu lao vào sát đảo, rất thấp, chỉ trên nghìn mét. Lập tức, khẩu đội của Ngụ cùng các khẩu đội bạn nổ vang. Từng bó lửa đạn tung vút lên không, phóng rất trúng vào đầu chiếc phản lực thứ nhất. Tất cả mọi việc chỉ xảy ra trong chớp mắt. Chiếc máy bay kẻ cướp ấy bốc cháy, lảo đảo quay ngoắt trở ra. Nó bay xa dần, kéo theo sau một dải khói đen kịt, rồi như một con muỗi mắt, nó rơi tụt xuống biển cách đảo trên mười hải lý. Chiếc phản lực thứ hai không dám đánh nữa. Nó bay đuổi theo chiếc máy bay bị cháy rồi cứ lượn vòng mãi ở nơi tên bạn của nó vừa đâm đầu xuống.

Ngay chiều hôm ấy, điện từ trong đất liền gửi ra cho biết: Bộ Tổng tư lệnh đã quyết định tặng thưởng cho Cồn Cỏ Huân chương Chiến công hạng nhất, đồng thời trung đoàn, Quân khu cũng đã đề nghị lên trên xét duyệt cho Cồn Cỏ danh hiệu “Đơn vị quyết thắng”. Toàn đảo tưng bừng, phấn khởi. Đồng chí chính trị viên lập tức thành lập một đội múa lân và cho anh em ráo riết tập văn nghệ để đón Huân chương. Những “nhân vật tài hoa” trên đảo lại được dịp trổ hết khả năng để trang hoàng doanh trại, làm bích báo, vẽ đầu lân, huấn luyện bài hát mới, dựng hoạt cảnh...

Nhưng, rồi cái chương trình vui ấy không có dịp nào thực hiện được nữa, vì ngày hôm sau, bọn Mỹ không ngừng cho tàu chiến tới bao vây, uy hiếp. Đêm nào cũng nghe thấy tiếng máy rù rù ở ngoài xa. Rồi những ánh đèn lấp lóe lúc ẩn lúc hiện ở trên những lớp sóng cồn cào, đen sẫm.

Công việc chiến đấu của chúng tôi do đó càng thêm khẩn trương hơn. Trước đây cũng đã có cuộc vận động thanh niên xây dựng "chi đoàn thép". Sau đó Đảng uỷ đảo phát động tiếp một đợt thi đua giành danh hiệu "chiến sĩ 5-8", "đơn vị 5-8". Sang cuối tháng 10, một phong trào mới lại được đề ra: Phong trào "Giành danh hiệu đoàn viên Nguyễn Văn Trỗi". Nội dung chủ yếu của cácng là tăng cường củng cố công sự, trận địa, mài sắc tinh thần cảnh giác, chuẩn bị đầy đủ để sẵn sàng có thể chiến đấu bất cứ ngày đêm, bất cứ với lực lượng nào của quân thù.

Mọi chủ trương của Đảng bộ đã thấm sâu dần xuống anh em chiến sĩ và đã trở thành những sức mạnh vật chất thật sự. Những con số thi nhau nhảy lên vùn vụt. Những kỷ lục luôn luôn bị phá vỡ. Có chiến sĩ trước đây mỗi ngày chỉ đào được ngót một mét khối đất hoặc hơn thế chút ít, nhưng trong đợt thi đua mới, chính những chiến sĩ ấy đã nêu lên những kỷ lục không nhỏ: tám mét khối trong ngày. Người đào kém nhất trong đơn vị cũng đạt sáu mét khối. Khẩu hiệu “đổ mồ hôi đỡ tốn máu” được lan rộng trên khắp các khu vực, các trận địa. Các chi đoàn, với cái nếp quen thuộc cũ, luôn luôn mở những cuộc tranh luận sôi nổi trên diễn đàn về các biện pháp nâng cao năng suất, và việc tổ chức chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu sao cho thật tốt để tiêu diệt máy bay Mỹ nhanh hơn, gọn hơn và nhiều hơn trận mồng 8 tháng 8.

Bước sang tháng 11, ở đất liền đã chớm lạnh, nhưng ở đây biển vẫn giữ được hơi ẩm. Công việc chuẩn bị chiến đấu của chúng tôi vẫn tiếp tục tiến hành với một nhịp điệu đều đặn, và những nếp sống mới mẻ trong chiến đấu trên đảo đã trở nên bình thường. Chúng tôi đã quá quen với những chuyện tàu địch rình mò, hăm dọa...

Buổi chiều ngày 25, đồng chí Chỉ, như thường lệ, đi kiểm tra các kho gạo, thấy có chuột bèn dắt bầy chó đi. Bầy chó đã được huấn luyện, tinh khôn như chó săn. Chỉ một lúc sau, đồng chí đã trở về vui vẻ tuyên bố: "tiêu diệt được hai mươi tên". Tới khi buông màn đi ngủ, anh vẫn còn say sưa mãi với cuộc “vây lùng” rất mưu mẹo của mình và khen mãi con Sao Sa rất dũng cảm, tinh khôn và hai con chó con bụ bẫm mà Đinh Kinh và Bùi Thanh Phong đã chăm bẵm cũng rất hăng hái. Tuy vậy, trước khi đi ngủ, anh v đồng chí chỉ huy trưởng đã không quên nhắc nhở các đơn vị tăng cường tuần tra cảnh giới vì đã có những triệu chứng khang khác, không thể coi thường. Mấy hôm nay biển động dữ, sóng ầm ầm suốt ngày đêm. Ở chân trời thấy xuất hiện những dấu vết khả nghi. Máy bay trinh sát của địch đã lướt qua đảo mấy lần. Lúc xẩm tối, các đài quan sát lại báo cáo về: ở hướng đông nam có một đèn xanh; hướng đông bắc, hai đèn đỏ; phía tây cũng có vệt sáng. Mà hẳn hoi đó chẳng phải là đèn, là vệt sáng của đồng bào chài lưới. Đảng ủy phán đoán: Đêm nay dịch sẽ hoạt động mạnh.

Khoảng 12 giờ khuya, sau khi đã làm nốt một số công việc, tôi tắt đèn đi ngủ, vừa mới chợp mắt được một lúc, bỗng nghe thấy tiếng nổ đùng đùng. Mọi người đều bật trở dậy. Tôi cũng vội nhào ra cửa. Cả bầu trời đã sáng lòa dưới ánh đèn dù, pháo sáng. Đạn địch từng luồng đỏ lừ đan ngang đan dọc. Sáng quá sáng đến nỗi nhìn xuống mặt đất thấy cả những chú kiến đang chạy lăng xăng. Địch bắn dồn dập. Có đủ các cỡ đạn 105 ly, 75 ly, 20 ly, 81 ly... Tôi ra chỗ cột cờ để cùng hội ý với các đồng chí chỉ huy, quan sát. Cách đấy không xa, một chuồng lợn đang bốc cháy. Những chú lợn béo mụ của chúng tôi đang phóng ra khỏi chuồng, lao bạt vào các khu rừng bên cạnh. Nhìn ra biển chỉ thấy đen kịt và chỉ nghe thấy tiếng tàu địch rù rù lẫn trong tiếng sóng. Đảng ủy ra chỉ thị: Cứ phục sẵn, chờ thời cơ thuận lợi sẽ giáng trả lại chúng những đòn quyết liệt như kế hoạch đã định. Có phương hướng rồi, tất cả chúng tôi tỏa nhanh đi từng trận địa, từng khu vực để phổ biến cho các cán bộ, chiến sĩ.

Toàn đảo thật là bình tĩnh, mặc cho những khẩu pháo của chiến hạm địch vẫn nhao nhao sủa. Trên vị trí của mình, một đồng chí vừa quan sát vừa làu bàu chửi bọn Giôn-xơn nhát như cáy. Một chiến sĩ thông tin nói vui với đồng chí Chỉ:

– Mai chúng tôi sẽ tha hồược vớt cá! Bọn Mỹ bắn "tài" lắm, xem ra "trúng" biển khá nhiều đấy, thủ trưởng ạ!

Trận tập kích pháo hèn hạ của lũ giặc Mỹ chỉ kéo dài thêm vài chục phút rồi chấm dứt. Hèn hạ đến nỗi lúc rút lui, những chiếc tàu ăn cướp ấy phải tắt máy cho trôi đi, tránh không để chúng tôi theo dõi tiếng động của chúng. Mấy đám cháy nhỏ đã tắt. Kiểm điểm lại: sự thiệt hại của đảo không có gì ngoài một chuồng lợn, mấy chuồng gà, vài vườn rau bị thiêu hủy và một chiến sĩ công binh bị sây sát chút ít vì mảnh gạch đá văng phải. Đêm trở lại yên tĩnh. Khi đặt mình xuống giường lại chỉ nghe thấy tiếng sóng biển ì ầm vang vọng bốn chung quanh đảo, và tiếng chân những chú cua đá bò ra ăn đêm lại lạo xạo xa gần. Cái tiếng êm ái và thân thuộc ấy cho mãi về sau này, khi cuộc chiến đấu trở nên rất tàn khốc ở trên đảo, vẫn không hề mất đi, mà đêm đêm vẫn nổi lên như muốn nhắc nhủ chúng tôi rằng cuộc sống ở trên hòn đảo này là bất diệt, không có một sức mạnh tàn phá nào hủy diệt nổi.

Trận tập kích bằng pháo hạm của địch quả thật không những đã không gây cho chúng tôi những thiệt hại gì đáng kể, trái lại chúng tôi đã rút được nhiều kinh nghiệm bổ ích vì cũng coi đó là một cuộc “tập dượt”. Qua cuộc "tập dượt" ấy, chúng tôi đã bổ sung được thêm một số vấn đề cần thiết trong công tác tư tưởng và trong kế hoạch quân sự trên đảo. Ấy là chưa kể tới số cá chết nổi trắng xóa trên mặt biển mà đồng chí thông tin đã nói với đồng chí Chỉ trong đêm trước: "Bọn Mỹ bắn trúng biển khá nhiều đấy!".

Liên tiếp từ đó cho tới Tết Nguyên đán, bọn tàu chiến Mỹ lại mò đến sáu lần nữa. Cả sáu lần, chúng đều ồ ạt bắn phá trong vài chục phút rồi lại rút chạy. Nhưng dù sao cũng phải nói tới lần tập kích thứ sáu của chúng! Ấy là đêm ba mươi Tết, cái đêm trừ tịch theo phong tục cổ truyền đẹp đẽ

Mặc dầu cuộc sống của chúng tôi đã chuyển thực sự sang thời kỳ chiến tranh từ lâu rồi, nhưng Tết đến, chúng tôi vẫn muốn trong một chừng mực nào đó cố gắng duy trì, tổ chức những cuộc vui chơi đầm ấm cho chiến sĩ. Nhà câu lạc bộ, doanh trại đã được quét dọn, trang hoàng từ những ngày hai mươi tám, hai mươi chín âm lịch. Phương, anh chiến sĩ thông tin, phó chủ tịch hội đồng quân nhân vừa chững chạc vừa tài hoa đã tốn khá nhiều công sức để vẽ những bức tranh xuân có đủ cành đào, hoa cúc, pháo nổ. Hướng, một cán bộ trẻ tuổi mới trưởng thành từ lớp nghĩa vụ 1958 lên, say sưa làm một cây hoa giấy để tổ chức trò “hái hoa năm mới”. Áp cũng một cán bộ trẻ, đầy nhiệt tình và nhiều triển vọng, xung phong nhận tổ chức các trò câu cá, ném vòng ăn giải. Các nhà bếp thì nhộn nhịp mổ lợn, gói bánh, giã giò. Tiếng dao tiếng thớt khua rộn rã suốt ngày không ngớt. Anh em đã đem hết tâm hồn mình ra để làm việc. Hình như càng căm thằng Mỹ, anh em càng làm việc thật hăng để cho chúng biết: "Bọn tao vẫn đàng hoàng ăn Tết đây, không sao cả!".

Đêm ba mươi. Bầu trời ngoài biển hình như không tối bằng trong đất liền. Không có mùi khói pháo. Không có một tiếng khánh đất rung reng trong gió, nhưng trái tim chúng tôi cũng vẫn thấy êm dịu trong những cảm giác phơi phới, nhẹ nhàng và đầm ấm. Chúng tôi đem những bộ quần áo đẹp nhất ra mặc. Các phòng họp đều sáng trưng ánh đèn. Các đồng chí cán bộ, chiến sĩ thay nhau lên chúc tụng năm mới, rồi cùng ca hát và tham gia các trò vui. Anh em cười bò ra, hết sức thú vị khi tới trò hái hoa, hai đồng chí Phúc và Sen (hai cán bộ của đảo) phải đút kẹo cho nhau ăn, nom ngộ nghĩnh như hai cô bé. Tới khi đồng chí Cừu, một cán bộ, và pháo thủ Xiểu bò ra làm bạch tuộc; người bò ngang, người thách dọc, chân tay lều nghều, cũng không một ai nín được cười. Thấy anh em vui, lòng tôi càng dào dạt niềm sung sướng. Tôi hiểu: có được niềm vui giòn giã như thế này không phải dễ. Đừng có ai nghĩ các chiến sĩ ta trẻ tuổi, hồn nhiên nên niềm vui cũng đơn giản. Tôi biết có anh lúc trời vừa xẩm tối còn ngồi c đầu im lặng rất lâu trước trang nhật ký, nhưng khi bước qua ngưỡng cửa vào trong phòng họp, gương mặt lại trở nên tươi tắn như thường. Anh em đều biết chia sẻ và cùng đóng góp những niềm vui chung, vì ai ai cũng hiểu niềm vui ấy cũng là một trong những yếu tố tạo nên sức mạnh của toàn đảo.

Cuộc liên hoan mỗi lúc một thêm rôm rả. Nhưng tới 21 giờ 30, chợt một chiến sĩ trực canh hiện ra ở khung cửa, súng khoác chéo trước ngực, nét mặt trang nghiêm. Tất cả mọi người đều quay lại. Một chiến sĩ đang đơn ca, ngừng ngay ở giữa câu hát. Những người chơi hái hoa cũng hạ cánh tay xuống. Mọi người đều biết có chuyện gì xảy ra rồi. Điện từ các đài quan sát báo về: tàu chiến địch xuất hiện ở phía đông...

Đồng chí chỉ huy trưởng từ đám đông đang đứng vây quanh "cây hoa" bước ra. Động tác của anh rất nhanh nhưng phong thái vẫn thật ung dung, thoải mái. Anh ôn tồn ra lệnh cho anh em giải tán, trở về vị trí chiến đấu. Ở gần anh đã lâu lâu, tôi đã hiểu được con người trầm tĩnh và tế nhị này phần nào. Nhưng tới bây giờ tôi càng hiểu anh hơn. Sự bình tĩnh và tác phong rất nghiêm chỉnh nhưng hết sức dịu dàng của anh đối với chiến sĩ trong giây phút này làm cho tất cả mọi người cảm thông được ngay những ý đồ của anh một cách nhanh chóng.

Đèn lửa tắt hết. Tất cả các khu nhà biến mất trong bóng tối mung lung. Tôi cùng các đồng chí cán bộ chỉ huy quay trở ra chỉ huy sở. Qua một vị trí pháo, tôi dừng lại bên một chiến sĩ. Chiếc mũ sắt che tới gần hết khuôn mặt của anh. Tôi nắm lấy cánh tay tròn lẳn và nóng hổi của anh, và nhận ra đó là một trong những tay mê chơi nhất lúc liên hoan ban nãy.

– Thế nào? Sẵn sàng nhả đạn chứ?

– Báo cáo, sẵn sàng lắm rồi!

– Cóếc cuộc vui không?

Anh chiến sĩ khẽ cất tiếng cười, đáp:

– Cũng chẳng tiếc lắm. Mà bọn Giôn-xơn đến, may ra đảo ta lại có chiến công làm quà đầu năm thì thật tuyệt!

Nhưng rồi anh lại bổ sung:

– Tuy vậy, thú thật với đồng chí, chỉ tiếc là chưa được nghe thư Bác!

Tiếng tàu địch trước còn mơ hồ lẫn trong tiếng sóng, lúc này nghe đã rõ mồn một. Vẫn lại cái tiếng rù rù nghe rất ám muội và độc ác. Nhìn ra xa, biển vẫn đen ngòm và bầu trời mù xám, đường chân trời chìm trong bóng tối. Gió lạnh thổi phần phật. Chúng tôi cùng dựng cao cổ áo vải cao-su lên. Một vài hạt mưa lất phất. Trái đất hình như tuyệt đối im lặng. Lạnh, bực dọc và bứt rứt. Tiếng tàu địch vẫn rù rù quẩn quanh mãi ở ngoài xa y như chúng chỉ có thể tiến được tới đó là vấp phải một bức hàng rào vô hình không tài nào vượt nổi nữa. Ở một ổ súng nào gần đó bật lên một câu chửi cáu kỉnh:

– Tổ cha nó, lại chỉ quấy rầy! Mỗi năm có một đêm ba mươi Tết...

Một lúc sau, những tiếng rù rù nhỏ dần, xa dần, rồi mất hẳn. Các đài quan sát báo về: tàu địch đã rút.

Hết báo động.

Và lúc đó cũng đã hai mươi ba, giờ khuya. Cuộc vui lớn không thể tiếp tục được vì vẫn phải cảnh giác, đề phòng tàu địch bất thần quay trở lại. Tuy vậy các cuộc vui nhỏ vẫn nổ ra ở ngay tại các hầm, và các trận địa chiến đấu. Chỗ này là một cuộc họp đồng hương; chỗ kia là một nhóm chơi bài, uống trà, ăn kẹo để đón giao ta. Đồng chí Sen và chúng tôi đã nghĩ ra được một cách: mở đài thu thanh ở tổng đài truyền qua hệ thống dây nói đi tới các khu vực, các trận địa, để các chiến sĩ đều nghe được thư Bác.

Chúng tôi hồi hộp đón đợi; chén nước ấm trong tay; khẩu hiệu mừng xuân đỏ hồng trên vách hầm.

Đúng hai mươi bốn giờ, trong máy thu thanh, tiếng pháo bắt đầu nổ. Xen lẫn vào những tiếng pháo tép râm ran, tưng bừng là từng quả pháo đùng nổ điểm nhịp vang động làm cho không khí trên toàn đảo thêm tràn ngập hương xuân. Tiếp đó là giọng nói xiết bao quen thuộc, đầm ấm của Bác Hồ cất lên từ Thủ đô xa xôi vọng đi bốn phương trên Tổ quốc và khắp cả năm châu, bốn biển:

Đồng bào thân mến,

Nhân dịp năm mới, tôi gửi lời chúc mừng thân ái nhất đến toàn thể đồng bào miền Bắc và miền Nam, toàn thể chiến sĩ và cán bộ, đến các cụ phụ lão, các cháu thanh niên và nhi đồng, đến kiều bào ta ở nước ngoài.

Tôi thay mặt đồng bào ta gửi lời chúc mừng tốt lành nhất đến nhân dân các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa, đến nhân dân các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước bạn Á - Phi, và Mỹ la tinh.

Sau đây là vài vần nôm na chúc đồng bào năm mới:

Chào mừng Ất Tỵ xuân năm mới

Nhà nước ta vừa tuổi hai mươi

Miền Bắc xây dựng đời sống mới vui tươi,

Miền Nam kháng chiến ngày càng tiếới,

Đồng bào hai miền thi đua sôi nổi,

Đấu tranh anh dũng, cả nước một lòng

Chủ nghĩa xã hội nhất định thắng lợi!

Hòa bình thống nhất ắt hẳn thành công!

Chúng tôi cùng lắng nghe và cuối cùng đều thốt lên:

– Bác vẫn khỏe lắm!

– Sang năm mới nhất định chúng ta phải cố lập nhiều chiến công để dâng lên chúc thọ Bác.

Nghe xong thư, các đồng chí chỉ huy và tôi cùng đi lên các trận địa, tới các khu vực để mừng tuổi anh em. Trong các gian hầm, anh em vẫn thức. Người ghi nhật ký. Người đọc thư nhà. Anh ngồi nói chuyện. Anh nhấm nháp cốc trà hương. Tất cả cùng đón đợi một ngày mai, một năm mới đang dần dần bước tới, một năm tiếp tục cuộc “Đấu tranh anh dũng, cả nước một lòng”. Ngoài trời, những làn gió xuân ấm áp đang dào dạt thổi về và tiếng sóng nghe mênh mang như đang ca hát. Tôi bước đi thong thả trong các chiến hào còn hăng nồng mùi nhựa cây, đất mới, đi lướt qua các cửa hầm le lói ánh đèn. Tôi dừng lại bên các khẩu pháo đã đẫm sương, lạnh giá nhưng vẫn luôn luôn cựa quậy, thức tỉnh cùng với những chiến sĩ trực canh. Trong cái đêm giao thừa không quên ấy, lòng tôi tràn ngập biết bao ý nghĩ thật đẹp đẽ về cuộc sống chiến đấu kiên cường thật đặc biệt của chúng ta, về những ngày đã qua và những ngày sắp tới...

Một hồi lâu sau, khoảng 01 giờ 30, chợt lại nghe có tiếng tàu địch. Rồi có tiếng súng lớn nổ ở phía đất liền. Nhìn vào Vĩnh Linh, thấy rõ cả ánh lửa lóe lên đỏ rực. Toàn đảo lại báo động, sẵn sàng chiến đấu.

Mờ sáng ngày mồng một Tết, chúng tôi nhận được tin "báo hỉ" đầu xuân: Quân dân Vĩnh Linh đã bắn chìm một tàu biệt kích của Mỹ.

⚝ III ⚝

Ngày 7 tháng 2 năm 1965! Lại một ngày rung chuyển cả toàn đảo. Ngày 7 tháng 2 năm 1965! Bọn Mỹ và tay sai lại ngang nhiên tung máy bay vào miền Bắc xã hội chủ nghĩa của chúng ta bắn phá. Ngày 7 tháng 2 năm 1965, ngày bọn đế quốc Mỹ đã chính thức mở cuộc tấn công điên cuồng bằng không quân đối với miền Bắc! Đứng trên đảo, chúng tôi nhìn thấy rất rõ từng đàn máy bay từ hạm đội 7 vun vút bay vào đất liền của Tổ quốc cũng như từng đàn máy bay kẻ cướp từ phía Nam bay ra Bắc. Rồi tiếp đó là những cột khói ở Vĩnh Linh, Hồ Xá bốc lên nghi ngút. Ruột gan chúng tôi như cháy bỏng cả lên. Trên các trận địa, các pháo thủ ngồi sẵn trên mâm pháo, vừa liên tục theo dõi từng đợt máy bay bằng những họng súng của mình vừa rít lên những tiếng căm hờn:

– Lại tám chiếc nữa!

– Lại mười hai chiếc! Phải giết sạch bọn Giôn-xơn đi! Phải bắn rụng hết bọn Mỹ xuống biển!

Trên vị trí chỉ huy của mình, đồng chí chỉ huy trưởng đứng sừng sững, không nhúc nhích, mặt hướng về phía đất liền, đôi môi mím chặt, bắp thịt trên má căng ra, và hai dòng mồ hôi lấp lánh ở thái dương từ từ chảy xuống. Vợ và hai con của đồng chí không phải ở đâu xa, chính ở ngay khu Vĩnh Linh - Hồ Xá, nơi đang bốc lên những cột khói đen sì nối tiếp. Con người vốn ít nói ấy lúc này càng lì ra. Nhưng tôi biết, ở bên trong, trái tim anh đang sôi máu. Từng đàn máy bay vẫn tiếp tục lao vào đấ

Bữa cơm buổi chiều hôm ấy thật nặng nề. Từng người cúi đầu nhai chậm chạp. Những con mắt tối sầm. Đinh Kinh, người chiến sĩ nuôi quân nổi tiếng tận tụy của đảo, ngồi bần thần, vặt từng nhúm cỏ, đưa cặp mắt rầu rĩ xót xa, cặp mắt của những bà mẹ, những người chị, hết nhìn anh em, nhìn những xoong cơm còn gần như nguyên vẹn, lại quay ra với tất cả nỗi căm hờn nhìn về phía vòm trời xa đã mù sương, nơi mà mấy giờ trước đây những chấm đen giết người đã vun vút lướt qua và để lại những dải khói trắng dài.

...Rồi từ hôm đó trở đi, bọn Mỹ tiếp tục bay vào miền Bắc bắn phá không ngừng. Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam cũng từ buổi đó, sớm chiều loan báo các tin chiến sự không phải chỉ có những tin chiến thắng ở miền Nam như trước nữa, mà đã có cả những tin chiến thắng ở miền Bắc. Toàn quốc đã ở trong tình trạng chiến tranh! Trong một buổi tối, tất cả chúng tôi đều xúc động nghe từ đài thu thanh vang lên câu nói trọng đại ấy. Toàn quốc đã ở trong tình trạng chiến tranh! Trái tim chúng tôi như vang vọng lại âm thanh của câu nói ấy với tất cả ý nghĩa thực tiễn mạnh mẽ của nó.

Lại một đợt thi đua nữa được Đảng ủy phát động với tên gọi "phong trào xuất kích thắng lợi". Các chi đoàn thanh niên đã tổ chức những cuộc tự do diễn đàn sôi nổi về thực chất đế quốc Mỹ "giàu mà không mạnh". Trong khi đó, các phương án tác chiến cũng đều được đem ra dân chủ thảo luận, bổ sung và luyện tập thêm. Các khẩu hiệu "Học tập Nguyễn Viết Xuân, dũng cảm ngẩng cao đầu nhìn thẳng vào quân thù mà bắn!", "Sống, chiến đấu anh hùng như Nguyễn Văn Trỗi" và "Trả thù cho Nguyễn Văn Trỗi, Nguyễn Viết Xuân và đồng bào hai miền Nam, Bắc!" được nêu cao. Một cuộc thi thống kê tội ác đế quốc Mỹ ở Việt Nam đã được tổ chức rất sâu rộng. Và do đó khí thế đánh Mỹ lập công rửa thù mỗi ngày một thêm rạo rực trên toàn đảo. Đi tới đâu cũng thấy những cuộc tranh luận sôi nổi về các cách đánh máy bay, tàu chiến, quân đổ bộ của địch trong tất cả mọi tình huống. Đi tới trận địa nào cũng thấy la liệt những bản liệt kê các tội ác đẫm máu của quân thù. Bên các khẩu pháo đều có ảnh Nguyễn Văn Trỗi và Nguyễn Viết Xuân. Và các pháo thủ đều tươi cười giới thiệu với bất cứ cán bộ nào đi tới:

– Báo cáo đồng chí, đây là những pháo thủ danh dự của khẩu đội! Các đồng chí ấy cùng ở đây chiến đấu với chúng tôi cho đến ngày toàn thắng!

Sang ngày 14 tháng 3, Cồn Cỏ bắt đầu bước vào cuộc chiến đấu thực sự ác liệt. Đối với chúng tôi, đó là một ngày lịch sử vĩnh viễn không bao giờ quên của đảo cũng giống như ngày mồng 8 tháng 8 sinh nhật của đảo, hoặc những ngày mồng 5 tháng 8, mồng 7 tháng 2 đối với toàn thể nhân dân ta trên cả nước nói chung và miền Bắc nói riêng.

Từ mấy ngày trước đã thấy có máy bay trinh sát của địch liệng đi quần lại ở hướng đông nam của đảo. Có khi chúng bay thấp hẳn xuống, gần như rà trên mặt biển. Lại thấy có một số tàu chiến từ Cửa Việt chạy ra, lượn quanh ở khu biển trước thôn Vĩnh Mốc. Các bộ phận quan sát còn phát hiện thấy cả máy bay thám thính U2 lượn trên đảo nhiều lần. Đảng ủy nhóm họp và khẳng định: địch sẽ đánh lớn; và chủ trương: phải kịp thời kiểm tra lại ngay tất cả mọi mặt chuẩn bị chiến đấu.

Quán triệt tinh thần nghị quyết ấy, từ những ngày 11, 12, các pháo thủ đã được lệnh thường trực liên tục trên mâm pháo. Đạn luôn luôn lắp sẵn vào ổ súng. Tất cả các dụng cụ và phụ tùng sửa chữa đều được xếp đặt hết sức quy củ, có nơi có chốn, khi cần tới là không phải mất thì giờ tìm kiếm. Hơn thế nữa, theo nghị quyết của Đảng ủy, đồng chí chỉ huy trưởng đã có một kế hoạch chiến đấu toàn diện, được phổ biến kỹ tới từng binh chủng, từng trận địa, từng chiến sĩ. Riêng tôi được Đảng ủy phân công lên trực tiếp bám sát một trận địa. Sau khi bàn bạc với các đồng chí chỉ huy phân đội ở đó, chúng tôi đã đề ra những yêu cầu thật nghiêm ngặt đối với các chiến sĩ về sinh hoạt và chiến đấu, kiên quyết chống lại mọi thói quen có phần nào lỏng lẻo trước kia. Chúng tôi vẫn thường được trên nhắc nhủ: chiến đấu với một quân thù có những phương tiện hiện đại, phải có một tổ chức thật khoa học, chặt chẽ để bảo đảm cho những hành động của ta được thật nhanh, gọn và chính xác. Chỉ trong một tích tắc là quân thù đã có thể chạy buột mất, cũng như chỉ trong một tích tắc quân thù đã có thể gây cho ta những tổn thất không nhỏ.

Ngày 14 tháng 3. Buổi sáng hôm ấy mặt biển thật trong trẻo. Những làn sóng trắng phau, dịu dàng nô đùa, đuổi nhau trên những bãi cát. Bầu trời ửng hồng bao la. Từ phía đất liền, những cánh buồm hiện ra lấm tấm, cái trắng, cái nâu, cái hồng, cái đỏ tía dưới ánh nắng ban mai.

Những giờ đầu hôm ấy, theo chương trình cũ, tôi tiếp tục chuẩn bị để sơ kết cuộc thi sưu tầm tội ác đế quốc Mỹ. Trong tay tôi đã có hàng tập giấy dày với những con số, những dòng chữ chi chít. Có nhiều tờ nhòe cả chữ vì nước mắt. Có một số tờ mang theo cả những dòng chữ viết bằng máu cắn ở ngón tay ra đã thâm đen: "Thù này phải trả!" hoặc: "Phải tiêu diệt đế quốc Mỹ!".

Chỉ làm công việc đọc lại những bản thống kê tóm tắt ấy mà lòng tôi cũng đã không thể chịu nổi, nhiều lúc phải bỏ dở công việc, đứng dậy đi ra các ụ pháo với anh em, trò chuyện đôi lúc. Hôm ấy, Lê Ngọc Vân, anh chiến sĩ bắn súng máy, lên tìm tôi ở trận địa. Anh vẫn nhanh nhẹn, linh lợi như mọi ngày, chỉ riêng có đôi mắt rất buồn. Sáng nay đọc báo, Vân đã tìm thấy tội ác thứ 160 của giặc Mỹ. Câu chuyện ấy vừa mới xảy ra nóng hổi ở miền Bắc. Đó là chn mấy em nhỏ ở Nghệ An bị máy bay Mỹ bắn chết một cách thảm thương. Vân đã đưa cho Lĩnh, tổ viên trong tổ súng máy của anh, và hai anh em đều không ngăn được nước mắt. 160! Con số của Vân đã vượt quá những con số của Bùi Thanh Phong, Lâm Văn Hiếu và chiến sĩ quan trắc Nguyễn Văn Thiêm, quân khí viên Nguyễn Đức Báu. Tôi bắt tay Vân và thấy lòng bàn tay anh hâm hấp nóng.

– Vân sốt đấy à? - Tôi hỏi.

– Báo cáo không! - Vân lắc đầu, rồi hỏi mượn tôi quyển sổ tay trong đó tôi có ghi chép một số lời của Bác Hồ và các đồng chí tiền bối của Đảng về cuộc sống, về đấu tranh và lý tưởng...

Có quyển sổ rồi, Vân chào tôi rồi nhanh nhẹn quay đi. Nhìn theo anh, tôi không khỏi nhớ lại câu chuyện bảo vệ cờ trong một trận mưa bão trước. Hôm ấy, Vân cũng đang sốt. Bình thường, anh là một chiến sĩ tích cực và có ý thức rất sâu về chức trách của mình. Mỗi khi ốm, anh thường không chịu nghỉ, vẫn đề nghị được ra thao trường, nếu không ít ra cũng phải để cho anh đi xem tập. Hôm ấy anh đã phải chịu nằm nhà là sự chẳng vừa. Một cơn mưa dông đột ngột ập tới, Vân nhìn ra ngoài sân thấy lá quốc kỳ vẫn còn ở trên đỉnh cột, anh vội vã lao ra quên cả mưa gió, quên cả cơn sốt, kéo được lá cờ xuống, ghì chặt vào ngực chạy vào. Vừa thở Vân vừa nói với đồng đội: “Nom thấy cờ của mình bị gió giật xé, tôi không thể nào chịu nổi”... Từ ngày đó, trước mắt chúng tôi, Lê Ngọc Vân càng đẹp hơn lên nhiều lắm.

Lê Ngọc Vân đi khỏi, tôi lại trở ra các ụ pháo. Lúc đó Bùi Thanh Phong đang lau pháo, tấm thân mảnh dẻ của anh hơi cúi xuống và đôi mắt một mí dễ xúc động đang ánh lên vui vẻ. Dưới bệ pháo, ở ngay cạnh anh là một cuốn “Lý Tử Trọng” đang đọc dở. Phong rất ham thích đọc sách. Những "Thép đã tôi thế đấy”, "Lôi Phong” và tất cả những chuyện anh hùng, chiến sĩ thi đua của quân đội ta trong thư viện của đảo, đọc đã hết sạch. Phong rất yêu "ông Nhỏ" cũng như rất mê Pa-ven, Lôi Phong và gần đây rất cảm phục Nguyễn Văn Trỗi, Nguyễn Viết Xuân.

Nom thấy tôi đi tới, Phong ngẩng lên, tươi cười, và cũng như tất cả mọi khi, anh đều có ngay một câu hỏi:

– Báo cáo đồng chí, liệu hôm nay ta có phải tiếp tục ngồi “ế'”nữa không?

– Chắc không - Tôi đáp - Cứ chuẩn bị sẵn sàng!

Phong vỗ vai Châu, anh pháo thủ tiếp đạn, hớn hở:

– Đúng không! - Tau đã cảm thấy điều này ngay từ sáng sớm nhé!

Châu cười, nụ cười rất lành. Cũng trẻ như Phong, nhưng Châu ít nói và có phần chậm chạp hơn. Tuy nhiên, đó là một anh chàng thật gan lì, sét đánh ngay trên đầu cũng chỉ cười.

Ở một ụ pháo gần đó, Lâm Văn Hiếu - cây sáo trúc và đàn bầu của đảo - đang ngồi ngay ngắn trên ghế pháo thủ số 1, mê mải tập lấy đường ngắm ở trên cao và ở cả dưới mặt biển. Hiếu là người cùng làng với Bùi Thanh Phong. Khuôn mặt nhỏ nhắn với nước da mịn trắng của anh đóng khuôn trong chiếc mũ sắt nom lại càng đẹp. Cứ nhìn cái vóc dáng mảnh mai và bộ mặt thanh tú ấy, khó có ai biết rằng anh là một thanh niên nông thôn thuần túy. Từ bé, Hiếu chưa hề ra khỏi lũy tre làng, khi học lên tới cấp 3 anh mới biết qua "mặt mũi" của thị xã Thanh Hóa. Anh dự định tốt nghiệp lớp 10 xong sẽ vào đại học, nhưng mới hết lớp 8, anh đã xin đi bộ đội. Cùng với Bùi Thanh Phong, anh quyết tâm ra đi vào lúc tình hình cả nước đang sôi sục, khẩn trương. Lâm Văn Hiếu nhờ có một ý chí rất tốt và thêm thuận lợi là có văn hóa nên học tập, tiếp thu rất nhanh và sâu. Vì còn là "lính mới" nên anh chỉ được giữ nhiệm vụ pháo thủ số 3. Sáng nay số 1 ốm mệt, Hiếu đã được chúng tôi mạnh dạn cho lên thay thế. Anh hết sức phấn khởi, ôm chầm lấy đồng chí chỉ huy trưởng mà nói: “Nhất định sẽ bắt bằng được một "con ép" [17] để xứng đáng với lòng tin của các thủ trưởng”.

Kể cũng khá đặc biệt, ở trên trận địa này còn có một người đồng hương nữa của Bùi Thanh Phong. Đó là chiến sĩ quan trắc Nguyễn Văn Thiêm, “quân khí viên nghiệp dư, dự bị số 1 của Nguyễn Đức Báu” như ta đã biết. Cả ba thanh niên ấy cùng ra đi bộ đội vào một năm, giờ đây cùng ở Cồn Cỏ, và hơn nữa: cùng là những chiến sĩ ưu tú. Thiêm hơn hai mươi tuổi, đen giòn, người chắc lẳn, nét mặt thông minh và quả cảm, ai nom cũng phải yêu. Là phân đoàn trưởng thanh niên, ngoài những đức tính hăng hái, xốc vác như các bận khác, Thiêm còn có cả sự chín chắn và ý thức lãnh đạo của một người có trình độ giác ngộ tất. Thiêm đang đứng sừng sững với khí tài quan sát của mình, toàn thân anh như tỏa ra lòng tin tưởng và ý chí chống Mỹ sắt đá. Ở quê nhà, Thiêm đã có hai con. Anh thường đỏ mặt, cười: "Thanh Hóa tôi có cái tục hay "sớm sủa" thế đấy mà!". Tuy vậy, ai cũng thấy anh vẫn rất yêu vợ, và đặc biệt rất thương con. Những ngày rỗi rãi, anh thường chăm chỉ đi nhặt từng vỏ sò, vỏ ốc, những loại thật đẹp, tích góp lại để khi được về phép làm quà cho lũ trẻ.

Hưởng, cán bộ của phân đội, hôm nay đến phiên trực ban chiến đấu. Anh thanh niên nông thôn sức vóc đen đủi nhưng lại rất có duyên và hiền hậu ấy lúc nào cũng bận rộn. Hình như ngồi rỗi một tí đối với anh là một điều thật đáng áy náy, xấu hổ. Vẫn luôn thuộm với chiếc áo bà ba nâu và chiếc quần xanh "cổ truyền", anh đi khắp các khẩu pháo, như một con thoi, kiểm tra từng viên đạn, từng cái đinh ốc. Hưởng là cảm tình của Đảng đã lâu, nay chỉ còn chờ dịp thuận lợi là Đảng bộ sẽ làm lễ kết nạp; giống như Bùi Thanh Phong cũng chỉ còn chờ ngày để chính thức được vào Đoàn. Hưởng gặp tôi ở khẩu đội của Nhì. Anh tỏ vẻ hơi áy náy vì một bộ phận của khẩu pháo chưa được tốt. Sau đó, sang một khẩu đội khác xem xét, anh sà ngay vào xắn tay áo cùng lau chùi súng, đạn với các pháo thủ. Vừa làm anh vừa nói chuyện bằng cái giọng rè rè của mình. Khi mọi việc đã xong xuôi, anh cùng với anh em mang báo ra đọc, ngâm thơ và tiếp tục viết nhật ký.

Về trưa, nắng càng to. Cả bầu trời sáng lóa. Trong lúc đó mặt biển lại rất êm, gió thổi đều đặn, hiền hòa. Tôi lại tiếp tục làm sơ kết cuộc thi tìm tội ác của giặc Mỹ. Ở trận địa, mọi công việc đều đã gọn gàng, đầy đủ, không có điều gì còn phải lo lắng nhiều nữa.

13 giờ. Như thường lệ, chỉ trừ những chiến sĩ trực chiến vẫn ngồi sẵn sàng trên các mâm pháo, còn chúng tôi ai nấy đều tranh thủ ngả mình thiu thiu. Bỗng nghe thấy tiếng kẻng từ phía đài quan sát đổ hồi rồi sau đó là tiếng máy bay vọng tới. Trong chớp mắt, tất cả chúng tôi đã ở các vị trí chiến đấu.

Tiếng kẻng vẫn mỗi lúc một gióng giả, mạnh mẽ. Nghe tiếng kẻng quá quen thuộc, Nguyễn Văn Thiêm phải reo lên:

– Đúng là tiếng kẻng của Thái Văn A! Hay lắm! Nó đánh càng hay tức là máy bay địch càng gần, càng đông!

Quả nhiên, Thiêm nói vừa xong, đã rào một cái, hai chiếc phản lực F.105 đầu nhọn hoắt, sơn mốc thếch, to như những con chim cổ quái từ phía xa lao sát trên mặt biển ngang sườn đông nam của đảo rồi cất vọt mình bay vút lên cao, tiếp tục bay thẳng.

– Nó nghi binh đấy! - Tiếng Hưởng nói, giọng vẫn rè rè, bình thản - Cứ chú ý hướng đông!

Quả không sai, chỉ một phút sau, từ phía đường chân trời xuất hiện sáu chấm đen vùn vụt lao tới, k theo sau những vệt khói và cả một màn tiếng động rung chuyển.

Trên khắp các trận địa của chúng tôi, các khẩu pháo lập tức rào rào quay lại. Tiếng báo cáo bắt được mục tiêu vang lên tới tấp. Thế rồi tốp máy bay đầu tiên ào tới, hú lên như hóa dại, và những trái bom lao xuống. Bầu trời đang nắng đẹp, bỗng tối sầm hẳn lại. Những cột khói khổng lồ, cuồn cuộn dựng lên. Lửa cuốn theo đỏ khé. Khu nhà bếp của chúng tôi trúng bom. Mặt đất rung lên. Hơi ép đánh rất mạnh vào trận địa. Nhưng chính trong lúc ấy, trên bầu trời cũng hiện lên một đám lửa lùng bùng, hấp tấp lư