← Quay lại trang sách

THÁNG BA Ở TÂY NGUYÊN I
MỘT CÁCH NGHĨ CÒN RỤT RÈ TRƯỚC MỘT TÌNH THẾ ĐÃ BAO LA

Bài viết đầu tiên của năm 1975 đáng nhẽ phải được bắt đầu từ đêm 29 tháng Ba. Suốt một đêm ấy tôi không ngủ, cứ đứng sững ở tầng lầu hai của khách sạn HB, nhìn xuống đại lộ Trần Hưng Đạo đếm từng đoàn xe từ phía bắc thành phố Huế ào ào chạy qua mặt đường ướt đẫm ánh điện, vượt cầu Tràng Tiền, trở ra quốc lộ 1, đổ xuôi xuống Đà Nẵng vừa được giải phóng trong ngày. Xe vận tải quân sự, xe ca chở khách thường chạy trên các đường hàng tỉnh của miền Bắc, xe bọc sắt, xe tăng, xe chuyên chở cầu phà, xe chở xăng dầu, xe kéo pháo, xe kéo tên lửa, xe con chở cán bộ chỉ huy và cơ quan của các bộ tư lệnh. Tiếng động cơ của hàng ngàn cỗ máy nổ, xích sắt lăn nghiến trên mặt đường, một đoạn hợp ca bay lơ lửng, tiếng người chỉ huy hướng chạy cho đoàn xe lảnh lói ở một góc phố. Cái vệt dài vừa ồn ào vừa lặng lẽ, đoạn sáng đoạn tối, chuyển động đều đặn và trật tự như mãi mãi, như vô tận. Cái dòng người và xe và súng đạn bắt đầu từ đâu, chỗ bắt đầu của nó là ở đâu, khối người và xe đầu tiên xuất phát từ địa điểm nào, gồm những đơn vị nào, đi trong thời gian nào, và đâu là đoạn cuối của nó, những đơn vị sau cùng của nó? Người đi đầu tiên và người đi sau cùng khoảng cách là bao lâu, đoạn dài là bao xa? Cứ cho là đơn vị đầu tiên xuất phát từ ngày mồng 1 Tết năm Ất Mão? Không đúng! Có những đơn vị đã hành quân từ trước Tết, ăn Tết dọc đường. Hãy tính xa hơn: Đơn vị đầu tiên đã lên đường vào mùa xuân năm Giáp Dần? Vẫn chưa đúng! Họ đã đi từ Tết năm trước. Họ đã ra đi từ Tết những năm trước nữa. Tôi được biết có những bạn bè trở lại chiến trường cũ từ năm 1960. Đã là mười lăm năm! Thật ra khoảng cách và dặm dài của cuộc hành quân này phải tính theo chục năm, tính theo thế hệ, phải nhìn vào những cột số của Lịch sử. Là tháng 9 năm 1945! Là tháng 12 năm 1944! Là tháng 2 năm 1930! Quãng giữa là những tháng ngày, những sự kiện, những nhân vật lừng lẫy, phi thường.

Đứng phơi mặt ngoài trời cả đêm, đứng không đổi chỗ, ý nghĩ mờ mờ ảo ảo, vừa là chính mình, vừa là người khác, quen thuộc vô cùng mà cũng ngỡ ngàng vô cùng. Việc tin chắc trước sau rồi cũng phải xảy ra đúng như thế, mà lại chưa hẳn tin sao lại có thể xảy ra gọn ghẽ, lẹ làng đến thế. Biến động lịch sử là gì? Là như thế đó! Là khi những dấu hiệu đầu tiên của những tháng ngày vĩ đại đã xuất hiện thì ta vẫn còn phân vân tự hỏi: đó là loại hiện tượng gì? Là khi những sự việc xảy ra có vẻ giống như trước đây, như là sự lắp lại những cái trước đây, nhưng ý nghĩa của nó thật ra đã thuộc về một giai đoạn hoàn toàn mới, đòi hỏi phải có ngay những phản ứng mới, những hành động mới. Là khi đã được tắm mình trong biến động đó bỗng chốc ta chợt nhận ra, như lần đầu tiên, cái ý nghĩa then chốt những việc đang làm và cả những việc đã làm, là ta cũng sẽ nhận ra, như là lần đầu tiên, tầm vóc của chính ta và cái tập thể to lớn bao quanh ta. Là khi sự lớn lên của mỗi người gần như có phép mầu, tài giỏi hơn cả bao giờ, táo bạo hơn cả bao giờ, uốn lượn theo sóng gió của lịch sử một cách tài ba, quyết định trong phút chốc những việc vô cùng ghê gớm mà không hề có mảy may sai trật.

⚝ ⚝ ⚝

Đi theo bộ đội vào chiến dịch lần này không phải không nhận ra những dấu hiệu của một năm quan trọng, nhất là với tôi lúc ra đi đã quá muộn. Chúng tôi ra đi khi chúng ta đã có trọn vẹn ba tỉnh Tây Nguyên, đã tổ chức một cuộc bao vây truy kích tài tình nhất ở Cheo Reo, Củng Sơn, dọc con đường 7. Khi chúng ta đã giải phóng toàn tỉnh Quảng Trị, đã vượt sông Mỹ Chánh và đang vây hãm Huế. Đã giải phóng Quảng Ngãi, giải phóng Tam Kỳ, dồn ép địch co rút về Đà Nẵng và khu vực xung quanh. Vẫn biết là đang đi vào một năm khác thường, nhưng vì sao lại có thể là trong năm nay, lại bắt đầu từ cái tháng Ba này thì chưa hiểu. Chưa thể hiểu do đâu sức kháng cự của địch lại đột nhiên quá yếu ớt, sự rút chạy của chúng quá hoảng hốt, quá hỗn loạn. Chúng ta đã gặp được may mắn chăng? Kẻ địch đã rơi trượt vào một sai lầm rất đỗi nghiêm trọng chăng? Hoặc giả một yếu tố nào đó rất kỳ lạ, rất khác thường, vượt khỏi dự tính đã xuất hiện? Nghĩ tới cái khác thường, bởi vì quân địch còn đông, vũ khí chưa thiếu, tuy đang gặp nhiều khó khăn rất nan giải, đâu đã đến nỗi tan vỡ quá dễ dàng. Chúng tháo chạy như có một cái đích để nhắm hẳn hoi. Chúng tháo chạy như muốn nhứ dử chúng ta bước sâu vào một cạm bẫy ác hiểm nào đó. Vì rằng suốt ba chục năm chiến đấu, có bao giờ được chứng kiến một kẻ địch tháo chạy dễ dàng. Vốn quen tính mỗi thước đất một vệt máu, nay lướt xe hàng trăm cây số mà máu đổ không nhiều nên không khỏi có chút ít ngờ vực. Xét cho cùng, thì sự rút chạy nào cũng đều do bị ép buộc, bị thúc bách. Rút chạy một bộ phận để cứu gỡ cái toàn thể. Phải có cái đã đổ vỡ và cái còn có thể vớt vát thì mới nghĩ ra cái kế rút chạy. Ấy là nói nếu như có một cái kế rút chạy thật. Không dưng ai muốn chạy. Không cảm thấy bị đe dọa, bị tiêu diệt, việc gì phải bày đặt ra cái trò rút chạy. Dầu là rút chạy trong chủ động, trong kế hoạch, trong trật tự và an ninh tuyệt đối thì vẫn cứ phải để lại cho đối phương một nửa những cái đã có. Nếu không để lại thì cũng phải hủy đi. Vẫn cứ là một sự mất mát nặng nề. Đằng này chúng không chỉ “để lại” hầu như trọn vẹn của cải mà còn cả những đội quân cũng gần như trọn vẹn. Mất của còn mong bù đắp lại được, mất đất còn mong đánh chiếm lại được, chứ đã để mất đi những đội quân vào hàng tinh nhuệ thì bù đắp bằng cách nào? Mà đã mất đi những đội quân thì chẳng thể có mưu đồ nào được thực hiện, nếu như bọn chúng còn nuôi dưỡng một mưu đồ. Vậy thì ta thắng là do bộ đội ta mạnh, mạnh về mọi mặt, mạnh hơn cả mọi năm; quân ngụy thua là do chúng yếu, yếu hơn ta nghĩ nhiều, yếu trong mọi mặt. Nhưng chúng ta đã mạnh lên như thế nào, mạnh bên trong gian nan, trong thiếu thốn, trong vô vàn khó khăn của một cuộc kháng chiến kéo dài? Chúng đã yếu đi như thế nào, yếu đi giữa những kho bom, kho đạn, những sân bay, những quân cảng, những xa lộ? Yếu đi giữa những hàng hóa, của cải do Mỹ trút vào để trang điểm cho một mặt hàng? Giữa những lon, ngù, mũ, gậy do Mỹ cấp phát để tô vẽ cho một thể chế?

Đó là những bí mật mà lần đi này phải tìm ra những căn cứ xác thực để hiểu được đến cốt lõi. Một nhiệm vụ kể ra cũng là dễ dãi vì lời giải đâu có giấu kín. Dễ dãi nhưng không phải là ít hứng thú. Còn như bạn đọc lại không cảm thấy hứng thú thì hiển nhiên phần trách nhiệm phải thuộc về kẻ thuật chuyện rồi.

⚝ ⚝ ⚝

Ra khỏi vùng ngoại ô phía nam Hà Nội là đã nhận ra ngay cái cảnh tượng hội hè của chiến dịch sau chót. Còn nhớ một lần được đọc một câu thơ, đại ý: đi đánh Mỹ vui như đi trẩy hội. Cảm thấy ý thơ lãng mạn quá. Những năm đánh Mỹ là những năm cực nhọc, gian nan khôn xiết, tự hào hơn cả bao giờ, mà chịu đựng cũng vô cùng. Vẫn có tiếng cười, vẫn có tiếng hát, nhưng ngắm kỹ từng khuôn mặt không ai không có những nếp nhăn của ưu tư. Trung ương lo việc cả nước, cán bộ lo việc từng ngành, từng đơn vị từng địa phương. Trong mỗi gia đình cũng kẻ ở người đi sum họp chia phôi mấy bận, tháng này nhận được tin vui tháng sau đã phải nhận tin buồn, chăn chiếu, mùng màn mỗi người cầm đi một mảnh, bà nuôi cháu, chị địu em, hạt gạo cắn ba, hớp canh sẻ nửa, con mặc áo của bố, mẹ nhường quần cho con, nước mắt lúc vắng người, nụ cười lúc đông người, an ủi nhau, nâng dắt nhau năm này qua năm khác cho mãi tới mùa xuân của năm này. Mùa xuân năm 1975, chợt nhớ lại câu thơ ngày nọ, tưởng đâu như tiếng reo tự nhiên của lòng mình, chính mình đã từng viết nên câu thơ đó. Chiếc xe con của chúng tôi đã khôn ngoan vượt lách hai đoàn xe vận tải quân sự với hy vọng sẽ được chạy thênh thang trên đường 1. Nhưng sự khôn ngoan ấy đã lỗi thời! Vượt qua được đoàn xe này thì trước mặt đã là một đoàn xe khác, rồi một đoàn xe khác, lại một đoàn xe khác, xe chạy như vô tận, xe bịt bạt, đuôi bạt căng gió kêu như trống đập, xe cuốn bạt hai bên chật ních những khuôn mặt căng đỏ, tươi sáng, mũ mới, quần áo mới, súng đạn mới. Thị xã Vinh xanh lè những màu mũ, màu quần áo và ba lô của người ra đi. Rồi cũng vẫn là xe, là súng, là người. Xe con nối theo xe lớn, chen vào giữa đoàn xe lớn, chạy trước họ, rồi tụt sau họ. Người ngồi xe con nhìn lên người ngồi xe to, người ngồi xe to nhỏn nhoẻn cười, hỏi người ngồi ở xe con:

– Các chú ơi, bây giờ mới được đi có muộn quá không?

– Gặp nhau ở Đà Nẵng nhá!

– Hẹn gặp ở dinh Độc lập!

Xe vẫn chạy. Tiếng gọi hỏi bay lươn lướt bên tai của xe này, của xe kia. Dừng lại với nhau mươi lăm phút đợi phà, mùi quần áo mới, mùi da thịt trẻ bọc quanh nồng nàn, ngây ngất.

– Em quê ở Hải Hưng à?

– Bọn cháu đều ở Hà Bắc.

– Các em sinh năm nào?

– Cháu sinh năm 1956.

– Cháu sinh năm 1957.

Hưng Yên? Có Hải Hưng không? Đấy, đấy, bọn nó đều là dân Hải Hưng cả. Tiên Lữ? Chúng nó đi trước rồi? Khoái Châu, hả? Thanh niên phủ Khoái! Xin chào các đồng chí! Chúc các em lên đường may mắn, lập được nhiều công! Chúc đồng chí nhà báo lúc đi biết một, lúc về biết mười! Hẹn gặp! Lại gặp nhau trong đó nhé!

Sáng sớm, ngồi trong xe bàn nhau sẽ ăn trưa ở Hà Tĩnh. Đến Hà Tĩnh còn sớm quá, lại hẹn đến Đồng Hới. Đã đến Đồng Hới tội gì dừng lại ăn cơm, qua Quán Hàu thôi, ở đó có phà, đợi hàng ngàn xe qua phà thì hết đêm chưa chắc đã sang được. Xe lại chạy, ăn lương khô, uống nước chè đặc cũng đã là sang lắm, ung dung lắm so với những lần đi chiến trường của những năm trước. Chạy đi thôi! Chạy nhanh lên! Chiếc xe con lao tuột xuống mố phà Quán Hàu thật ngổ ngáo, nhưng, ô kìa, đâu chỉ có một xe con mà đã vội lao lên phía trước. Đưa mắt nhìn ngang ngó dọc hàng trăm xe con đã sắp xếp thành hàng lối đợi lượt qua phà. Duy nhất có mỗi chiếc xe đến muộn lại định giở trò tranh chấp. Nhìn lại một lần nữa, hầu hết là người quen biết, là các cấp trên của mình ở các cơ quan bốn tổng cục của nhiều binh quân chủng. Đồng chí Hùng, nguyên là tham mưu phó một quân khu, vừa cười vừa gọi to, giọng khàn khàn: "Xe nhà báo còn chạy mãi đâu thế?". Cả mọi người đều nhìn bọn tôi mà tủm tỉm cười. Thế đấy! Mấy thằng nhà báo đến hay giở cái trò láu vặt. Đành vậy, đành phải phơi mặt ở mố phà này cả đêm nay thôi. ăn chiều nay ở đâu? Trưa mai ở đâu? Nhanh ra cũng phải trưa mai mới tới lượt sang phà. Phà đã quay sang. Các xe đến lượt được qua nổ máy. Các anh sướng nhá! Qua được đoạn sông này là cứ phóng thẳng đến tận bờ sông Thạch Hãn. Nghe nói công binh đã bắc được cầu phao ở đó rồi. Họ sẽ ăn bữa trưa mai trong thành cổ Quảng Trị. Có thể ăn bữa trưa ở bờ nam sông Mỹ Chánh. Trời ơi! Bao giờ đến lượt mình? Lại vẫn cái giọng khàn khàn quen thuộc từ đám người đứng lố nhố ở mố phà gọi với lên.

– Xe mấy cậu nhà báo đâu?

Tôi chạy vọt lại như tên bắn:

– Có tôi!

– Cho xe xuống đi?

– Xe tôi hả? Xe tôi được xuống phà à?

– Ưu tiên nhà báo!

Lại thế nữa! Những người nhường bọn tôi đều đang cầm trong tay những nghị quyết, những phương án, những mệnh lệnh, tức là những thứ nóng cả. Còn bọn tôi, chậm vài ngày nào có sự tổn hại gì, thì bọn tôi chẳng đã bị chậm cả tháng đấy ư? Hết sức biết ơn các đồng chí. Thôi! Xuống đi! Con nhà lính mà ăn nói cũng màu mè. Lúc nào có sách thì nhớ gửi cho nhau! Lại con đường 1, lại xe và súng và người. Lại gọi nhau, hỏi nhau, đùa giỡn nhau trong giây phút xe nọ chạy bám lấy xe kia, rồi vượt qua, rồi lại bám đuổi một xe khác. Mặt người mờ đi trong đám bụi đã bắt đầu đỏ. Nắng tháng Ba vàng rực như mật phết, cái nắng hanh khô, nồng đượm, nói cho văn vẻ hơn sẽ là cái nắng ngọt ngào. Đi vào chiến trường giữa lúc các mặt trận ầm ầm tiếng súng tấn công, mà đi giữa ban ngày, mà hành quân nối xe nhau suốt một chặng đường dài năm trăm cây số, mà các bến bãi toàn là người, là xe, là xăng, là các thứ binh khí kỹ thuật. Đi đánh một triệu quân ngụy được coi là con ruột của Mỹ mà không thèm để ý đến người đẻ ra nó, đến ông chủ của nó. Thì người Mỹ cứ giả đò kinh ngạc, giả đò hỏi han, rồi tranh cãi, rồi hăm dọa, mặc! Việc mình mình cứ làm, không ai ngăn được, không kẻ nào dọa dẫm được. Chúng ta sẵn sàng đương đầu với mọi biến cố có thể xảy tới. Như mùa xuân năm 1968. Như mùa hè năm 1972. Như những năm dài còn cả nửa triệu lính Mỹ ở đất liền, ở trên không, ở ngoài biển. Cái tư thế đĩnh đạc, thản nhiên của lần xuất quân năm nay đủ là một bằng chứng hiển nhiên của sự thách thức đó. Mà cũng chẳng phải chủ tâm thách thức một ai, việc của mình mà. Chẳng lẽ chúng ta lại không có quyền chăm lo công việc của chính chúng ta?