← Quay lại trang sách

NGÔI SAO TRÊN ĐỈNH PHU VĂN LÂU ⚝ I ⚝

Mười phút sau khi những quả pháo lớn đầu tiên mang theo những đuôi lửa dài màu da cam giội xuống khu tam giác, mở đầu cuộc tiến công lịch sử của quân Giải phóng vào thành phố Huế, Tụng cũng vừa dẫn mũi tiến đến trước cửa Hữu. Hai ổ trung liên địch từ xóm nhà chi chít hai bên cửa thành bắn chéo góc ra như mưa, đội hình Tụng ùn cả đầu cầu không vào được. Luồn theo bóng tối, Tụng dẫn bốn đồng chí đu người lên, hai bàn tay bám chặt vào thành cầu, lần theo mép cầu vượt sang đầu bên kia, áp vào cửa thành. Bọn Tụng ném luôn bảy quả thủ pháo về phía hai họng lửa đang lập lòe ở hai bên góc thành, nhưng vẫn không dập tắt được hỏa điểm địch. Vừa lúc ấy, Mác chiếm xong cổng Thủy Quan, cũng vừa triển khai đến. Tiếng Mác gọi từ trên thành cao: “B.40 đâu?”

Tụng cho điều hai cây B.40 đến, bắn bốn quả chéo góc vào hai mục tiêu. Trung liên địch câm họng ngay, nhưng các loại súng khác rải rác từ các nhà vẫn bắn ra chéo chéo. Lúc ấy Mác vừa mở cửa cổng Thủy Quan chiếm mặt thành dẫn tổ triển khai lên vừa đến cửa Hữu. Đứng trên thành, Mác bắc tay hô lớn làm nghi binh: "Sư đoàn Hai tiến vào!". Từ trong kẽ hở của bức thành bị vỡ, một tốp địch nhảy bật ra, chạy tháo vào nhà dân. Mấy thằng ngoan cố còn bám lại bắn rào rào xuống dưới thành. Mác tọng luôn trái thủ pháo vào khe thành, cả bọn chết cháy. Tụng hô xung phong, vừa ôm bộc phá lao tới trước cửa thành thì một tràng tôm-xông và lựu đạn từ một ngôi nhà gần đấy nổ vang rền, quét lên mặt cầu. Rõ đang dẫn mũi chạy qua cầu, vội hô anh em nằm rạp xuống sát hai bên thành cầu. Tụng bỗng thấy chân phải mình tê bại hẳn đi, anh ngã quỵ xuống. Tụng la lớn:

– Tôi bị thương rồi, anh em lên đi.

Ngoài kia, Rõ cũng đã bị thương. Nguyễn Duy Tựa lên thay Rõ, dẫn anh em vừa bắn trả địch vừa lao qua cầu. Khánh cũng đưa mũi mình vượt theo. Đến sát thành, Khánh cho mũi mình tỏa ra hai bên, chồng lên vai nhau trèo lên Thành.

Ổ tôm-xông địch vẫn nổ tạch tạch dai dẳng. Tựa gọi cây B.40 lên, vừa bắn yểm trợ cho đồng chí mình vừa hô lớn: "Bộc phá đâu?". Một trái B.40 nổ ầm, súng địch im hẳn. Ngay lúc ấy, Minh ôm một gói chất nổ nặng hàng chục cân lao như bay đến trước bãi dây thép gai chằng chịt đang bít hẳn cửa Hữu. Minh vốn gầy, lại đang sốt chưa cắt cơn, người còn yếu. Tiếng hô của Tựa lẫn trong tiếng súng nổ rền, trận địa như có một sức mạnh xô Minh lên phía trước. Anh giật lấy khối bộc phá nặng hơn sức vác ngày thường của anh, lao đi như một mũi tên. Một tiếng nổ long trời, những guồng thép gai cự mã bay bổng lên không, bãi thép gai biến mất. Cửa Hữu đã mở. Bộ đội ào ào tràn vào thành.

Vừa ngã xuống, Tụng cố bò ra khỏi trận địa để tránh đạn, đến nằm nép ở dưới chân cầu, lấy băng cá nhân ra băng lại vết thương. Tụng trước đây là nghĩa binh, người Phong Chương, từ nhỏ sống lưu lạc ở Huế, làm nghề mộc. Đến năm mười chín tuổi, Tụng bị bắt đi quân dịch. Ở Quang Trung, Tụng bỏ ngũ về xã tham gia du kích, bám làng đánh giặc ba năm. Tháng mười một năm 1966, địch càn lớn, Tụng bị bắt. Bọn địch ở quận Phong Điền truy tố Tụng về tội "ăn cơm quốc gia, thờ ma Cộng sản" kết án tử hình Tụng. Trước hôm sắp bị chúng đem ra xử bắn, Tụng phá ngục, đưa được mấy đồng chí trong ban lãnh đạo Mặt trận huyện thoát ra luôn, và anh được kết nạp vào hàng ngũ quân Giải phóng, rất được đồng đội quý mến. Trong chiến dịch này, Tụng vừa làm hoa tiêu dẫn đồng đội vào thành, vừa chỉ huy một mũi đánh chiếm Cột Cờ. Bị bắn gãy chân phải, Tụng rất lo không có ai thay mình đưa đường cho anh em. Lúc ấy cửa Hữu đã mở được, Tụng báo cáo với anh Chất:

– Anh cho kiếm xích-lô chở tôi đi để tôi dẫn đường anh em đến Cột Cờ.

Thấy vết thương của Tụng khá nặng, giọng nói Tụng thều thào yếu hẳn đi, anh Chất bảo Tụng yên tâm ở lại đây chờ đưa ra tuyến sau, đồng thời anh ra lệnh cho đồng chí y tá của đơn vị ở lại lo cho Tụng và các thương binh khác. Nhưng Tụng khoát tay, bảo đồng chí y tá:

– Đồng chí đi theo đơn vị đi, đánh nhau còn ác liệt. Anh em vô cửa, rẽ phải, dọc theo thành chạy miết là tới Cột Cờ. Để thương binh ở lại đây với tôi, tôi lo liệu lấy.

Anh em triển khai vào thành. Vào khỏi cửa Hữu, đội hình không còn nguyên như trước nữa. Chất, Khánh, Nguyễn, Tựa, mỗi người dẫn một ít quân, triển khai theo hướng của mình.

Vào thành, chạy dọc theo đường Tôn Thất Thiệp một quãng, Nguyễn Duy Tựa dừng lại ổn định đội hình của mình. Trong tiếng súng ầm vang rung chuyển cả thành phố, Tựa nói với các đồng chí, giọng sang sảng:

– Mũi chúng ta nhận nhiệm vụ đánh chiếm Cột Cờ Huế. Kéo lá cờ mặt trận lên đó là để kêu gọi nhân dân Huế nổi dậy cướp chính quyền, để báo cho cả nước và thế giới biết thành phố Huế đã thuộc về tay nhân dân. Đó là nhiệm vụ vinh quang nhất trong đời bộ đội chúng ta. Chúng ta thề hoàn thành cho kỳ được nhiệm vụ vô cùng trọng đại này. Đội viên hy sinh thì A trưởng xông lên, A trưởng hy sinh thì B trưởng xông lên, còn một người cũng quyết đánh chiếm cho được Cột Cờ. Các đồng chí sẵn sàng chưa?

Dưới ánh pháo sáng, bóng những cây mù u bổ xiên lướt nhanh trên những khuôn mặt đanh lại, chín cánh tay cùng giơ lên, nhiều tiếng thét bật ra cùng một lúc

- Sẵn sà... àng!

Tựa kéo mũi đi, tất cả rầm rập chạy về phía trước. Thấy trong một căn nhà bên đường có ánh đèn thấp thoáng, Tựa chạy vào, cất tiếng hỏi:

– Cột Cờ Thành-Nội ở đâu, nhờ bà con chỉ hộ.

Ba người đàn bà ngồi sát vào nhau dưới đất, cùng với bảy đứa trẻ con nằm ngồi lổm nhổm dưới một chiếc phản gỗ. Thấy Tựa vào, cả ba chị đưa mắt nhìn nhau, im lặng. Một lát, một chị ẵm đứa con nhỏ trên tay, rụt rè đáp:

– Chị em tui lạ mới tới đây, không biết.

Tựa sốt ruột:

– Chúng tôi là quân Giải phóng, vào giải phóng Huế, chị làm ơn chỉ đường cho chúng tôi kẻo trễ giờ.

Ba chị lại đưa mắt nhìn nhau. Một chị đứng dậy chạy ra ngõ.

– Cột Cờ hướng đó, cách đây cây số thôi.

Nói xong, chị tất tả quay vào nhà.

Tựa dẫn anh em chạy theo hướng chị chỉ. Quá một ngã ba, nghe tiếng kêu ơi ới đằng sau:

– Ơi mấy eng! Đường ni nè, chạy mô ngả nớ!

Tựa quay lại. Chị ôm con hồi nãy đã chạy ra đến đầu ngã ba. Tay trái chị nách đứa bé bên hông, tay phải tóm búi tóc xổ xuống lòng giòng sau lưng, kéo nó nhét vào trong cổ áo. Quần ống cao ống thấp, chị chạy lúp xúp, anh em chạy theo đường Nguyễn Thiện Thuật. Đến đầu một ngã ba khác, Tựa thấy hai tên lính nguy đội mũ sắt, đạp xe đạp nhong nhong từ đầu xa trờ tới. Thấy bọn Tựa súng ống lô nhô, lại có cả một người đàn bà bồng con đi theo, một tên rà rà xe lại, hỏi:

– Đổi gác rồi hả, còn sớm mà. Súng mô bắn dữ rứa?

Tựa chĩa A.K vào ngực chúng, quát:

– Giơ tay lên! Quân Giải phóng đã vào đổi gác cho chúng mày rồi. Cột Cờ đâu, đưa chúng tao đi ngay.

Hai tên lính ngụy sợ hãi, thả xe đạp cái choảng xuống mặt đường, giơ tay lên, ú ớ:

– Dạ... dạ... xin ông đừng bắn... Chúng em xin đưa đi.

Chúng khai một thằng là chuẩn úy, một thằng là trung sĩ, từ quân vụ đi kiểm tra gác ở các cửa thành.

Lúc ấy, mũi của Khánh cũng vừa chạy tới. Tựa giao tên trung sĩ ngụy cho Khánh, bắt nó dẫn đường vào đánh Đại-Nội. Còn mũi Tựa thì theo tên chuẩn úy tù binh tiến thẳng đến Cột Cờ. Chị bồng con quay về, đi mấy bước chị ngoái lại, dặn với:

– Đánh mau mà ra kẻo sáng rồi, anh nghe!

– Chị về nhé! - Tựa đáp - Chúng tôi đánh rồi ở lại luôn. Sáng thì đánh càng dễ!

Tên chuẩn úy lấm lét nhìn Tựa. Nó dẫn Tựa chạy dọc theo một con đường, hai bên có những cây phượng nhỏ, cành lá lưa thưa. Nhìn trước mắt, Tựa thấy bóng những thành quách lâu đài kiến trúc theo lối cổ hiện ra trong sương. Tên chuẩn úy đưa Tựa rẽ vào một sân cỏ, chỉ về phía trướ

– Cái đài cao, đen đó là Cột Cờ. Bọn lính giữ Cột Cờ ở trong nhà gạch dưới chân thành, gần cây phượng đó.

Tựa nhìn qua vị trí Cột Cờ, rồi anh quay lại quan sát dãy nhà dài mà anh đã để ý ngay khi mới tới. Dãy nhà không tường, bên trong bày chín khẩu pháo lớn thành hai dãy, nòng pháo hướng chênh chếch lên không. Tựa mừng rỡ hỏi dồn tên chuẩn úy:

– Cái gì đây? Trận địa pháo hả?

– Dạ không. Những, khẩu súng thần công hồi xưa đó ạ.

Tựa suýt bật cười. Anh nghiêm mặt lại, quay về phía Cột Cờ, bảo tên chuẩn úy:

– Cậu gọi chúng nó ra đầu hàng đi.

Tên tù binh gãi đầu, ấp úng. Tựa đẩy vào vai nó:

– Nhanh lên!

Tên chuẩn úy "dạ, dạ". Hắn bước đến đứng thu mình sau một gốc phượng lớn, nhô mặt ra khỏi thân cây bắt tay lên miệng làm loa gọi về phía Cột Cờ:

– Ơi anh em binh sĩ giữ Cột Cờ. Quân Giải phóng đã đánh chiếm thành phố Huế. Sĩ quan và binh sĩ sư đoàn Một đã ra hàng. Anh em bảo an, cảnh sát ở Cột Cờ hãy mau mau ra hàng để được sống với vợ con, đừng chống cự lại mà chết uổng mạng.

Vừa gọi xong, hắn thụt đầu ngay vào sau thân cây như sợ bọn kia bắn ra. Bọn địch giữ Cột Cờ vẫn im lặng, chỉ có tiếng nói của tên chuẩn úy dội vang vang vào những vòm cửa Ngọ-

Để một đồng chí ở lại giữ tù binh, Tựa dẫn một tổ theo cái hồ dẫn nước chạy dọc dưới thành, áp đầu đến trước chân Cột Cờ, trong khi Cường dắt một tổ khác băng qua sân cỏ, tạo một mũi nhọn chọc lên phía trái Cột Cờ. Thấy gọi hàng không có kết quả, Tựa cho thụt một quả B.40 vào căn nhà gạch, và từ bên kia, Cường cũng bắn luôn một quả đạn vào căn nhà. Hai tiếng nổ đánh ầm, ánh lửa xanh chớp lên, chiếc đồn giặc biến thành một đống gạch nát. Tựa cho một đồng chí vào kiểm soát lại mục tiêu, không thấy có xác địch nào, chỉ có một khẩu trung liên bị vùi dưới đống ngói, lấy lên thấy còn dùng được. Có lẽ địch đã chạy lên cố thủ trên Cột Cờ. Tựa để một chốt lại phía dưới phòng địch kéo đến chi viện, rồi anh dẫn đầu các đồng chí chạy lên thành, băng qua những đám cỏ tranh lưa thưa áp đến dưới chân tầng thứ nhất của kỳ đài. Mặt tầng thành này có một vòm cửa tò vò mở ra phía Ngọ-Môn, hai cánh cửa gỗ có khuy sắt này kiên cố khóa chặt, bịt hẳn những bậc thang đi lên cao. Cường ném liên tiếp hai quả thủ pháo vào cánh cửa. Tiếng vôi, gỗ rơi xuống ầm ầm, hai cánh cửa bật tung ra. Tựa tiến vào vòm cửa tò vò, áp sát mép tường nghe ngóng rồi nhảy từng hai bậc một tiến thẳng lên phía trên. Những bậc thang này xây bằng gạch chạy xuyên qua lòng kỳ đài như kiểu một địa đạo, đưa bọn Tựa lên một sân cỏ rộng. Địch núp sau bức thành thấp phía ngoài sông Hương bắn trung liên vào dữ dội, Tựa cúi người thấp xuống, bắn tiểu liên yểm trợ cho một đồng chí khác thụt một quả B.40 vào ổ súng địch đang khạc lửa lập lòe ngoài kia. Ánh lửa tắt ngấm, súng địch cũng im bặt. Còn một tầng thành nữa mới đến chân Cột Cờ. Hai cánh cửa ở đây bỏ ngỏ. Tựa dẫn đồng đội, theo cái hầm thang gác hình bán nguyệt chạy lên phía trên. Miệng hầm mở ra trên một sân cỏ thứ hai. Tựa bước lên sân, đứng thẳng người lên. Trước mặt anh, Cột Cờ hiện ra sừng sững, cao vút chọc lên một bầu trời rộng bao la chấp chới những trái pháo sáng với màu lửa ma-nhê. di-um trắng lạnh. Xen kẽ những vệt khói trắng theo chiều thẳng đứng địch, những đường lửa khác khắp bốn phía từ mặt đất vút lên, chênh chếch trên không, xanh, trắng, vàng, đỏ... đủ các màu. Đó là những pháo hiệu của quân ta báo tin những mục tiêu đã dứt điểm. Không có bóng dáng một tên địch nào ở trên này, chỉ còn lại mấy chiếc ba-lô, mấy tấm vải bạt trải trên sân cỏ, và mớ chăn màn vứt bừa bãi trên mặt đất. Tất cả anh em khác cũng đã kéo lên đứng lố nhố trên sân cỏ vùng dưới chân Cột Cờ. Tựa nhìn vào chiếc đồng hồ dạ quang trên tay, lẩm bẩm “4 giờ 15”.

Nỗi hân hoan của các chiến sĩ vừa hoàn thành nhiệm vụ đã làm cho không khí trên sân cỏ trên cao này rộn rã hẳn lên. Nam và Hải ôm nhau nhảy van. Cường chống hai tay xuống đất, nhào lộn trên sân cỏ mấy vòng.

Với bản tính trầm lặng của một nhà giáo, Tựa chống báng súng trên bờ chiếc thành thấp, nhìn ra sông Hương. Trời còn tối, anh chưa nhìn rõ được dòng sông, chỉ thấy một dải đen dài lấp loáng, những ánh pháo sáng bị nhòe đi trong sương. Mặt thành Huế sáng lờ mờ chạy dọc theo bờ sông, như một con đê. Tựa thấy lòng mình nhẹ nhõm, thoải mái như lúc anh đã cố vượt xong một con dốc thực cao, ngồi nghỉ trên một đỉnh núi bằng phẳng lộng gió. Tựa bỗng thấy thèm thuốc một cách kỳ lạ. Anh mò vào túi áo trên. Bao thuốc bẹp dúm, chỉ còn lại ba điếu. Anh rút một điếu, còn lại ném cho Cường. Điếu thuốc bị ẩm nước lúc anh lội qua sông đốt vất vả mãi mới cháy.

Tiếng Cán thét lên: "Quật mẹ thằng ba que xuống". Như sực nhớ ra điều gì, Tựa cũng buột miệng kêu lên: "Không ai mang cờ theo, lấy gì mà treo lên?" Nói thế, nhưng Tựa biết không phải các đồng chí của anh đã quên mang cờ theo. Với yêu cầu gọn, nhẹ, mũi của Tựa chỉ mang đủ số vũ khí cần thiết để giải quyết trận địa. Lá cờ lớn do một đơn vị khác mang đến sau. Cán nói:

– Cứ kéo đầu thằng ba que xuống cái đã, chốc nữa hẵng h

Tựa cho Luận và Cán đứng cảnh giới ở hai góc sân Cột Cờ, Nam cùng một đồng chí khác điều khiển khẩu trung liên ba vừa tịch thu được của địch xuống bố trí trước vòm cửa tò vò ở tầng dưới, còn mấy đồng chí khác xúm lại kéo sợi dây chão hạ lá cờ ba que xuống. Nhưng sợi chão bị cuốn đâu ở trên cao, anh em kéo mãi vẫn không ăn thua gì. Tựa sốt ruột nói:

– Ai biết trèo, trèo lên lôi cổ nó xuống.

Anh em ngước nhìn lên Cột Cờ. Cột Cờ cao ngất, ngửa hẳn mặt lên không vẫn chưa thấy đỉnh, chỉ nghe lá cờ đập gió sàn sạt trên cao như một cánh dơi đi ăn đêm. Anh em lúng túng chưa biết cách nào để trèo lên, thì Tựa cất tiếng nói, khô và đanh:

– Đảng viên đâu?

Cán đang đứng cảnh giới ở đàng xa, đáp:

– Để tôi.

Cán bám những khâu sắt làm sẵn dọc theo trụ cờ, thoăn thoắt trèo lên cao. Anh vừa trèo vừa dừng lại từng chập, quờ tay giật những lá cờ hình tam giác nhỏ đeo trên những sợi dây chung quanh, ném xuống lả tả. Cán vừa trèo lên gần đến cái đài giữa thân Cột Cờ thì nghe tiếng reo ở dưới:

– Được rồi! Được rồi!

Tiếp theo đó, tiếng dây chão bị kéo đi tuồn tuột và bóng lá cờ ba que lướt ngang mặt anh. Khi Cán tuột xuống đến mặt đất thì anh em đang xúm nhau giật lá cờ ra khỏi sợi dây thừng. Nó được làm bằng ny-lông rất chắc, xé mãi không chịu đứt. Cán tức giận, gầm lên:

– Mẹ cái thằng ba que ngoan cố, đến giờ này mày còn chưa chị buông hả? Này! Này!

Cán hé răng cắn vào biên lá cờ, hai tay nắm chắc sợi dây chão, giật thật mạnh. Lá cờ kêu “soạt” một tiếng thật mạnh. Rồi cứ thế, tiếng “soèn soẹt” kéo dài, the thé như một tiếng rú cất lên trong đêm tối, đuối dần và tắt hơi. Trong phút chốc, chiếc "quốc kỳ An-nam cộng hòa" đã bị giẫm nát dưới những bàn chân mang dép cao-su của các chiến sĩ quân Giải phóng thành phố Huế.

Trời sáng dần. Sương mù xuống trắng cả không gian. Thấy 2 khẩu trọng liên của địch giá sẵn dưới chân Cột Cờ, Tựa đưa bàn chân hất hất vào nó, hỏi tên chuẩn úy ngụy:

– Súng này để đây làm gì?

– Dạ, đó là hai khẩu ca-nông-vanh, để phòng Míc của các ông oanh tạc.

Tựa cười, nhún vai:

– Cần gì Míc với Miếc. Chúng tôi mở cửa thành ra chúng tôi vào chứ.

Tựa chỉ tay sang bên kia sông, bảo nó:

– Cái nhà ba, bốn tầng ở bên kia sông ấy là nhà gì? Ai ở đấy?

Tên chuẩn úy vẫn với giọng lễ phép:

– Dạ, đó là khách sạn Hương-Giang, Mỹ ở.

– À, tốt quá. Cậu quay khẩu súng này bắn vào cái nhà ấy cho tôi.

Tên chuẩn úy vâng lệnh, xoay hướng khẩu súng, lên đạn. Nó loay hoay bóp cò mãi vẫn không nổ. Nét mặt hoảng sợ, nó ấp úng:

– Dạ, thưa anh, hình như súng bị hóc đạn ạ.

Tựa nghĩ thầm, có lẽ thằng này nó không biết bắn.

Tiếng súng trong Đại-Nội vẫn nổ râm ran. Chắc là Khánh gặp khó khăn nên bây giờ vẫn chưa dứt điểm được. Tựa để Nam, Luận, Cán ở lại bảo vệ Cột Cờ và coi giữ tên tù binh, còn anh cùng sáu đồng chí khác đi xuống dưới chân thành để vào cửa Ngọ-Môn. Xuống hết ba tầng thành, anh đứng trên sân cỏ rộng quay lại nhìn. Trong làn sương trắng đục, mênh mông đầy trời, dãy thành cổ lờ mờ hiện ra với những hình khối đồ sộ chồng lên nhau, với cột cờ cao tít, mất hút trong sương. Tựa có cảm giác như toàn bộ kiến trúc đó là một tòa lâu đài cổ tích nằm trên một cái biển nào đó rất xa trong thời gian. Trước khi trận đánh bắt đầu, anh thấy nó như một cái pháo đài bí mật và kiên cố một cách đáng lo ngại. Bây giờ thì cái cảm giác ấy mất hẳn. Một phút thoáng qua rất nhanh, hình ảnh những khẩu súng thần công và những người thanh niên tự vệ Huế hạ cờ quẻ ly xuống kéo cờ đỏ sao vàng lên trên đỉnh Cột Cờ này hiện ra trong trí anh. Tựa lẩm bẩm: "Cái điểm cao này thực ngon lành. Một tổ của chúng tao ở trên ấy thừa sức chọi với hàng đại đội của chúng mày".

Trong chiếc áo ka-ki và chiếc quần cộc, khẩu tiểu liên vác ngay trên vai, với mái tóc bồng bềnh như hồi anh còn là nhà giáo, Tựa đứng nhìn Cột Cờ Huế bằng cái nhìn lặng lẽ mà tha thiết vô ngần, như muốn bao trùm lấy nó. Nhưng chỉ trong một thoáng thôi, anh quay phắt lại, lao mình chạy về phía Đại-Nội.

Mũi của Tựa vừa quay đi thì một đồng chí bộ đội còn rất trẻ từ trên thành chạy nối theo. Đồng chí này trước đây đã được phân công ở lại liên lạc, báo tin đã đánh chiếm được Cột Cờ về chỉ huy sở. Vì chưa nắm được vị trí đóng quân của chỉ huy sở, sợ phải ở lại lâu lỡ mất thời cơ, lòng hăm hở muốn diệt địch, đồng chí đã lặng lẽ nhập vào đoàn tiên phong vào Đại-Nội.

Đúng bảy giờ sáng, tại chỉ huy sở, trước một tấm bản đồ Huế trải vừa kín mặt một chiếc bàn gỗ lớn, anh Bốn đang ngồi nghe báo cáo tình hình qua máy điện thoại, nét mặt chăm chú. Giọng chậm rãi quen thuộc của vị chỉ huy trưởng mặt trận cánh Nam vang lên trong máy:

–... đã treo cờ lên tòa đại biểu và tòa hành chánh tỉnh ngụy. Chiếm đài phát thanh. Đơn vị X vì lạc đường vào thành phố, đang tiến đánh bót Ngã Sáu. Nhưng chắc chắn ta sẽ giải quyết mục tiêu trong vòng một tiếng đồng hồ nữa. Cơ bản ta làm chủ Khu tam giác. Lực lượng triển khai tốt, bám sát phương án một. Đang tiếp tục đánh chiếm mục tiêu X và Y, có tình hình mới sẽ xin báo cáo sau.

Anh Bốn với tay lấy chiếc bút đỏ khoanh thêm mấy khoanh tròn trên mặt tấm bản đồ, gật gật đầu một mình:

– Tốt lắm. Này M., nhất định thắng chứ?

Tiếng cười sảng khoái của người chỉ huy trưởng mặt trận cánh Nam vang lên từ đầu dây bên kia:

– Báo cáo anh, toàn thắng ắt về ta!

Anh Bốn cũng cười rất tươi, đặt ống điện thoại xuống.

Anh xoa tay, đến đứng trước tấm bản đồ kiểm soát lại tình tình trận đánh trong thành phố. Trên tấm giấy dầu mỏng phủ ngoài mặt tấm bản đồ, ghi chằng chịt những mũi tên lớn và nhỏ chỉ đường tiến quân của các mũi, và những vòng tròn có gạch chữ thập ở giữa đánh dấu những mục tiêu đã đánh chìm được còn lại vài vòng tròng trắng là những mục tiêu quan trọng cần phải đánh chiếm. Cạnh những vòng tròn mang chữ thập có con số ghi giờ mục tiêu bị đánh chiếm: Căn cứ trung đoàn thiếáp số bảy ngụy, 5 giờ, diệt gọn; cầu Kho Rèn: 6 giờ; cầu Nam giao: 5 giờ; Khách sạn Thuận Hóa, bản doanh Phan Sào Nam: 6 giờ; Cửa An Hòa: 2 giờ 38; Cửa Chánh Tây: 2 giờ 40; Sân bay Tây Lộc, Mang Cá: 6 giờ, làm chủ cơ bản; Cửa Đông B a: 3 giờ 43; Đồn cảnh sát Đông Ba: 5 giờ...

Đầu cán bút trong tay chạy khắp mặt tấm bản đồ Huế. Bỗng nhiên cán bút dừng lại trên một vòng tròn trắng khoanh trên bờ Bắc sông Hương. Đôi mày rậm cau lại, những nếp nhăn nhỏ hiện ra thực sâu giữa hai chân mày, anh đảo đảo cán bút trên mặt bản đồ, lẩm nhẩm: "Mở cửa Hữu lúc 2 giờ 45, chiếm cửa Thượng Tứ 4 giờ. Mãi đến bây giờ vẫn chưa chiếm được Cột Cờ. Lạ thực". Anh ném cán bút xuống bàn, quay máy điện thoại.

– A-lô? Sông Hương đâu?

Có tiếng đáp trong máy điện thoại. Anh Bơn nóng nảy hỏi ngay, anh nói thực to như sợ đầu dây kia không nghe rõ:

– Đã chiếm được Cột Cờ chưa?

Tiếng đáp:

– Báo cáo anh, có lẽ chưa.

Giọng anh hơi gắt:

– Chưa à? Sao lại có lẽ.

– Ban chỉ huy chưa nhận được tin của mũi ấy báo về. Có thể chưa giải quyết được mục tiêu. Chúng tôi đang cho người đi nắm tình hình.

Một đồng chí mặc binh phục, mang xắc-cốt từ ngoài đi vào đứng nghiêm chào anh Bốn, nói nho nhỏ:

– Báo cáo anh, tôi từ bộ tư lệnh s

Anh Bốn ngước lên nhìn, khe khẽ gật đầu, nói tiếp vào ống điện thoại:

– Có tin thông báo tôi ngay. Tôi đợi.

Anh đặt ống nói xuống, quay sang làm việc với đồng chí bộ đội vừa mới đến.

Anh Bốn ở trong ban lãnh đạo Mặt trận giải phóng thành phố Huế. Thuở nhỏ, anh Bốn sống bằng nghề bán báo ở Huế. Năm mười sáu tuổi, anh cùng với một thằng bạn nhỏ hơn đi coi tế Nam Giao. Đứng chen lấn ngoài hàng rào nhìn vô trong đàn Nam Giao, vừa thấy thằng Bảo Đại mặc áo vàng rực rực ngồi chễm chệ trên lưng voi thì anh bị thằng lính tuần sát đến vụt vào lưng một roi đau điếng. Bỗng nhiên trong óc chú bé bán báo nảy ra một ý muốn ngông cuồng phải làm thế nào lật đổ thằng vua này khỏi ngai vàng của nó, mở cửa Đại-Nội cho bà con mỗi ngày làm việc xong chiều chiều vô đó chơi mát. Chú bé bán báo đem chuyện ấy bàn với thằng bạn nhỏ của mình, và hai người bỏ nhà đi từ ngày ấy.

Cái ý muốn “ngông cuồng” ngày nhỏ ấy không ngờ đã biến thành một hoài bão lớn của đời anh Bốn. Trải hơn bốn mươi năm hoạt động cách mạng cùng với một tập thể thừa kế từ lớp người này sang lớp người khác, tâm tư của anh vẫn từng ngày, từng giờ gắn liền với sự nghiệp giải phóng thành phố Huế. Bất cứ ai được dịp gần gũi anh Bốn cũng đều phải ngạc nhiên và cảm phục sự hiểu biết đến độ kỳ dị của anh về thành phố Huế. Anh thích gọi Huế bằng những cái tên thân mật của nó, như xóm Đất Mới, xóm Chỉ, eo Bầy, nghẹo Giăng Xay, Cầu tiệm rượu... như người ta vẫn thích gọi những người thân trong nhà bằng cái tên móc nôi cha mẹ đặt cho hồi còn nhỏ. Và cùng với mỗi tên đường, tên xóm như thế, anh thường nhắc nhớ lại bao nhiêu sự tích của lòng dân, những sự tích cứ sinh sôi nảy nở mãi qua cuộc chiến đấu lâu dài, đã biến thành những sợi máu thắm thiết ràng buộc tâm hồn anh với Huế, ràng buộc tâm hồn Huế với cách mạng. Anh hiểu rõ lai lịch, tính nết của từng thằng địch, hiểu cha nó thích ăn trái vải trạng, anh nó thích nuôi chó béc-giê một cách tường tận khúc nôi như cách anh hiểu tính nết từng con cá trong đầm cần Hai, hiểu hột gạo de trên đồng An Cựu, hiểu các hột sen trong hồ Tịnh nó khác hột sen trong Nội như thế nào. Với tình yêu thiết tha đối với thành phố quê hương nung nấu tâm hồn anh suốt cả đời người, với sự hiểu biết đến độ thấm thía từng hòn đất từng con người ở một tập thể đã gồm nhiều người như anh Bốn, người ta hiểu tại sao bao nhiêu thủ đoạn của thằng địch ở trên đất này, ghê gớm và tàn bạo đến thế, vẫn không ngăn nổi phong trào nhân dân Huế ngày một lớn lên không ngừng.

Bây giờ tóc anh đã hoa râm, và anh được tập thể chỉ định đảm nhiệm chức vụ trưởng ban công kích và khởi nghĩa thành phố Huế.

Cuộc nổi dậy của quần chúng sẽ tạo ra một lực lượng mới, kết hợp với các lực lượng vũ trang, làm nghiêng hẳn cán cân lực lượng về phía cách mạng, đủ sức giành thắng lợi trong chiến dịch này trước gần tám vạn tên địch, trong đó có năm vạn tên Mỹ trên chiến trường Huế, với tất cả vũ khí hiện đại của chúng. Đó là sự khẳng định hết sức sáng suốt và quý báu của tập thể và anh Bốn đang trực tiếp nhận một phần lớn trách nhiệm trước tập thể trong sự triển khai nghị quyết này của thành phố Huế. Gần một tháng nay, anh và các đồng chí lãnh đạo gần như thức luôn trắng đêm để giải quyết hàng đống những khó khăn cao như núi chuẩn bị cho chiến dịch. Những khó khăn càng nhân lên gấp bội khi người ta còn phải chạy đua với thời gian. Nhưng cũng chưa bao giờ niềm tin ở thắng lợi lại vững chãi trong anh như những ngày này.

Những thế kỷ đấu tranh đã đi qua trên thành phố này và đã dựng lên những thành trì vững chãi của truyền thống gấp lại thành những cái nế của đất từ Nguyễn Huệ đến Cách mạng tháng Tám. Đó là những cái mốc của lịch sử đấu tranh của nhân dân Huế, là cuộc nổi dậy lật đổ Diệm năm 1963, là đồng khởi năm 1964, là phong trào đấu tranh và ly khai năm 1966... Giống như những sóng biển cứ cao mãi dần, đợt sau cao hơn đợt trước, cho đến khi đập vào chân núi Trường Sơn thì vỡ tràn ra. Cái thế của đất đai và thế người trên mảnh đất này đều thể hiện một cách rõ rệt cái quy luật ấy của lịch sử, và đấy chính là niềm tin ở nhân dân vẫn tồn tại trong trái tim của anh Bốn như một nguồn ánh sáng vô tận dù giữa những năm đen tối của thời kỳ thoái trào.

Những tàn bạo của kẻ thù từ giữa năm 1966 trở đi đã làm nảy nở những nhân tố tích cực mới về phía cách mạng. Cuộc chiến tranh bình định vào mùa khô thứ hai của chúng kéo dài mãi đến nay rốt cuộc đã làm dậy lên khắp miền đồng bằng Trị Thiên một câu hát đẹp như một phiến thép hồng cứ rực rỡ mãi trong lửa: Tan nhà nát cửa cũng ừ. Quyết tâm đánh Mỹ cực chừ sướng sau. Và cuộc đàn áp của địch giữa mùa hè năm 1966 chẳng những không làm chùn nổi ý chí đấu tranh của nhân dân Huế, trái lại đã tôi luyện kinh nghiệm đấu tranh của quần chúng thành một bài học hành động vô cùng quý báu: vì cái chủ yếu của kẻ thù là cây súng nên ta cũng phải cầm súng. Chính bài học kinh nghiệm ấy đã đẻ ra những tiếng nổ Nguyễn Văn Trỗi liên tục khắp thành phố, ở đồn cảnh sát Đông Ba, ở nhà bọn ác ôn, ở quân vụ thị trấn, ở 209 Chi Lăng, quán cơm Am Phủ, ở bến tòa Khâm... Rõ ràng là tình thế đã chín muồi cho một cuộc khởi nghĩa vũ trang thành phố, tình thế đang hứa hẹn một bước nhảy vọt mới. Đảng đang duỗi cả hai cánh tay của mình để đón quần chúng lên. Một tay ấn vào cái đòn bẩy để hất tảng đá nặng đè lên lưng quần chúng, và bàn tay kia vẫy gọi nhân dân đứng lên. Quân đội đã đập vỡ cái đầu não kìm kẹp của địch trong thành phố. Bây giờ cần phải giương ngọn cờ cách mạng lên thực cao...

Đồng chí sĩ quan đã chào anh Bốn ra về. Anh đ quay máy điện thoại.

– A lô! Sông Hương.

Giọng của vị chỉ huy mặt trận cánh Bắc Huế đáp lại trong máy:

– Tôi nghe rõ.

Nét mặt của anh Bốn nghiêm nghị, hơi lạnh, như thể người đối thoại đang đứng trước mặt anh.

– Đồng chí nhận lệnh: tăng cường thêm một mũi lên Cột Cờ, kéo cờ lên bằng bất cứ giá nào!

– Rõ!

Nhận được lệnh, đồng chí Tuyến theo một tiểu đội mạnh mang cờ đi ngay. Đến trước Ngọ-Môn, đơn vị sắp triển khai tiến lên Cột Cờ thì Tuyến nghe có tiếng gọi. Tuyến nhìn lên, thấy các đồng chí đang đứng trên cao vẫy xuống. Lên đến sân Cột Cờ, Tuyến thấy năm, sáu tên cảnh sát dã chiến bị trói gô nằm trong một góc sân. Bọn này do Thuận, Cúc và Sắt bắt trong Đại-Nội đưa lên đây. Mấy đồng chí giữ tù binh đang ngồi tựa lưng vào thành, lau súng bằng những tấm giẻ vàng xé từ lá cờ ba que rách tả tơi ún lại thành một đống lớn trên sân cỏ. Thuận, Cúc và Sắt bê cờ đến buộc vào dây. Lá cờ Mặt trận lớn gần một trăm mét vuông trải ra phủ gần hết khoảng sân cỏ rộng.

Nam đang lúi húi buộc cờ vào dây thừng, chợt có tiếng khàn khàn ở đằng sau:

– Con lạy các ông trăm lạy.

Nam ngoảnh lại. Một tên cảnh sát dã chiến đang cố lê đến gần Nam, run lên bần bật. Nam gắt:

– Cái gì mà lạy với lục?

Tên cảnh sát vừa vập đầu như máy, miệng lắp bắp:

– Con đã vô tay các ông rồi. Con biết con chỉ vì miếng cơm manh áo, không làm chi độc ác, sẽ được các ông khoan hồng. Các ông làm phúc cho con đi nơi khác, kẻo Mỹ nó thấy các ông treo cờ lên, nó đến ném bom thì chúng con chết hết thôi. Con còn một bầy con dại ở nhà... hu hu... hu hu...

Tên cảnh sát bật lên khóc như trẻ con. Nam bật cười hỏi nó:

– Vậy chớ Mỹ nó không sợ chết đồng bào à? Nó không tôn trọng di tích lịch sử à?

– Ôi chao, Mỹ hắn có kể chi chuyện nớ các ông ơi! Mô có các ông là hắn đem bom, đem đạn tới, lính cộng hòa hắn cũng không tha, nói chi đồng bào.

– À ra cái thằng "đồng minh" của các người tốt quá nhỉ! Nó bảo vệ tự do cho các người như thế đấy. Được tôi sẽ cho các người ra khỏi nơi đây. Để các người xem thằng chủ các người nó làm đếch gì được chúng tôi cho biết.

Nghe Nam nói thế, mấy tên tù binh kia vui mừng hớn hở ra nét mặt. Chúng bắt đầu kháo chuyện với tên chuẩn úy:

– Đây đánh, e chỗ khác họ cũng đánh anh hè?

– Đánh tuốt. Nghe nói họ đánh từ đây vô thấu Sài Gòn.

– Ui chao! Điệu ni e họ làm cho bay luôn cả ông Thiệu ông Kỳ có?

Nam để các bạn buộc cờ, anh cùng Cán xách súng đi tuần tiễu. Đến bãi tranh rậm trên mặt thành dưới chân kỳ đài, Nam phát hiện được xác của một tên cảnh sát dã chiến nằm cứng đờ úp mặt xuống đất. Nam khẽ đưa chân hất hất vào mông nó. Nam ngạc nhiên thấy cái mông nó nhổm lên, toàn thân nó gập lại như con sâu đo. Anh chĩa súng vào tên cảnh sát quát lớn:

– Giơ tay lên!

Nó quỳ người lên giữa vạt tranh, hai tay giơ lên đầu.

– Còn thằng nào nữa không?

Nó run rẩy:

– Dạ, còn bốn đứa kia nữa.

Nó vừa nói xong thì từ trong đám tranh, bốn cái đầu khác từ từ ngóc dậy như nấm mọc, đứa nào đứa ấy cúi gầm mặt, da tái ngoét, miệng mếu máo, nước mắt và bùn bê bết cả mặt mũi. Trông chúng thảm hại đến buồn cười. Nam dồn cả năm thằng lại một chỗ, hỏi:

– Súng ống chúng mày để đâu?

Thằng bị bắt đầu tiên, đầu trọc tếu như nhà sư, nhanh nhảu:

– Chúng em vứt ngoài đám tranh, em xin lấy đem nạp.

Nam để Cán bốn thằng kia, anh theo thằng đầu trọc đi lấy súng, có một trung liên ba, một các-bin và ba cực nhanh, tất cả đạn đã lên nòng, ném bừa bãi trong vạt những cây hổ ngươi rậm rạp sát bờ thành. Có lẽ tin rằng mình đã thoát chết, coi bộ tên cảnh sát hớn hở hẳn lên. Nó vừa gãi gãi cái đầu trọc của nó, nói liến thoắng:

– Hồi khuya nghe các anh gọi hàng chúng em không dám chống lại. Tưởng trốn một chập chờ các anh đánh xong rút đi...

Nam bật cười

– Cậu không ngờ "Việt cộng" đánh xong rồi ở lại luôn hả?

Tên cảnh sát "dạ" thực nhỏ nhẻ. Nó vừa đi vừa kể lể với Nam, nó rất sợ ra trận, phải bán chiếc xe hông-đa đút lót cho thằng thiếu tá trong Mang Cá để được cái chân làm lính giữ Cột Cờ. Nó còn nói thêm là nó biết lái xe, biết chèo đò; Mặt trận cần gì nó xin làm hết mình đái công chuộc tội...

Nam gộp tất cả bọn tù binh lại giao cho Cán dẫn chúng qua giữ tạm dưới cửa Ngọ Môn. Khi anh trở lại trên đài thì Thuận, Cúc và Sắt đang kéo lá cờ lên. Vừa lên cao được gần mười mét, lá cờ đã bung ra, bay phần phật trong gió. Gặp gió, nó trở nên khỏe lạ thường, sức của nó như một con đại bàng vỗ cánh, muốn kéo băng cả sợi dây chão to bay theo nó. Sắt giữ một đầu dây, còn Thuận và Cúc thì rút đầu dây bên kia để kéo lá cờ lên cao. Sáu cánh tay trần nổi vồng những bắp thịt níu vào hai đầu sợi dây chão lớn, ba cái lưng phơi gập xuống trên những cái chân co lại và duỗi ra trong thế triển khai toàn bộ sức mạnh của cơ thể, trông họ giống như những người đi biển đang giương cánh buồm của một con thuyền bắt đầu ra khơi.

Ngọn cờ đã kéo lên đến đỉnh cột. Trên tầng trời cao sương đã tan. Lá cờ Mặt trận vĩ đại bay trên nền trời trong xanh của mùa xuân, màu xanh bao la của hy vọng kết liền với màu đỏ tươi của máu và giữa lòng nó, năm cánh sao vàng như một bàn tay từ trong thăm thẳm của hàng nghìn năm lịch sử xòe ra, vẫy gọi Huế đứng lên. Lúc ấy là tám giờ mười lăm phút ngày ba mươi mốt tháng Giêng năm một nghìn chín trăm sáu mươi tám.

⚝ II ⚝

Viết đến đây, bỗng nhiên tôi thấy mình bất lực trong một niềm mơ ước kỳ lạ. Tôi ước có được một chiếc ống kính vạn năng có thể thu được chừng hai chục vạn hình ảnh con người trong một lúc ở khắp cả mọi hướng, ống kính ấy không những chỉ thu được những nét mặt mà còn soi chiếu vào tận chỗ sâu thẳm nhất của tâm hồn: không những chỉ thu tiếng động mà còn bắt được tần số của nhũng tiếng nói im lặng, và ống kính ấy không những chỉ ghi được những gì đang diễn ra trước nó, mà đằng sau cái hiện thực ấy, nó còn tái hiện được cả một quá khứ dài chừng hai mươi năm. Tôi sẽ đặt chiếc ống kính mầu nhiệm của tôi trên một điểm cao nào đó, thí dụ trên đỉnh cây thu lôi của Cột Cờ Phu Văn Lâu và tôi sẽ mở hết khẩu độ của ống kính chiếu xuống thành phố Huế đúng vào lúc mà bởi một sự tình cờ nào đó rất kỳ diệu, một đàn chim bồ câu bỗng từ phía Gia Hội bay qua trên đỉnh Cột Cờ, nghiêng cánh trắng lượn vòng quanh lá cờ sao vừa được ba chiến sĩ quân Giải phóng kéo lên trên bầu trời thành phố. Những hình ảnh mà ống kính giả tưởng của tôi thu được trong phút ấy, đem chiếu lên tấm phông lịch sử của miền Nam những ngày tấn công và nổi dậy đầu xuân Mậu Thân, tôi hy vọng có thể diễn tả được trạng thái tâm hồn của Huế khi lần đầu tiên nhìn thấy lá cờ Mặt trận bay trên đỉnh Phu Văn Lâu. Trạng thái tâm hồn ấy, xin phép bạn đọc thân mến, tôi gọi tên nó là "Huế Phục Sinh".

Những ngày đen tối nhất đã vội vã ập đến với Huế, ngay sau khi hòa bình lập lại. Vốn gờm mặt một nhân dân đã từng nổi dậy đạp đổ cả một ngai vàng, để củng cố triều đại mới của hắn, thằng Diệm đã ra sức xây dựng đất cố đô này lại thành một thứ ấp chiến lược kiểu mẫu của những thành phố miền Nam. Dưới nhãn hiệu "tố cộng", những chiến dịch giết người kéo dài từ năm này sang năm khác, thực hiện ý đồ thâm độc của Mỹ Diệm mu tiêu diệt sạch những mầm mống cách mạng trên mảnh đất kiên cường này, dập tắt hẳn trong tâm hồn dân Huế ánh phản chiếu huy hoàng của Cách mạng tháng Tám. Huế những ngày ấy là vòng đai của những trại tập trung thít chặt lấy ngoại ô, ở đó bọn ác ôn phục thù bất cứ lúc nào cũng có thể cầm dùi cui đập vỡ óc một người nông dân để moi cho ra một chút "tư tưởng cộng sản" còn bám lại trong đó, giẫm gót giầy lên bụng một phụ nữ có thai để làm phọt ra ngoài một giọt máu cộng sản còn đọng lại trong đó... Những trang sử oán thù của Huế còn nối dài mãi lên bằng nỗi u uất chồng chất lâu đời của những ngôi chùa bị xiềng bằng dây thép gai của chính sách kỳ dị và đàn áp tôn giáo, bằng cơn ngột ngạt oi bức của những người tri thức mà tư tưởng bị truy bức từng ngày từng giờ bởi móng vuốt của một con thú phát xít mới mệnh danh là "Chủ nghĩa cần lao nhân vị", bằng nỗi đau đớn của từng lớp thanh niên ưu tú lớn lên đã bị tước đoạt mất quyền cống hiến cho đất nước và cuộc đời để khoác áo thập tự quân cầm súng cho bạo chúa. Mãi sau ngày bọn Ngô triều bị lật đổ, cái ấn tượng ghê tởm đối với chế độ nguy quyền do chúng nó xây dựng nên vẫn còn ăn sâu trong tâm hồn người Huế, không gì có thể bôi xóa đi được, giống như vết máu đọng lại chiếc chìa khóa mở cửa tòa lâu đài tội ác của con yêu Râu xanh trong truyện cổ tích.

Cuộc sống của Huế không dễ thở gì hơn sau ngày bọn bạo chúa họ Ngô bị giết chết. Có chăng, bom đạn Mỹ đổ lên bến Tòa Khâm ngày càng nhiều hơn, lính Mỹ ngày càng kéo vào phố đông hơn, với bộ dáng chủ nhân ông ra mặt. Có chăng, những cuộc đấu tranh của nhân dân Huế càng bị đàn áp một cách tàn bạo hơn, nạn bắt lính ngày càng dồn dập và trắng trợn, con trai trong nhà chưa kịp lớn đã bị lôi vào trại nhập ngũ, trong khi đó tiếng ca-nông, bom và B52 ngày càng nổ gần, làm rung cửa phòng ngủ của từng nhà. Thành phố cổ kính thơ mộng xưa ngày một bệ rạc, xơ xác vì chất Mỹ. Cuộc sống cứ từng ngày trôi qua trong mòn mỏi, vô vọng, và những mơ ước tươi đẹp về hạnh phúc, niềm hy vọng về con cái, niềm khao khát về hòa bình và cơm áo,ự do và nhân phẩm cứ héo hắt mãi trong tâm hồn con người, như một đám lửa tàn lụi trong nắng hạn, không hy vọng gì còn làm ra được mùa màng. Mười lăm năm dồn lại cái đau của cuộc sống trong lòng người Huế vẫn còn mới rợi như ngày hôm qua...

Và bỗng nhiên, 8 giờ 15 ngày 31 tháng Giêng năm 1968, lần đầu tiên trong lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ngọn cờ Giải phóng được kéo lên trên đỉnh cột cờ Phu Văn Lâu.

Ngày tự do đầu tiên chợt đến, như bởi một phép lạ không ai ngờ.

Hàng vạn nhân dân Huế đã đổ xô ra, giành những chỗ đứng thuận lợi nhất để nhìn về Cột Cờ. Những gia đình xúm xít sau những ô cửa sổ trên lầu cao. Người dưới vạn đò kéo nhau lên đứng dàn hàng trên bờ sông. Những dãy phố đã biến thành những tầng người dưới thấp, trên cao, xếp thành những tầng dài lố nhố thẳng tắp như đêm nào dân Huế xếp hàng xem quân Giải phóng đánh vào khách sạn Hương Giang. Và trên mặt thành, trên lầu chuông những cửa ô, dân phố chen chúc nhau đứng nhìn về Cột Cờ đông đến nỗi để đề phòng pháo địch, các anh bộ đội Giải phóng phải chia họ ra từng nhóm nhỏ, luân phiên nhau nhìn cờ Mặt trận từ sáng cho đến mãi quá trưa.

Những nguyện vọng tha thiết về hòa bình, độc lập niềm mong mỏi được gặp lại những người thân yêu đã vắng từ lâu, tình cảm thiêng liêng hướng về Mặt trận dân tộc giải phóng, những kỷ niệm huy hoàng của ngày khởi nghĩa cướp chính quyền năm xưa. Tất cả những trình tự trăm nỗi vẫn xao xuyến trong lòng người dân Huế từ hàng chục năm trời nay, giữa buổi sáng đầu xuân này bỗng nhiên hiện thân một cách gần gũi vô cùng trên lá cờ Mặt trận phấp phới trên trời thành phố Huế như cô Tấm trong truyện đời xưa, sáng dậy bỗng thấy những ước mơ của mình trong giấc ngủ đêm qua hiện thành sự thực, khoác áo mới thênh thênh bước vào ngày hội lớn của cuộc đời.

⚝ ⚝ ⚝

Trong nỗi náo nức mới đang dậy lên trong từng căn nhà xóm Thượng Thành cửa Đông Ba, chị đứng dưới hàng thầu đâu [19] sau sân nhà, yên lặng ngắm lá cờ. Đằng xa tít, vượt lên trên những mái nhà và những vòm lá xanh, lá cờ chênh chếch theo hướng gió đông bắc, mặt lá cờ uốn cong lên rồi trải rộng ra từng đợt đều đặn như một mảng sóng rực rỡ lượn giữa nền trời quang đãng.

Chị nhớ lại lần đầu tiên chị nhìn thấy lá cờ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam, vào một ngày đầu xuân như thế này, năm 1961. Đêm ấy hai chị em đóng chặt cửa buồng, đốt nến để nhìn cho kỹ lá cờ, như Vịnh thường đăm đăm nhìn thực lâu khuôn mặt của mẹ sau những năm đi xa về thăm nhà. Chị hỏi Vịnh về ý nghĩa của màu xanh da trời trên lá cờ. Vịnh nói: “Màu xanh là miền Nam, miền Nam đang đấu tranh và hy vọng”. Tai chị như nghe rõ tiếng chân bọn ác ôn đi lại rầm rập ngoài đường, mắt chị như nhìn thấy hình ảnh Ánh ngã gục trước họng súng của bọn đao phủ, và trong trí chị lại hiện ra hình ảnh làng Đông Bàn quê ngoại, vẫn đứng hiên ngang bên bờ sông Thu Bồn, dưới móng vuốt đẫm máu của bọn Mỹ, Diệm phục thù. Ánh bị bắt một tuần lễ trước ngày hẹn cưới chị, và mấy tháng sau Ánh bị bọn Mỹ, Diệm bắn chết trong trại giam. Mẹ đi mua đồ cưới cho con gái về, nghe tin ấy, mẹ ngồi khóc rấm rứt. Mẹ nói: “Bọn hắn hung ác như con thuồng luồng trên cạn”. Rồi từ đó, những lúc quét cái nhà, sẩy mớ gạo, mẹ cứ lụm cụm vừa hát về Thạch Sanh một mình: “Đờn kêu tích tịch tình tang. Ai đem công chúa lên hang mà về”'. Chị không biết mong ai, nhưng sao trong chị, nỗi mong đợi cứ dài ngun ngút theo tiếng hát của mẹ. Bây giờ thì bài vè của lịch sử đang kể đến chuyện chàng dũng sĩ hiện ra ở phương Nam, sau lưng chàng trùng trùng người đang cầm gươm xông tới. “Miền Nam đang đấu tranh và hy vọng”. Tiếng nói của Vịnh lạ hẳn đi, như rất gần mà cũng lại rất xa, như thể là Vịnh đang cúi xuống nói vào lòng một cái giếng sâu thẳm nào đó trong tâm hồn chị, và chị nghe như chính lòng mình cất tiếng vang. Một năm sau, móng vuốt của con thú phát xít đã vồ đến người thân yêu thứ hai của đời chị. Vịnh đã quắc mắt nhìn cái bản án tử hình của thằng Diệm giống như cảnh Pa-ven Vlaxốp đã nhìn bọn quan tòa của Sa Hoàng. Không bao giờ chị quên được ánh sáng kỳ lạ tỏa ra từ đôi mắt đứa em trai yêu quý của chị khi Vịnh nhìn cái chết. Chị thấy nó giống như ánh mặt trời đúng ngọ phản chiếu trên hai mặt hồ trong suốt. Cái nhìn ấy khi quay về phía chị, nó dừng lại trên khuôn mặt chị, và trong khoảnh khắc vô cùng im lặng ấy, hình như nó truyền đến tai chị tiếng nói nghiêm nghị của Vịnh: “Chị đừng khóc, em không chết đâu”. Lòng chị tự nhiên ổn định hẳn lại. Chị thấy rõ ràng rằng bọn đao phủ không thể nào cướp mất hoàn toàn em trai chị. Có một phần nào đó thân thiết nhất trong sự sống của Vịnh không bao giờ bị tiêu diệt, nó mãi mãi thuộc về chị, sẽ luôn luôn có mặt với chị với mẹ và với đồng bào trong những cuộc đấu tranh. Mắt ráo hoảnh nhìn kẻ thù, chị bước vào giữa cơn bão căm hờn của nhân dân. Từ năm 1963 trở đi, năm nào gần đến ngày 20 tháng Chạp, chị lại thức đêm để may cờ, gói vào giấy báo trao vội vã cho những đứa em trai của chị vào những lúc chập choạng tối. Để rồi sáng hôm sau, đúng vào ngày kỷ niệm thành lập Mặt trận, bà con lại được nhìn thấy những lá cờ xanh đỏ bay phấp phới khắp thành phố. Cờ bay trên cửa Thượng Tứ, trên đỉnh cột cờ những trường học, trên ngọn cây ở ngã ba đường; cờ treo trên cột điện ở đầu cầu Kho Rèn, cầu ga, ngay trên đỉnh cột cờ đồn cảnh sát Phú Hội, và một lá cờ Mặt trận lớn phấp phới trên đỉnh núi Ngự Bình, đường bệ vẫy gọi... Những đứa em trai đi cắm cờ của chị lớn dần lên cùng với phong trào, mang cái dáng dấp ngang tàng của Vịnh ngày trước. Lư, Khoa, Hà... thoát ly, những Đồng, những Nguyệt vào lao Thừa Phủ, những Tần, Na, Tị, Truyền... đi đảo. Nhưng cờ Mặt trận mỗi năm lại xuất hiện nhiều hơn trong thành phố cắm ngay trên đỉnh trán kẻ thù.

Chị đứng dưới hàng thầu đâu sau sân nhà, yên lặng ngắm lá. Những cây thầu đâu này mẹ trồng từ hồi hòa bình mới lập lại, mẹ nói để hai năm nữa thống nhất, nó lên mát sân, mát nhà đón anh Sừ đi tập kết về.

Nghĩ đến mẹ, chị bỗng thấy thương mẹ vô cùng. Ba năm chị xa nhà, mẹ vô ra một mình một bóng trong căn nhà này. Những ngày mùa đông, mẹ trùm kín đầu bằng cái khăn nhung đen cũ đã rụng hết tuyết ấy ngồi lặng lẽ hàng giờ sau cái quán hàng xén nhỏ bày trước hiên nhà. Hẳn là ít người thân thích còn lui tới nhà mẹ, có chăng thỉnh thoảng một chú bé hàng xóm chạy tạt vào chìa ra một đồng mua vài cái bánh, hoặc một bác công nhân xích lô, vận tải ghé vào quán uống một ly rượu trắng, nói năm ba chuyện bâng quơ kín đáo an ủi mẹ một vài câu rồi đi. Những lúc ấy chị biết lòng mẹ trăm mối tơ vò. Mẹ thương cha bị Tây bắn chết trên đèo Hải Vân, thương thằng Vịnh bị đưa ra ngoài đảo không biết mất còn, thương thằng Ánh bị bắn chết trong tù, nhớ thằng Sừ ở ngoài Bắc, nhớ con Mai đi kháng chiến xa nhà, mẹ nhớ cả tiếng kêu xành xạch mệt nhọc của chiếc máy may già cũ trong những ngày chị còn ở nhà may áo thuê nuôi gia đình. Những ngày mùa đông dài dằng dặc ấy, hàng cây thầu đâu đã trụi hết lá chĩa những cành khô nhằng nhịt trên sân nhà. Bầy chim chuốc mào ăn trái thầu đâu chín suốt cả mùa hè, nhớ cây nên tạt ngang qua đó đậu nặng trĩu trên những ngọn mềm, ướt rũ và im lặng như những chùm trái khô. Có lần ở trên rừng chị nhận được thư mẹ, lời mẹ chị nhớ như in: "... Con Ty chị nay đã bận bịu tay bồng tay dắt, con Ty em thì ăn chưa no lo chưa tới. Cả nhà nay chỉ còn mình mi khôn lớn, bay nhảy được với chị, với em. Cực khổ mấy mạ chịu cũng được, miễn răng mi cố gắng theo cách mạng để trả thù cho cha mi, cho thằng Ánh, cho thằng Vịnh. Hết cơn bĩ cực tới tuần thái lai, hết giặc mạ con lại gặp nhau lo chi..."

Sáng nay, như trong một giấc mơ, chị trở về gặp lại mẹ đứng nhìn cờ lên dưới hàng cây này.

Ba năm qua chị xa nhà, hàng thầu đâu không cao thêm, nhưng đã trổ thêm nhiều cành mới, tỏa ra che kín cả mái nhà. Trên những thân cây to khỏe, vỏ cây nứt thành những đường sóng chi chít như cây kiền kiền trên rừng và từ những đường nứt ấy, nhựa mới trào ra từng dòng trắng nõn như bột lọc. Lá chưa rậm như mùa hè, chỉ mới xòe ra thành từng chòm lổ đổ trên cành. Nhưng cái màu lục của nó trông mới tinh khôi, tươi trẻ một cách kỳ lạ khiến chị nghĩ đến một sắc áo ngày Tết. Và dọc theo những cành cây màu nâu bóng lấm tấm những chấm vàng như da lươn, những chùm hoa thầu đâu trắng phơn phớt tím đã nở sum suê thơm ngát cả khu sân. Cái mùi hương kỳ dị của hoa thầu đâu, nó nồng nàn đến độ như thấm vào từng tế bào của trí nhớ, khiến cho những buổi hoàng hôn ngày xưa, nghe thấy nó là chị cứ nghĩ đến những người vắng mặt trong căn nhà này và bây giờ thì nó chợt đánh thức dậy tất cả những gì đang lắng xuống sâu nhất trong tâm hồn chị.

Trong bộ quần áo bà ba bằng lụa đen, lấm tấm những vết bùn trên đường hành quân, với chiếc băng đỏ vòng trên cánh tay và khẩu Walter trên thắt lưng, khuôn mặt chị bỗng hồng hào trở lại, có lẽ còn trẻ hơn ba năm trước đây khi chị bước khỏi căn nhà này. Cái dĩ vãng đầy những lo âu, nặng nhọc như mùa đông trên hàng thầu đâu này bỗng như tiêu tan hẳn trong căn nhà thân yêu của chị, và chị nghe thấy trong tâm hồn một cái gì đang rạo rực sống lại.

Căn nhà hiu quạnh bấy lâu bây giờ trở thành trung tâm của cả xóm, đầy tiếng nói cười. Cờ Mặt trận mọc lên san sát phấp phới đầy cả khu xóm Thượng Thành này, những cánh sao vàng chen chúc trước những hiên nhà, nở rộ như hoa mai. Đàng xa, lá cờ Mặt trận vẫn bay phơi phới trên bầu trời thành phố, hào sảng như một người tráng sĩ xưa giật cương cho vó ngựa chồm cao lên giữa trận địa. Từ đỉnh núi ấy chị như nghe lá cờ cất lên một tiếng gọi mãnh liệt đến nỗi chị thấy háo hức muốn băn mặt thành chạy thực nhanh để đến đứng dưới cái bóng hùng tráng của nó.

Bỗng nhiên, những mơ ước nuôi nấng suốt cả một tuổi trẻ đầy dông bão, những hy vọng về cuộc đời đã đâm chồi giữa những tháng năm dài làm ăn vất vả trong căn nhà này, những giấc mơ đêm xuân, những hứa hẹn thầm lặng của chị với những người đã chết, tất cả những thứ ấy vút lên, kết tinh vào giữa ngôi sao trên đỉnh Cột Cờ Phu Văn Lâu. Có cái gì đấy khẽ động vào trái tim chị như một tình yêu sống lại và hai giọt nước mắt trong veo không ngờ bỗng trào ra khóe mi, lăn tròn trên khuôn mặt đang phảng phất nét cười vui của chị.

Chị tên là Lê Thị Mai, người con gái Huế bị địch bắt đầy lên trại giam Ba Làng ba năm trước, đã vượt ngục trở về, hôm nay đang có mặt trong cuộc khởi nghĩa của nhân dân Huế.

Đơn vị đã bố trí xong trận địa chung quanh Cột Cờ. Khẩu đội phòng không của Việt đóng ngay dưới chân Cột Cờ. Khẩu đại liên giá trên mặt đất, sát ngay miệng một chiến hào đào hình chữ L, dùng làm chỗ đứng cho xạ thủ. Bầu trời vẫn bình yên, chưa thấy địch phản ứng gì. Việt ngồi bệt trên sân cỏ, day mặt nhìn ra ngoài sông. Mặt trời đã lên cao, sương mù tan hẳn. Sông Hương xanh biếc, êm đềm như một tấm lụa chảy lòn qua dưới sáu vài [20] cầu trắng, màu dụ bạc phản chiếu ánh nắng chấp chóa. Bên kia sông, những đám lá xanh đậm nhạt khác nhau, màu đỏ và trắng của những tường vôi, những đường gãy khúc rất sắc của những mái ngói đỉnh nhà thờ nhọn vút tất cả hiện ra thực rõ nét dưới ánh nắng trong ngần, Việt có cảm tưởng như thành phố vừa qua một cơn mưa. Trên những tòa nhà đồ sộ có lẽ là những cơ quan ngụy quyền, Việt nhìn thấy rõ những chấm sao vàng lay động trên những vệt đỏ của cờ Mặt trận và cờ Liên minh, thấy rõ cả những cái bóng ung dung của những toán bộ đội đi lại dưới những hàng cây xanh. Lẩn trong ting súng cối và súng con vang lại từ một vài khu vực nào đó trong thành phố, Việt còn nghe rõ cả tiếng còi xe "toe toe" âm vang trên mặt sông, tiếng trẻ em reo cười từ xóm Tỳ-Bà-Trang ở gần cột cờ hòa với tiếng thùng sắt tây, tiếng phèng la truyền từ xóm này qua xóm khác trong Thành-Nội.

Một lúc sau, nhân dân ở các xóm cửa Ngăn và Tỳ-Bà-Trang trên Thượng Thành đã kéo đến đứng lố nhố dưới chân Cột Cờ. Những người đàn ông khẽ cúi đầu chào bọn Việt bằng mấy tiếng “chào các ông” rồi yên lặng đứng ngắm lá cờ. Các mẹ mang theo những bình tích nước, những đĩa mứt gừng và hạt dưa đến mời từng người trong bọn Việt, hỏi han và hình như mẹ nào cũng tỏ vẻ ngạc nhiên về sức khỏe của các chiến sĩ quân Giải phóng bằng những câu tương tự: "Nhờ ơn trời phật, hồng hào mập mạnh cả, có đến nỗi chi". Một cháu bé bụ bẫm mặc áo hoa mang giày đỏ, đút ngón tay vào miệng, mở mắt thao láo đứng nhìn các chú bộ đội. Mẹ nó đứng cạnh, bảo:

– Con vòng tay thưa mấy chú đi con

Đứa bé rụt rè ngoẹo đầu nhìn mẹ nó, nhưng khi Nhật vẫy tay gọi nó, nó nhoẻn miệng cười chạy đến sà vào lòng Nhật. Một bà mẹ mặc áo dài màu khói hương, đầu tóc hoa râm, đến ngồi bên cạnh Việt. Bằng cử chỉ thân thiết tự nhiên như đã quen thân từ lâu, mẹ sờ nắn trên vai, trên tay Việt, giọng mẹ run run:

– Trời ơi! Người ta ra ri mà bọn hắn cứ nói ở côi núi, ăn đá ăn lá, xanh xao vàng vọt.

Mẹ để yên bàn tay mẹ trên tay Việt, thỉnh thoảng mẹ nhìn thoáng khuôn mặt của Việt rồi ngó đi nơi khác. Khi Việt nhìn lại mẹ, Việt thấy mẹ không khóc thành tiếng, nhìn nước mắt mẹ ràn rụa. Việt bối rối mãi. Anh cười thực to để giấu sự xúc động của mình:

– Chúng con khỏe như trâu cả, mẹ ạ.

Mẹ gật đầu “ừ, ừ, bác mừng” rồi kéo vạt áo chùi nước mắt. Giữa lúc ấy, một cậu thanh niên mặc áo len xù nước da trắng, quần chật ống, mang giày không bít tất từ từ đi đến phía Việt. Cậu chỉ vào khẩu đại liên, hỏi Việt:

– Cái này để bắn tàu, hả anh?

Việt đáp:

– Bắn cả dưới sông lẫn trên bộ, nhưng chủ yếu là bắn trên này.

Việt vừa nói, vừa đưa tay chỉ lên bầu trời Cột Cờ. Cậu thanh niên "a" một tiếng ngạc nhiên. Rồi cậu quay lại vẫy mấy cậu bạn khác đang xúm xít chung quanh chỗ Ký và Hải đang lúi húi chữa lại hai khẩu ca-nông 20 ly vừa lấy được của địch:

– Ê súng phòng không tụi bây ơi!

Cả bốn, năm cậu chạy ùa đến. Cậu mặc áo len xù chỉ vào hai khẩu súng đồng đặt dưới chân Cột Cờ, liến thoắng:

– Mỗi buổi sáng, bọn lính ở đây đun ngòi vô đí