⚝ VI ⚝ NHÂN VẬT THÂN YÊU CỦA BA CHỤC NĂM KHÁNG CHIẾN
CHIẾN SĨ...
Năm 1947, cách đây đã hăm tám năm, tôi là chiến sĩ của đại đội 14, thuộc trung đoàn 64. Chính trị viên đại đội là anh Thông Sơn. Gần ba chục năm sau, trở lại trung đoàn cũ lấy tài liệu về trận đánh quân địch rút chạy tại khu vực Cheo Reo - Củng Sơn lại gặp anh Thông Sơn, hiện nay là chủ nhiệm chính trị của sư đoàn 320. Đồng chí Cối, trung đoàn phó trung đoàn 64, tỏ vẻ ngạc nhiên "Anh cũng đã là lính của sư đoàn này à?". "Đúng thế, tôi đã là chiến sĩ của trung đoàn 64". "Năm nào?". "Năm 1947, tức là đã 28 năm". Tôi hỏi tại đồng chí Cối: "Anh sinh năm nào?". Đồng chí Cối cười: "Năm 1947, năm nay đã là 28 tuổi". Hăm tám năm, hai cuộc kháng chiến đánh Pháp rồi đánh Mỹ, từ đồng bằng Bắc Bộ đuổi giặc lần lần đến tận đồng bằng Nam Bộ và kết thúc cuộc chiến tranh giải phóng. Nhìn trước nhìn sau chưa gặp một ai là người quen cũ. Năm ấy tôi mới mười bảy tuổi, cùng với một người nữa là liên lạc của đại đội kém tôi hai tuổi, một đứa mười bảy, một đứa mười lăm, hai đứa nhỏ tuổi nhất của đại đội. Nay, một người đã bốn mươi lăm tuổi, người kia nếu còn cũng đã bốn mươi ba, vậy thì lứa tuổi thanh niên ngày ấy cũng phải trong ngoài năm chục cả. Cầm súng đánh giặc từ thủa còn thơ, rồi lấy vợ, rồi đặt tên con bằng tên những chiến dịch đã được tham gia, rồi tiễn con tòng quân, rồi cha con lại gặp nhau ở cùng một chiến trường, đến lúc ấy mới được ăn mừng hoàn toàn thắng lợi. Còn nhớ tết năm 1947, đồng chí đại đội trưởng của tôi nói chuyện trước hàng quân: "Tết sang năm chúng ta sẽ về Thủ đô ăn một cái tết Độc Lập hoàn toàn.". Anh ơi! Cuối năm 1947 anh đã hy sinh ở mặt trận Bần Yên Nhân, và phải hăm tám năm sau, phải đến mùa xuân năm Ất Mão chúng ta mới giành được Độc Lập hoàn toàn trong cả nước.
Về đơn vị cũ, lấy tài liệu về những trận đánh nối tiếp suốt hai chiến dịch sau cùng, lòng dạ cứ bâng khuâng những thương, những nhớ. Gặp người hôm nay lại nhớ đến những khuôn mặt vô cùng quen thuộc của đồng đội năm nào; nghe kể những trận đánh của tháng Ba, tháng Tư năm 1975, lại nghĩ nhiều đến những trận đánh của năm 1947, năm 1948. Xưa kia chúng tôi không có ba lô, cán bộ trung đội khoác cái bị đựng một bộ quần áo thay, vài cuốn sách đọc dở. Các đội viên thì chỉ một khẩu súng, hai bao đạn, hai quả lựu đạn, quần áo vấn chặt trong cái chăn mỏng quấn chéo một bên và không có mũ, không có giày, quần áo cũng năm có năm không. Đến đâu dân thổi nấu cho ăn, bị thương dân cho thuốc, hy sinh cũng vẫn là dân cho vải liệm và hòm chôn. Thanh bạch và nhẹ nhõm vô cùng. Đến hôm nay, nhìn vào ba lô của người chiến sĩ ra trận cũng vẫn là rất thanh bạch: một cái võng, một bộ quần áo thay, vài cuộn bông băng, một cóng muối riềng. Ngoài ra là gạo, là đạn, trăm rưởi viên đạn AK, một quả đạn B40, hai quả cối 82 mang giúp cho đại đội hỏa lực. Đi xe có đoạn, có lúc còn đi bộ là hàng ngày, hành quân bộ nhưng gạo đạn không được thiếu nên phải chia nhau mà mang vác.
Khi trung đoàn 48 của sư đoàn 320 nổ súng đánh quận ly Thuần Mẫn thì tiểu đoàn 9 của trung đoàn 64(cũng thuộc sư 320) rải quân chốt chặn nhánh đường 7B từ ngã ba Thuần Mẫn đến tây thị xã Cheo Reo. Còn con đường 7 địch sẽ rút chạy thì bắt đầu từ nga ba Mỹ Thạch qua thị xã Cheo Reo, qua Củng Sơn đến thị xã Tuy Hòa. Trận địa phục kích chủ yếu của tiểu đoàn 9 là tây Chư Pa(bắc nhánh đường 7B). Trong năm ngày, bộ đội đã đào một đường nhỏ ven chân núi, qua đường B, đến tận chân mỏm cao 758. Rồi xây dựng các hầm chốt nhiều hướng, nhiều tầng, làm các bãi mìn và lựu đạn. Đại để, một trung đoàn ngụy có lực lượng thiết giáp yểm trợ rơi vào đoạn phục kích này thì không mong sống sót lấy một trung đội. Tôi xin thuật lại chuyện một tiểu đội, tiểu đội của đồng chí Hợi trong những ngày này để bạn đọc dễ hình dung. Tiểu đội có năm người, bố trí ở một eo núi, cách trận địa chính khoảng hai cây số. Một bên là núi đá, một bên là bãi gianh và suối cạn, lô nhô những khối đá rất to. Tiểu đội Hợi nằm bên bãi gianh, vì bên kia là dốc đứng, cỏ thưa chạy xuống leo lên đều khó cả. Việc trước tiên là hè nhau lăn những khối đá đến những chỗ cần thiết, rồi nấp sau đó mà đào khoét một chỗ ngồi tàm tạm. Ngay trong ngày đầu tiên, tiểu đội trưởng đã bị đá đè giập nửa bàn chân. Ngày thứ hai lại một người bị giập một bàn tay. Còn ba người kia cũng rách da, xẻ thịt, máu me bôi đầy áo đầy quần. Người bị giập chân thì ngồi gác chân đau lên một hòn đá nhỏ cho đỡ nhức, gập lưng dùng dao khoét đất; người giập tay thì quỳ xuống, tay đau buộc trước ngực, tay lành moi đất hất đổ lên. Cái nắng cao nguyên, cái khát cao nguyên nấu nung, cào xé từ lúc mặt trời mọc tới lúc mặt trời lặn. Tối đến nhai nốt miếng cơm còn lại, tu nốt ngụm nước còn lại, nằm chợp mắt một chút nhưng nhức chân quá, nhức tay quá nhức đến muốn khóc được, lại chồm dậy dùng dao khoét tiếp, dùng tay moi tiếp. Làm cho nó quên đi cái khát, quên đi cái đau, quên đi cả cái đói nữa. Họ phơi nắng, phơi sương, với một bàn chân tấy sưng, một bàn tay tấy sưng, với những vết xước đã bầm tím và lên mủ từ đêm đánh Buôn Mê Thuột tới 10 giờ đêm ngày 16 tháng Ba thì được lệnh rời vị trí phục kích, hành quân trong đội hình đại đội, vượt qua điểm cao 758, băng rừng, vòng hướng đông-bắc tới bản Khăn đông nam Cheo Reo, đánh địch rút chạy trên đoạn đường 7 từ thị xã Cheo Reo đến cầu A Nu. Mỏm 758 không có đường mòn, dưới chân là đá là đất lưng chừng núi là cây lớn, gần tới đỉnh là cỏ gianh cao lút đầu người. Ba tiếng leo lên, hai tiếng tụt xuống. Hợi xé một ống quần làm giẻ buộc chân, đệm cỏ gianh bên trong buộc giẻ ra ngoài, chống gậy dẫn đầu tiểu đội. Lúc bình thường với bàn chân tấy sưng đến gần gối, dẫu chỉ được nằm cũng vẫn khổ. Huống hồ lại phải hành quân, phải đi trong đêm, phải leo núi, những bước đi đầu tiên từ vị trí phục kích của tiểu đội tới vị trí của đại đội, phải tì người lên đầu gậy mà lết dần. Muốn ngã quỵ xuống, không được! Ngồi xuống là rồi khó đứng dậy, không đứng được dậy lại mất hai người khiêng cáng. Một tiểu đội có năm người mà mất hẳn ba người sẽ không còn là tiểu đội. Hãy cố gắng lên. Còn lết được thời hãy cố lên! Nhích từng bước, nhích dần mãi. Mồ hôi và nước mắt chảy giàn giụa. Mồ hôi ướt đầm người, răng cắn vào môi đến ứa máu, hãy cố lên! Đừng có làm phiền anh em, đừng làm lỡ việc của người khác. Thân người như nhẹ dần, chân bước dài ra, nhịp đi đã nhanh hơn. Và cứ thế, cứ sải rộng mãi chân mà bước tới, mà leo, mà trèo, lên tới đỉnh cả nửa người của bên phía chân đau như đã bị tê dại, như là chân của người khác, một vật từ bên ngoài ghép vào cơ thể mình. Hành động của người lính luôn luôn vượt quá những điều kiện để hành động của con người. Cái không có thể đã trở thành cái có thể. Vì sao lại có thể? Rất khó lý giải một cách thật rành rẽ. Lúc thường thì không thể, không có cách gì để có thể nhưng khi gánh vác một nhiệm vụ nó đã trở thành có thể. Làm rồi, nghĩ lại chính mình cũng ngạc nhiên vì sao lại có thể làm được. Cũng như Hợi khi kể chuyện cho tôi nghe, cũng tự hỏi vì sao lại có thể đánh địch từ đông-nam thị xã Cheo Reo đến tận dinh Độc Lập, tức là năm chục ngày tròn, không dừng nghỉ một chút nào, với một cái chân đau đớn đến thế, vướng nặng đến thế. Mà rồi cũng chẳng có thì giờ để nghĩ tới nó nữa. Vào thị xã Tuy Hòa, giẻ buộc chân đã rách tơi tả, những mảnh giẻ cứng giòn thấm máu, thấm nước, rồi khô, rồi ướt, rồi lại khô. Mở lượt giẻ ra, các vết giập đã khô miệng, đã đóng vẩy. Đánh đến Sài Gòn thì vẩy bong, lại là một bàn chân khỏe mạnh và sạch sẽ.
Lên tới đỉnh 758, gặp tiểu đoàn trưởng báo tin địch đã rút chạy khỏi Plâycu và Công Tum từ sáng ngày 16. Lệnh cho bộ đội phải bỏ lại mọi tư trang vốn đã rất ít, kể cả gạo. Chỉ được mang theo một cái võng, mấy cuộn bông băng, cái bật lửa cho vào túi đựng mìn đeo trước ngực. Còn xẻng cuốc súng đạn là vật tùy thân rồi. Riêng cơ số đạn lại còn tăng thêm, đạn AK là ba trăm viên, lựu đạn sáu quả, đạn B40 là tám quả. Một người xếp vào gùi cả bảy quả đạn B40 và liều phóng, nhưng không gùi trên lưng mà đeo lủng lẳng trước ngực vì sợ vướng cành cây, túi mìn vắt lại phía sau, khẩu AK kẹp một bên nách và ba trăm viên dạn. Tiểu đội trưởng vác khẩu B40 và một quả đạn lắp sẵn ở nòng. Lại một khẩu trung liên và người mang đạn trung liên. Còn người thứ năm mang AK, gùi thêm ba quả cối 82 giúp đại đội hỏa lực cùng xẻng cuốc của cả tiểu đội. Cả năm người đều lặc lè nhưng không hề bỏ lại bất cứ một thứ gì khác. Trong khoảng mươi lăm phút dừng ở đỉnh 758 nhìn về phía thị xã Cheo Reo hướng đông-bắc, thấy một mảng sáng mờ mờ bốc lên, nhìn sang hướng tây, loang loáng lúc hiện lúc mất có nhiều vệt sáng kéo dài. Ban ngày đứng ở đây còn nhìn thấy cả dòng sông Ba, nước xanh thẳm chảy từ tây bắc thị xã, dọc theo phía đông đường 7, qua cầu A Nu thì ngoẹo xuống phía nam đường rồi thoát ra cửa Đà Rằng. Ngồi ở mỏm 758 hứng nắng, hứng nóng, nhìn dòng sông nhỏ tí phía xa, thì chỉ nghĩ đến nước, rồi nghĩ đến cái mát, cái trong, cái khoan khoái nếu được ngâm mình dưới ấy một nửa ngày.
3 giờ sáng ngày hôm sau, tức là ngày 17 tháng Ba, đại đội xuất phát đầu tiên mới tụt xuống chân núi bên kia. Nghỉ lại mươi lăm phút ăn nửa nắm cơm là rồi kéo nhau chạy. Chẳng có ai ra lệnh chạy, phía trên rảo bước là phía sau phải chạy. Từ Plâycu đến Cheo Reo là một trăm năm mươi lăm cây số, nhưng từ Cheo Reo đến Tuy Hòa có hơn sáu chục cây. Sáu chục cây xe phóng nhanh là mấy chốc. Chúng chạy đường thẳng, ta đón đánh phải quanh vòng, nhanh chậm khác nhau là thế. Hơn nữa, chúng chạy đã được một ngày mình mới đuổi theo, không khéo chỉ còn vớt vát được một vài đơn vị rút cuối. Diệt có vài trăm tên trong đám quân rút chạy tới cả vạn tên thì thật uổng phí vô cùng. Mà cái cơ hội may mắn này khó có thể tái diễn một lần nữa. Nó là duy nhất. Bỏ lỡ nó, cuộc chiến đấu chắc chắn sẽ phức tạp hơn lên rất nhiều. Tiểu đoàn trưởng nghĩ như thế, mà tiểu đội trưởng cũng nghĩ như thế. Mỗi người rảo chân lên một chút, thành thử hàng quân theo nhau chạy ào ào lúc nào cũng không rõ. Lại một người nào đó đốt cháy một sợi dây cao su lấy ánh sáng tìm lối mòn. Vì có một con đường mòn của tuyến vận chuyển thương binh. Lại thêm một người thứ hai đốt, rồi cả một dây lửa lập lòe kéo dài tới mấy cây số ở chân núi, xuyên vào những cánh rừng khoọc, nhằm theo hướng đông-bắc mà trườn lách mãi lên. Hết dây cao su dự trữ thì rút quai dép đốt, thân dép giắt vào thắt lưng, cả một mùa tác chiến đầu đội trời, chân dép đất, tới lúc tiến vào các thành phố mới cảm thấy rát bàn chân và nóng da đầu. Bộ đội nối đuôi nhau chạy một mạch đến 9 giờ sáng ngày 17 thì nhìn thấy mặt đường 7 phía nam bản Khăn. Phía đông đường là sông Ba, phía tây đường là hàng chục lượt rào dây thép gai, rào đơn. Bộ đội thành một hàng dọc, men theo các hàng cọc, nhổ đinh, vén dây, lách người qua, nhích dần mãi đến mép đường, bố trí các điểm chốt. Khẩu B.40 của Hợi đặt trên một ụ mối mọc đầy cỏ và cây gai. Khẩu trung liên bố trí cũng trên một ụ mối khác cách khẩu B.40 khoảng mươi mét. Còn các tay súng AK thì lợi dụng các rãnh nước đào khoét một lúc cũng thành một công sự cá nhân. Lúc này là 12 giờ trưa ngày 17. Trên đường vẫn có xe chạy nhưng là xe đò chở hành khách, tất nhiên có cả dân có cả lính, nhưng đã có dân là không được phép nổ súng. Lại có từng tốp xe Hon-da chở người và đồ đạc. Cả năm người đã bảy đêm nay không được ngủ. Cả bảy đêm, cứ ba người thay nhau đào hầm, một người đi lấy cơm và nước uống, còn một người vận chuyển gạo. Đêm thứ bảy thì hành quân, còn từ đêm nay trở đi tất nhiên lại càng phải thức, phải thức cho tỉnh táo, vì tin rằng đám quân lính từ hai tỉnh kéo về dồn ứ ở Cheo Reo phải nhanh chóng thoát khỏi khu vực đã bị vây hãm từ đêm nay. Bắt đầu từ đêm nay kể ra cũng đã quá muộn. Những chuyện không may thường theo một cửa mà đến là như thế. Trong lúc chờ đợi, cả năm người ngồi chụm lại với nhau ở ụ súng B.40, chia nhau phong lương khô duy nhất còn sót lại, rồi bàn tính về thế trận của hai bên trong mấy ngày tới. Mỗi đêm đến kho gạo của chiến dịch là thâu lượm được bao nhiêu tin tức. Tin tức lượm về lại đoán non đoán già về nhiệm vụ của hướng này, về hành động của mũi kia. Cũng có lúc đoán trúng, cũng có lúc đoán sai, nhưng đoán định mãi rồi cũng luyện được thành một phản ứng nhạy bén, gần như là linh cảm trước những hiện tượng trông thấy đã đành, mà cả những hiện tượng còn chưa trông thấy.
Lực lượng bố trí của sư đoàn 320 trong ngày 17 tháng Ba là như sau:
– Tiểu đoàn 9 của trung đoàn 64, vào lúc 11 giờ đã ra sát mặt đường 7, phía nam bản Khăn hai cây số.
– Trung đoàn 64 thiếu, cùng với một tiểu đoàn cao xạ từ đông-bắc Buôn Mê Thuột đã tới vị trí nhiệm vụ mới là đèo Chư Mria(nam Cheo Reo).
– Trung đoàn 52 sau khi diệt Kênh Săn, chiếm quận ly Phú Nhơn, phát triển sang Phú Thiện, chia cắt đội hình phía sau của địch(từ ngã ba Mỹ Thạch đến thị xã Cheo Reo).
– Trung đoàn 48 cùng với một tiểu đoàn xe tăng và một cụm pháo của chiến địch đã nhích tới tây-nam thị xã Cheo Reo, gần sát sân bay, và đã đưa được một lực lượng vòng lên hướng tây-bắc.
Lực lượng địch rút chạy khỏi hai tỉnh Công Tum và Plây Cu gồm có sáu liên đoàn biệt động quân, một lữ đoàn kỵ binh(ba thiết đoàn), một liên đoàn công binh, một liên đoàn truyền tin, một bộ phận cơ quan của quân khu II, một bộ phận sĩ quan của sư đoàn 6 không quân, hai liên đoàn bảo an và toàn bộ lực lượng cảnh sát của hai tỉnh Kon Tum và Plâycu. Tính đầu là hai mươi bảy đơn vị. 16 giờ ngày 17 tháng ba, toàn bộ lực lượng của địch ở hai tỉnh trên đã rút hết về thị xã Cheo Reo.
16 giờ 30 ngày 17, một đoàn xe gồm bảy chiếc GMC và hai xe chở khách, có xe bọc thép M. 113 đi hộ tống lọt vào trận địa phục kích của đại đội 11. Bộ đội ta dùng tiểu liên AK bắn thủng lốp xe đầu và dùng B.40, B.41 đánh các xe chở lính. Hai xe chở dân thì gọi hành khách xuống cho chạy giạt xuống vệ đường tránh đạn: Cả bảy xe đều bị bốc cháy, riêng chiếc M. 113 đi hộ tống sau cùng thì chạy lộn được về Cheo Reo.
Đêm 17, tiểu đội Hợi rời vị trí buổi chiều sang bố trí phía đông đường, giáp sông Ba. Trong đêm, tiểu đoàn 9 đã bố trí xong thế trận đánh địch: đại đội 9 chặn đầu, đại đội 10 thốc đuổi, còn đại đội 11 lùi lại phía sau làm lực lượng cơ động của tiểu đoàn. Cách đánh là vận động tấn công kết hợp với các điểm chốt, bố trí thành nhiều tầng từ nam bản Khăn đến phía bắc một con suối nhỏ, đoạn đánh dài ba cây số Trong đêm, bộ đội ngồi dọc hai vệ đường đào đắp công sự, trên đầu chiếc C.130 ì ầm thả pháo sáng, phía Cheo Reo tiếng máy gầm gào khi to khi nhỏ. Một bên liều chết rút chạy, một bên kiên quyết chặn đánh, cuộc chiến đấu trong mấy ngày tới là rồi sẽ đẫm máu đây, Hợi tính toán với anh em trong tổ như thế. Mờ sáng ngày 18, hố đào cũng chỉ sâu được khoảng bảy mươi phân, chặn lát bằng cọc rào, hòm gỗ và những bao bì lớn nhỏ lôi kéo từ trong cái đống đồ đạc của chiếc GMC đổ ven con suối cạn. Tôi xin ghi lại lời kể của đồng chí Hợi về những trận đánh của tiểu đội trong ngày 18 tháng Ba từ 6 giờ sáng đến 11 giờ đêm: "Hỏa lực của tiểu đội có một B.40, một trung liên và mấy tay súng AK. Nhiệm vụ của cả trung đội là chặn đứng những chiếc xe chạy thoát khỏi những tổ chốt của đại đội 10 để đại đội 11 kịp vận động lên đánh tiếp. Súng nổ từ lúc 6 giờ sáng, gần hai giờ sau mới thấy một chiếc M.48 và một chiếc xe bọc thép M.113 chạy ào ào tới. Cách đánh của bọn rút chạy cũng mánh lới lắm: dùng pháo của tăng bắn thẳng vào các mô đất, ụ mối, bụi cây cho quang đi sau đó dùng đại liên, cối cá nhân quét tiếp, gần sát chỗ bố trí của mình thì bộ binh ngồi trên xe quăng lựu đạn, rồi xe rú máy phóng vượt qua. Nhưng thoát sao được, vì các chốt của ta bố trí dày sít, thoát chốt này lại gặp ngay chốt kia. Khói lửa ùn lên ở phía trên từ 6 giờ sáng, mãi đến 8 giờ mới gặp hai xe địch nhào tới, đoạn đường dài chưa tới ba cây, đủ biết phải may mắn lắm chúng mới gặp được bọn tôi và bọn tôi cũng phải có may mắn mới được dịp nổ súng. Tôi kê khẩu B.40 lên một cái chậu nhựa nhằm vào chiếc M.48 bóp cò, nó cháy ngay, chiếc xe sau dừng lại, quay nòng 12 ly 8 bắn ào ào vào ụ đất rồi vòng xuống phía tây đường rông lên. Nó chạy được một đoạn, lại nghe có một tiếng nổ khác, trong nháy mắt đã là hai đống lửa khói bốc ngùn ngụt ở giữa đường. Những đứa sống sót nhảy nháo nhào ra hai bên, chúng tôi chỉ cần hét theo: "Bỏ súng xuống! Đứng lại!", là lập tức chúng ngồi thụp xuống từng nhóm đợi anh em mình đến dẫn về phía sau. Súng đạn tạm dừng khoảng hai tiếng, không thấy xe nào chạy lên, mà hình như cũng không nghe thấy cả tiếng gầm rú của máy nữa. Một đơn vị đã bị diệt gọn, chắc chắn là thế. 10 giờ lại nghe có tiếng rú máy từ rất xa, rồi mất hẳn, rồi rất gần như sau lưng mình. Cậu giữ trung liên hét to: "Nó chạy theo bờ sông, anh ơi!". Quay người nhìn lại, tháp pháo đã loi ngoi trên đám lá ngô xanh rì rẽ lên. Cả mấy thằng nhảy ra khỏi công sự, chia thành hai mũi, một mũi ven rìa đường, một mũi men mép nước, chạy ngược lại. Xe đã tới gần, đưa mắt nhìn xung quanh, chẳng có chỗ nào để trú nấp, đành phải đứng trong một bụi chuối mà bắn. Bắn xong, kẹp súng vào nách, lăn tròn người vào bãi ngô, rồi chồm dậy, lắp một quả đạn khác, bắn tiếp chiếc M.113 đang chạy dò dẫm phía sau. Bắn cháy hai xe, chạy thêm một đoạn, cứ thấy rát bỏng ở háng. Bị thương rồi sao? Chắc không phải? Đưa tay sờ soạng một lúc không thấy có máu, chỉ rát. Nhờ thằng mang đạn cúi người xem hộ, thì trời đất ơi! một vệt xém đã xuyên giữa đũng quần, cả quần ngoài lẫn quần trong, nhưng lại chừa ra da thịt của mình. Vào Sài Gòn, thanh niên nó chê đũng quần may quá rộng, mới nói đùa: nếu may chật thì mình đã bị lòi ruột. Được nghỉ ngơi một buổi trưa, anh em ngồi gà gật ở công sự riêng tôi cứ ôm lấy bàn chân mà rên nho nhỏ, đau quá, nhức quá, lúc chạy, lúc lăn như chân người lành, lúc ngồi lại thấy nhức, thấy đau. Cũng là may, có việc thì nó tha mình, hết việc nó lại hành mình. Nghiến răng mà chịu đựng mấy ngày này, còn cố được thì hãy cỗ gắng lên. 2 giờ chiều lại một đợt đánh nữa. Xe địch chạy thẳng đường thì làm mồi cho các tổ chốt, nên mới quẹo sang đông đường, đi sát mép sông. Vẫn bị vấp, chẳng thoát được xe nào. Chúng liền cho xe đâm xuống phía tây bản Khăn, vòng theo dải rừng khoọc, rồi rẽ quành lại mặt đường quãng gần cầu A Nu. Nhưng lại đụng đầu với số anh em nằm ở bệnh xá và tiểu đoàn bộ. Bác sĩ, bệnh nhân, anh nuôi, trợ lý chính trị và tham mưu dùng tiểu liên và lựu đạn xông ra đuổi đánh. Đại đội 11 chia làm hai mũi vòng lại đánh chặn từ hai đầu. Trung đội tôi cũng được lệnh kéo đến, nổ súng yểm trợ. Lúc này quân địch đã hoảng hốt lắm rồi. Nghe tiếng súng nổ là lập tức bỏ xe chạy, thì cũng là chạy vào tay anh em mình cả. Thằng Tề, tiểu đội trưởng của đại đội 10, bị sốt rét nằm ở bệnh xá chiều ngày 17, hai tay hai quả lựu đạn thế nào lại túm được thằng trung tá liên đoàn trưởng liên đoàn 21. Xe tăng bỏ lại, xe bọc thép bỏ lại, xe kéo pháo 175 còn mới nguyên cũng bỏ lại, đếm thoang thoáng cũng phải dăm chục xe vừa xe tăng vừa xe bánh xích. Bãi xe ở bản Dung Mỹ gần đó cũng phải dăm sáu chục xe. Nhìn lên mặt đường một dải lửa khói kéo dài hàng cây số, mỗi lúc một bốc cao ngọn. Tiếng máy của các loại xe vẫn gầm gào, tiếng đạn nổ từ bên trong ruột xe chát chúa, y hệt một trận đánh lớn, vẫn còn đang diễn ra. Con đường đang bốc cháy đã trở thành một chiến lũy lửa, người qua còn khó nói gì đến xe, một đoàn xe. Trời đã tối hẳn, tiểu đội tôi chạy theo ven đường, vòng trở lại đoạn đánh của mình. Đạn nổ từ các xe bay veo véo qua đầu, bụng bảo dạ: "Đánh “xe sống” không sao, lại bị thương vì mấy cái "xe chết" thì thật buồn cười". Khi vượt qua miệng cống trước tổ chốt cuối cùng của đại đội 10, chợt nghe có tiếng ho nhẹ. Máy gào, đạn nổ mà lại nghe ra một tiếng ho tự mình cũng nghĩ làm lạ. Chắc là một tiếng động gì đó, vốn tính đa nghi lại nghĩ là tiếng ho chăng? Vẫn cứ nên kiểm tra lại một chút, nào có mất gì? Tôi kêu tiểu đội dừng lại, hướng mắt vào miệng cống, gọi to: "Còn ai trong ấy thì ra đi? Bỏ súng xuống, nhanh lên!". Không một tiếng động nào đáp lại, tôi phải dọa: "Ra đi! Nếu không chúng tôi sẽ quăng lựu đạn vào đấy!". Gần như cả cái đám người trốn nấp trong đó trả lời cùng một lúc: "Chúng tôi xin hàng. Chúng tôi xin ra ngay!". Một người ra dấu, rồi một người nữa, đếm được lần lượt vừa chẵn hai chục, nhìn quần áo mặc đều là sĩ quan cả. Tôi hướng mặt vào một hình người to cao nhất, chưa rõ là già hay trẻ, là cấp chức gì, hỏi: "Các anh là sĩ quan của đơn vị nào? thuộc binh chủng nào?". Người kia hơi cúi xuống, đáp rất lễ phép: "Thưa, chúng tôi thuộc nhiều đơn vị, có mấy anh trên cơ quan của quân đoàn, có anh ở sư đoàn 6 không quân, rồi liên đoàn 23, liên đoàn 66 truyền tin và một số anh ở thiết đoàn 19". Tôi lại hỏi: "Còn anh ở binh chủng nào? Cấp bậc gì?”. "Dạ, thưa tôi là trung tá, liên đoàn trưởng liên đoàn 23". Khi tôi bảo một đồng chí trong tiểu đội dẫn cả hai chục sĩ quan này về tiểu đoàn, thì cái anh chàng to lớn là liên đoàn trưởng liên đoàn 23 nói với tôi rất rụt rè: “Dạ, thưa tôi muốn được biết tên anh, vì anh là người chiến sĩ Giải phóng đầu tiên tôi được gặp...”.
Tôi rất ngạc nhiên:
“Tên tôi là Hợi, anh đã ở chiến trường này thì phải chạm mặt với bộ đội luôn chứ, đâu phải lần đầu?”
“Thưa, tôi nói rất thật lòng vì tôi mới dời lên Công Tum trước tết có mấy ngày”.
"Trước anh ở đâu?
"Trước tôi ở Biên Hòa.
"Đang ở Biên Hòa lên đây làm gì cho khổ?
"Dạ, chuyện cũng dài lắm, nhưng không chết đã là may mắn rồi. Chỉ thương vợ con sẽ đau buồn vì chưa biết tôi sống chết ra sao?
"Một tháng nữa thì gia đình anh sẽ được biết tin thôi.
"Dạ, tôi rất mong thế. Thật là nghịch cảnh, tôi là một sĩ quan trong quân đội của ông Thiệu, nhưng lúc này lại nóng lòng mong ông ấy từ chức để anh em Giải phóng sẽ sớm vô Sài Gòn".
"Hắn có nói tên là Bình hay là Bảo gì đó, tôi không còn nhớ. Câu chuyện còn dài của hắn nếu có thì giờ nghe chắc cũng rất lạ".
11 giờ 30 ngày 19, ta đã tiêu diệt, bắt sống, bức hàng toàn bộ quân địch còn lại ở thị xã Cheo Reo và khu vực quanh đó. Ngày 20 một lực lượng của trung đoàn 64, có xe bọc thép và pháo quét bọn tàn binh từ dẻo Chư Mria đến đông quận Phú Túc, làm bàn đạp cho đại quân tiến về Củng Sơn.
Ngày 21, tiểu đội Hợi cùng đại đội vượt qua cầu A Nu, tiến sát về quận Phú Túc. 16 giờ ngày 21, địch ném bom phá cầu. Nhịp cầu không sập ngay mà lửa cháy lan trên ván gỗ như một giàn lửa. Xông vào giàn lửa đã bốc cao ngọn là bốn chiếc xe bọc thép loại K.63. Trong xe có xăng, có đạn, có người, xăng bén lửa thì cả bốn chiếc sẽ bị thiêu cháy trong chớp mắt. Cũng là may, cả bốn xe đều qua được chiếc cầu lửa dài hàng trăm mét an toàn, rồi dừng lại ở chỗ bố trí của tiểu đội Hợi. Người đầu tiên từ trên chiếc xe đầu nhảy xuống là đồng chí Cối tham mưu trưởng trung đoàn 64. Cùng đi với tham mưu trưởng có tiểu đoàn trưởng các tiểu đoàn 9, 7 và 8, cùng với một tiểu đội trinh sát. Họ là bộ phận mở đường của cánh quân tiến về hướng đông. Tham mưu trưởng ngồi ngay trên mặt đường vừa ăn lương khô vừa thông báo tóm tắt tình hình tác chiến của sư đoàn trong bốn ngày, rồi nói thêm: "lắm chuyện đã xảy ra rồi mà còn ngỡ là trong cảnh mộng. Ví như một cậu của trung đoàn 48 được gặp lại gia đình sau ngày giải phóng Cheo Reo. Xa nhau từ năm 59, đến năm 75 mới được gặp lại, vậy là mười sáu năm". Cả mọi người đều ngạc nhiên. Lính miền Bắc, gia đình ở miền Bắc, còn gặp người thân nào nữa ở miền Nam, mà lại là ở Cheo Reo, một vùng cao nguyên heo hút của miền Nam. Hỏi tên cái người đã gặp sự may mắn hiếm có ấy thì tham mưu trưởng không nhớ. Chuyện đã hoang đường, người trong chuyện lại không có tên, ai mà tin được. Tham mưu trưởng lý lẽ: "Có nhiều chuyện hôm qua là khó tin, nhưng hôm nay lại là chuyện có thật. Chuyện thật của hôm nay còn vượt xa những chuyện khó tin của hôm qua. Thời thế đã đổi thay rồi."
Chuyện của cậu bộ đội nào gặp lại gia đình ở Cheo Reo vẫn là khó tin, cho đến lúc này vẫn cứ khó tin. Nhưng thời thế đã đổi thay thì lại có thể tin được. Nổ súng ngày 8 tháng Ba, đến ngày 20 tháng Ba, tức là mười hai ngày sau đã giải phóng bốn tỉnh của cao nguyên miền trung! Năm 1968 chưa được thế. Năm 1972 cũng chưa được thế. Nhưng năm 1975 lại là chuyện đã xảy ra, là chuyện đã có thật. Hai chân đứng trên mặt đường 7, đoạn đường phía trên, đoạn đường phía dưới hàng nghìn chiếc xe đủ loại đang bốc cháy, lại chẳng phải là chuyện có thật đó sao? Nhưng vẫn lúc ấy, nếu một người nào đó nói trước rằng: Trong vòng một tháng mười ngày nữa, chúng ta sẽ đứng ở lầu tư của dinh Độc Lập, chúng ta sẽ ngồi ở phòng tiếp khách của Nguyễn Văn Thiệu, ngắm nhìn cái gạt tàn thuốc hình lục lăng mà tán với nhau rằng: "Cái gạt tàn đẹp thế mà thằng cha lúc chạy lại quên không mang theo, giờ có nghĩ lại chắc cũng tiếc". Nếu một người nào đó dám nói trước như thế thì cũng chưa dễ đã ai tin, dẫu rằng vẫn công nhận thời thế đã đổi thay rồi.
⚝ ⚝ ⚝
Câu chuyện tưởng như khó tin quả nhiên là chuyện có thật. Tôi đã được gặp nhân vặt chính trong chuyện. Tên anh là Ka Son Chư, người Ê Đê. Anh bảo mới hăm tám tuổi nhưng nhìn gương mặt rất khó đoán, lúc như già hơn, lúc lại như trẻ hơn. Anh rất hay nói, tuy âm sắc của tiếng phổ thông chưa được mềm, chưa được rõ, nhưng chứ nghĩa dùng rất chính xác và văn chương. Tôi ghi tên anh là Ka Son Chư, anh đánh vần bảo tôi viết lại là Ksor Sor Chư. Ksor Sor là họ mẹ. Anh bảo tôi: "Nếu được ở gần nhau tôi chỉ bày cho anh ít ngày là sẽ nói được tiếng Ê Đê thôi". Tôi cười: “Mới chỉ nhìn tên sông tên núi trên bản đồ vùng Tây Nguyên đã thấy rối rít cả lên, nói gì đến học tiếng”. Chư giải thích luôn, anh hay nói và vui tính: "Nhà báo là thông minh, học biết ngay thôi. Biết cách dạy thì học rất mau, anh ạ! Ví như, ở Công Tum thì núi gọi là ngọc: Ngọc Rinh Rua, Ngọc Tô Pa, Ngọc Bờ Biêng, Ngọc Linh. Ở Gia Lai, thì núi lại gọi là Chư: Chư Nghé, Chư Pông, Chư Kra, Chư Pa. Ở Công Tum, Đak là nước, các con sông đều bắt đầu vần dak cả: Đaksi, Đakbla, Đakđam. Ở Gia Lai, thì Ya lại là nước: Yasúp, Yadrăng, Yaleo. Chỉ như thế thôi, bây giờ anh có nhìn địa danh trên bản đồ cũng đã thấy dễ dễ rồi, có phải không?. Chư làm liên lạc cho cách mạng từ năm mười một tuổi, đến năm mười ba, tức là năm 1959 thì được chú Cao cho ra Bắc học văn hóa “để sau này về quê hương xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Năm đó thì chưa thể biết chủ nghĩa xã hội là gì, nhưng được ra Bắc, ra Hà Nội, Bác Hồ lại đang ở Hà Nội, là rất vui rồi. Gùi gạo, gùi muối đi bộ cả mấy tháng nhưng chưa có lúc nào thấy nhớ nhà, thấy mệt nhọc, chỉ háo hức, muốn đi nữa, muốn được đi xa mãi. Chư học văn hóa ở trường Dân tộc trung ương mười năm, tức là đến năm Bác Hồ mất thì hết chương trình phổ thông cấp 2. Lên trường văn hóa ở Lạng Sơn học lớp 8, lớp 9. Về trường Bắc Thái học lớp 10, thi tốt nghiệp xong lại tiếp tục theo học trường công nghiệp nhẹ. Năm 1973, đi bộ đội. Năm 1974 vào chiến trường miền Nam. Tóm lại đời anh trong vòng mười lăm năm trở lại đây là: học và học. Đi bộ đội được hai năm thì một năm ở trường huấn luyện, cũng vẫn là học. Chư than phiền với tôi: "Đời tôi thật là chán, không có thành tích gì để kể với nhà báo. Vào chiến trường đã hơn một năm, nhưng đã được đánh trận nào!". Tôi cũng ngạc nhiên: “Ở dưới đại đội mà không đánh thì làm gì?”. "Chuyện là thế này, Chư nói, ở trên sư đoàn xin mãi mới được xuống trung đoàn, rồi từ trung đoàn lại xin xuống tiểu đoàn. Mà khó lắm: Năm ngoái đánh to ở làng Siêu nhưng tôi lại phải ở phía sau làm anh nuôi. Trận đánh xong rồi tiểu đoàn trưởng mới cho phép ra trận địa xem xác xe tăng địch. Xuống đến đại đội cũng vẫn chưa được đánh, anh em đánh nhau phía trước, tôi đi làm công tác dân vận phía sau, cũng là nhiệm vụ trên giao cả, nhưng chỉ bực là chưa được nổ súng một lần nào. Vì sao? Vì các anh ấy sợ tôi chết. Đại đội trưởng bảo: “Đi học cả mười mấy năm mà chết thì uổng quá, cố giữ lấy cái mạng để còn phục vụ lâu dài cho quê hương”. Tôi đã bực lắm: "Các anh thì sao? Các anh chết không đáng tiếc sao?". Đại đội trưởng vẫn cười cười: "Chư ơi, chúng mình đông, còn người dân tộc có văn hóa cao như Chư là ít lắm, ít thì phải giữ lấy, đừng có phí phạm". Tôi không muốn cãi lại cấp trên, nhưng như thế là còn phân biệt, là chưa bình đẳng, phải không nhà báo?". Tôi không trả lời sao cả, theo tôi, Chư nói đúng mà đồng chí đại đội trưởng nói cũng đúng. Rồi Chư kể cho tôi nghe bữa gặp lại gia đình ở Cheo Reo vừa được giải phóng: "Đêm 18 tháng Ba, quân ta vào Cheo Reo. Sáng 19 tháng Ba, cấp trên đã cho tôi vào thị xã để hỏi thăm tin tức gia đình. Lúc này tôi đã được trung đoàn lấy lên làm trợ lý dân vận. Chiều ngày 18, đứng ở mỏm Chư Ria với chính ủy, nhìn xuống Cheo Reo đã mừng quá, quê hương mình là ở dưới đó, nhưng cảnh vật lại rất lạ, chưa nhận ra một dấu vết nào quen thuộc cả. Cả ngày 18 không ăn gì mà vẫn no. Đêm 18, nghe tin ta đã làm chủ thị xã lại càng bồn chồn, da mặt lúc lạnh lúc nóng, ngồi không yên mà đứng cũng không yên. Sáng 19, thì được đi cùng với chính ủy vào Cheo Reo làm nhiệm vụ trong ủy ban quân quản. Quê tôi là buôn Bir, cách thị xã hai cây số, đi qua làng mà không nhận ra làng. Xưa kia đường vào buôn có nhiều cây gạo và cây kơ nia, bây giờ trống trơn cả, chỉ thấy có mái tôn và mái tôn. Đến trụ sở của ủy ban quân quản, gặp một thằng mới lớn lên, cũng người Ê Đê đi công tác với một chú cán bộ bên Đảng, liền hỏi nó: "Quê mày ở đâu?". "Ở Bir!". Mừng quá, nắm chặt bàn tay nó mà giật: "Con nhà ai?". Nó nói tên mẹ nó, nghe rất lạ. Mẹ nó chỉ hơn tôi vài tuổi chứ mấy, năm tôi còn ở nhà có đứa con gái nào có tên giống như mẹ nó đâu. Tôi lại hỏi thăm tin tức gia đình ông ấy, bà ấy, anh ấy có biết không? Nó đứng ngẩn ra một lúc rồi trả lời là không biết. Tôi quát lên: “Mày ở Bir mà lại không biết ông già Nê Deo à?”. Gần hai ngày chỉ có uống chứ không ăn, mà không đói. Chính ủy cho phép về nhà nửa ngày vì nghe nói nhà gần, nhưng đi quanh quẩn từ đường này sang đường kia đã mất gần nửa thời gian rồi. Dân dắt díu nhau, ôm, xách, khiêng, đội quần áo, đồ đạc trở về nhà cũ; binh lính, sĩ quan ngụy ngồi vón lại từng đám chờ bộ đội đến cho ăn và dẫn đi; súng lớn súng nhỏ quăng xếp từng đống ở các đầu đường, các bãi trống, trước cửa các công sở; và xe, các loại xe chật đường, chật phố, cái đang cháy, cái đã cháy rụi, cái còn nguyên. Cứ loanh quanh giữa cái đám xe pháo, súng đạn, người đi xuôi người kéo ngược từ 12 giờ trưa đến 2 giờ chiều mà vẫn chưa tìm được lối về buôn Bir. Về sau, có một anh thanh niên đi xe đạp, đeo băng đỏ, khoác súng, gọi to: "Anh giải phóng định về đâu đây?". Thì ra anh đã chú ý tới tôi được một lúc lâu rồi. Nghe tôi nói muốn về buôn Bir, anh bảo ngồi sau xe sẽ đèo về tận đầu buôn, vì đường đi rất gần. Mẹ tôi mất năm tôi còn rất nhỏ, bố tôi đã lấy vợ kế. Năm còn ở nhà thì mẹ kế chưa sinh em, nên bà rất quý tôi và thằng út. Nghĩ đến mẹ kế cũng thương, cũng nhớ như mẹ đẻ. Bước vào trong buôn lại nhận dần ra lối cũ, hỏi một người ngồi quay lưng lại, đang rèn dao: "Ông có biết nhà cụ Deo không?". Người kia quay lại, nhìn rất quen nhưng không thể nhận ra là ai: “Giải phóng hỏi cụ Deo có việc gì?”. Tôi lại hỏi tiếp: "Cụ Deo còn sống không?". Người kia đứng dậy nhìn tôi chằm chằm: “Cụ Deo còn sống, tôi là con cụ Deo đây”. Tôi hét to: “Anh Ksor Bai phải không?”. "Phải, chú cũng là người ở buôn này à?". Tôi nắm lấy tay anh: "Chư đây? Chư ra Bắc học đã về đây?". Nghĩ là anh Bai phải ôm chăm lấy em mà khóc, nhưng không, anh vẫn đứng im, vẫn nhìn, rồi nói rất thong thả: "Không phải Chư, Chư nó chết từ nhỏ kia". Tôi càng quát to: "Anh quên tôi hả? Chư đây mà. Chư là con cụ Deo, em anh Bai mà không phải à?". Anh Bai cúi mặt nhìn xuống, miệng nói lảm nhảm những gì gì, mà già quá mà không giống một chút nào với anh Bai rất đẹp trai lúc tôi ra đi. Anh em còn đang đứng với nhau thì bố tôi bước đến, tóc bạc hết, nhưng nhận ra được ngay. Tôi gọi: "Bố ơi! Tôi là Chư đây.". Ông già nhìn tôi rồi lại nhìn anh Bai: "Chư à? Chư chưa chết à?”. Rồi ông cụ thở một hơi rõ dài, nói to hơn: "Là Chư thật phải không?". Đến lạ lùng! Con về hẳn hoi mà vẫn ngờ là chưa phải. Tôi bước lên nhà sàn, nhà sàn ở Đắc Lắc dài như một toa tàu, trên lợp lá mùn cun, rồi ngồi thu lu ở một góc nhà nhìn người này rồi nhìn người kia, mọi người cũng giương mắt nhìn tôi, không có ai cười, không có ai khóc. Gặp lại cha, gặp lại mẹ, gặp lại anh mà buồn, buồn quá. Một lúc rất lâu, ông già mới bảo bà mẹ kế của tôi. "Đi làm cơm cho thằng Chư ăn". Tôi đứng bật dậy, nói vội: "Tôi phải đi công tác ngay, khi khác về lâu tôi sẽ ăn cơm". Anh Bai nói: "Lại đi ngay, hả Chư?". Ông già không nói gì thêm. Tôi cũng không nói gì thêm, cầm mũ, xách súng rồi đi luôn. Mà buồn quá anh ơi! Mười lăm năm nghĩ đến bố trong bao nhiêu đêm không ngủ, đến lúc được gặp lại bố, cả hai bố con đều không nhỏ được một giọt nước mắt. Ngày 1 tháng Tư, thị xã Tuy Hòa được giải phóng. Ở lại Tuy Hòa hai ngày lại trở về Cheo Reo có nhiệm vụ. Cấp trên cho về thăm bố mẹ một ngày. Nhà đông người quá. Người con riêng của mẹ kế cũng đi làm liên lạc cho cách mạng, rồi cũng được ra miền Bắc học văn hóa, đã được trở về công tác ở Quy Nhơn. Thằng em trai út đi lính cộng hòa ở Cam Ranh, tướng chạy quân tan, mới lần mò được về nhà trong đêm trước. Lại một cô em gái, con của bố và bà mẹ kế năm nay đã mười lăm tuổi. Rồi bà con đến chơi, rồi cán bộ của địa phương tới thăm, nhiều người lắm. ông bố tôi nắm lấy tay tôi, nói với mọi người: "Thằng Chư đây, nó là em thằng Bai, nó đi làm cách mạng đầu tiên...". Rồi ông già khóc. Tôi nói tiếp: "Tôi là Chư, tôi đi theo cách mạng năm mười ba tuổi, tôi...". Nói được có thế rồi tôi cũng muốn khóc. Thế là cả hai cha con đã được khóc. Xa nhau mãi, lúc được gặp nhau có khóc mới thật là vui. Với các anh tôi là người đi sau cùng, với gia đình tôi là người đi trước nhất. Tôi đã nói với gia đình: "Tôi là người được giác ngộ đầu tiên, vậy bố mẹ, anh Bai, các em hãy nghe theo lời tôi...". Anh Bai bảo ngay: “Em là người cách mạng, em nói gì gia đình cũng nghe cả”. Tôi bắt đầu câu chuyện, kéo dài một đêm, như sau: "Tôi đã ở Lạng Sơn. Tôi đã ở Thái Nguyên, các dân tộc ít người ở ngoài Bắc đã tiến bộ xa lắm rồi...".
⚝ ⚝ ⚝
...VÀ TƯ LỆNH
Tối thứ ba anh Vũ Lăng kể tiếp:
"Tôi nói tóm tắt lại tình hình tác chiến của bộ đội ta ở mặt trận Tây Nguyên từ ngày 17 tháng Ba đến ngày 24 tháng Ba là như sau: Ngày 17 tháng Ba, địch rút khỏi Plâycu. Trung đoàn 95A, tức là trung đoàn đánh giao thông trên đường 19 từ Mang Dang lên Con Từng, liền tiến thẳng vào quận lỵ Lệ Trung, tiêu diệt quân địch còn ở đó rồi tiến vào Plâycu. Ngày 18 tháng Ba, trung đoàn 29 của sư đoàn 968, là một mũi nghi binh từ đầu tháng Ba ở bắc Công Tum, tiến vào thị xã Công Tum. Ngày 17 tháng Ba, trung đoàn 19 cũng của sư đoàn 968, đánh chiếm Thanh Bình. Còn sư đoàn 3 của quân khu 5 cùng với một tiểu đoàn của trung đoàn 95A giải phóng An Khê trên đường 19 vào ngày 22 tháng Ba. Lúc này, lực lượng của ta đã hình thành ba mũi tiến quân. Một mũi tiến theo đường 19 gồm có những lực lượng của sư đoàn 968, trung đoàn 95A và sư đoàn 3 của quân khu 5. Một mũi tiến theo đường 7 gồm sư đoàn 320 và trung đoàn 95B. Một mũi tiến theo đường 21 gồm có sư đoàn 10 và trung đoàn 25. Cả ba mũi đều chọc thủng ra vùng duyên hải của miền Trung, tức là các huyện phía nam tỉnh Bình Định, tỉnh Phú Yên và tỉnh Khánh Hòa. Quân đi, xe đi, pháo đi, thế mạnh như vũ bão. Mũi tiến của sư đoàn 320 thì ngày 18 tháng Ba, trung đoàn 48 giải phóng thị xã Cheo Reo; các ngày 18, 19 và 20, trung đoàn 64 bao vây truy kích quân địch rút chạy trên đường 7; ngày 21, giải phóng quận lỵ Phú Túc; ngày 24 thì vây diệt địch ở Củng Sơn. Đến ngày 24 tháng Ba, lực lượng quân ngụy ở quân khu II đã bị tiêu diệt đến già nửa. Sau khi ta đánh chiếm Nha Trang và Cam Ranh thì quân đoàn II xem như bị xóa sổ. Đến ngày 4 tháng Tư, quân ngụy đã mất hẳn hai quân đoàn, tức là 40 vạn quân, tức là một nửa quân số. Khi chúng ta tiến vào Sài Gòn thì lực lượng của ta đã là mười lăm sư đoàn, quân ngụy chỉ còn có năm sư đoàn, ba đánh một, mà là ba mạnh đánh một yếu. Ngày 19 tháng Ba, ta giải phóng toàn tỉnh Quảng Trị. Ngày 20 tháng Ba, giải phóng An Lộc(đông Nam Bộ). Ngày 24 tháng Ba, Bộ chính trị Đảng ta khẳng định thời cơ chiến lược mới đã đến, ta có điều kiện để hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng miền Nam và đề ra chủ trương: a) Nắm thời cơ tập trung nhanh nhất lực lượng, binh khí kỹ thuật và vật chất, giải phóng Sài Gòn trước mùa mưa. b) Trong quá trình chuẩn bị tấn công Sài Gòn cần phải nắm thời cơ địch đang tiến hành rút lui chiến lược, tiêu diệt và làm tan rã quân đoàn 1 và bộ phận còn lại của quân đoàn 2 ngụy, không cho chúng rút về co cụm lại xung quanh Sài Gòn. Vào lúc này quân đoàn 2 của ta cùng với lực lượng bộ đội địa phương của quân khu Trị - Thiên và quân khu 5 đang tung hoành ngang dọc tại các tỉnh thuộc quân khu I của ngụy. Quân đoàn 1 của ta cũng đã lên đường. Chiều sâu nhiệm vụ và chính diện tấn công của mỗi quân đoàn phải tính là hàng trăm cây số. Tốc độ tấn công cũng đạt tới vài chục cây số mỗi ngày. Phương châm hành động của cán bộ chỉ huy là: thần tốc, táo bạo, bất ngờ. Khẩu hiệu của toàn quân là: Quyết chiến! Toàn thắng! Ngày 25 tháng Ba, ta giải phóng Thừa Thiên - Huế. Quân đoàn 1 ngụy bị ép lại ở đồng bằng Quảng Đà. Ngày 29 tháng Ba, ta giải phóng Đà Nẵng, tiêu diệt và làm tan rã hơn mười vạn tên địch. Cũng đúng ngày 24 tháng Ba, Bộ chính trị quyết định chuyển lực lượng bộ đội của chiến trường Tây Nguyên thành lực lượng cơ động chiến lược cấp quân đoàn, gọi là quân đoàn 3. Vừa đánh địch, vừa xây dựng lực lượng thành một đơn vị cơ động cấp quân đoàn, lại kịp đưa cả quân đoàn tham gia chiến dịch sau chót, chiến dịch Hồ Chí Minh, làm từng ấy việc trong có một mùa tác chiến. Bình thường không thể tổ chức, xây dựng nhanh chóng đến thế. Tốc độ hành động, tốc độ xây dựng đều rất cao, thực hiện được phương châm: càng đánh càng mạnh. Về chiến lược thì càng đánh càng mạnh, nhưng trong phạm vi một chiến dịch là rất khó. Có chiến dịch thắng lợi lớn nhưng không phát triển mà phải dừng lại và kết thúc.
"Lại nói về mũi tiến của sư đoàn 10 theo đường 21 về Nha Trang. Ngày 22 tháng Ba, ta đánh chiếm Khánh Dương. Từ ngày 19 tháng Ba, đã có một tiểu đoàn của trung đoàn 25 ra chiếm đèo Mơ Đrắc nhưng mình đi bộ nên chậm. Thành thử lữ dù 3 đến được trước, liền dựa vào địa hình hiểm yếu lập tuyến phòng thủ ngăn quân ta tràn xuống. Lữ dù 3 gồm ba tiểu đoàn 2, 5, 6, cùng với tàn binh của trung đoàn 40(thuộc sư đoàn 22) và lực lượng bảo an của địa phương, lấy tiểu đoàn làm đơn vị kết hợp với các trận địa pháo hình thành các nút chặn liên tục từ đèo Mơ Đrắc đến Dục Mỹ. Cách đánh của chúng cũng rất lợi hại: Chia thành từng phân đội nhỏ chốt giữa các lực lượng của ta, ép dần ta lại rồi dùng hỏa lực pháo binh và máy bay mà tiêu diệt. Vậy thì lực lượng của ta cũng không được tập trung, cũng phải chia thành phân đội. Mặt khác phải tiêu diệt thật nhanh chóng các cụm pháo. Đi theo trung đoàn 28 là lực lượng tấn công chủ yếu, có một cụm pháo của chiến dịch làm nòng cốt để tổ chức các hỏa lực, chủ yếu là phát huy khả năng pháo đi cùng, ví như cối 120, cối 82, và ĐKZ 57, thêm B.40, B.41 đến gần, bắn thẳng. Trước tiên là diệt cụm pháo của tiểu đoàn 5. Pháo mất, chiến thuật bị phá vỡ, chúng chạy dồn về tiểu đoàn 6. Lại diệt luôn cụm pháo của tiểu đoàn 6. Các nút chặn của tiểu đoàn này bị bật luôn, lại chạy dồn về tiểu đoàn 2. Bộ chỉ huy của lữ dù 3 cũng ở liền đó. Chúng ta lại di chuyển hỏa lực tập trung đánh cụm pháo cuối cùng. Chúng có ba mươi sáu khẩu pháo 105 và 155, thì bị diệt mất hai mươi tám khẩu. Có một khẩu ĐK bắn bảy phát phá hủy sáu khẩu pháo, thật là một chuyện chưa từng có. Lữ dù 3 tháo chạy, nhưng chạy sao thoát. Một lực lượng đã được đưa đến từ trước cắt ngang đoạn đường giữa đèo Mơ Đrắc và Dục Mỹ, dùng H.12, ĐK, cối, bố trí hai bên sườn núi mà xỉa xuống trục đường. Phía sau đuổi phía trước chặn, bọn dù này có chạy giỏi lắm cũng chỉ thoát được khoảng một tiểu đoàn. Tuyến dù đã bị phá vỡ! Ngày 2 tháng Tư, quân ta tiến vào Nha Trang. Ngày 3 tháng Tư ta vào Cam Ranh. Chiến dịch Tây Nguyên bắt đầu ngày 4 tháng Ba, kết thúc ngày 3 tháng Tư. Ba mươi ngày, tiêu diệt và làm tan rã một quân đoàn chủ lực nguy cùng toàn bộ lực lượng vũ trang của địa phương thuộc năm tỉnh vùng cao nguyên miền Trung và hai tỉnh miền duyên hải, giải phóng một vùng đất đai rộng lớn gồm bảy tỉnh, và khoảng một triệu rưởi dân...
"Diệt xong hai cụm pháo của hai tiểu đoàn dù 5 và 6, thì tôi nhận được điện của chỉ huy sở tiền phương gọi về gặp anh Dũng nhận nhiệm vụ mới. Thế là lỡ mất một dịp may được cùng với bộ đội tiến vào Ninh Hòa. Mà tôi thì rất ao ước được đứng trong đội ngũ đầu tiên trở lại cái thị trấn này sau ba chục năm xa cách. Ba mươi năm về trước, tôi mới có hơn bốn tuổi. Ông bà sinh cơ lập nghiệp ở vùng Đơ, sau mới về Thịnh Hào tức là Hàng Bột bây giờ, có thể tự xem là dân Hà Nội chính gốc. Cách mạng thành công chưa được mấy ngày thì quân Pháp đã lại gây hấn ở Nam Bộ. Anh Huỳnh Tấn Phát được ủy nhiệm ra nhận một số cán bộ đưa vào tổ chức lực lượng kháng chiến. Trong đoàn quân Nam tiến đầu tiên do anh Phát dẫn đầu có tôi và mấy người bạn thân cùng hoạt động ở Hà Nội trước ngày khởi nghĩa. Đến Ninh Hòa thuộc khu 6 thì rẽ vào đường 21 lên Buôn Mê Thuột, đóng quân tại trại lính khố xanh, tức là tiểu khu Đắc Lắc bây giờ. Cuối tháng Một năm 1945, đánh trận đầu tiên với quân của Lơ-cléc thọc từ đồn điền Ba-ranh sang. Hai bên giáp trận giữa ban ngày, bên ta có bảy chục người, bên nó là một tiểu đoàn, chúng ta bị hy sinh mất chín đồng chí. Rồi bọn tôi kéo nhau chạy, cứ theo đường 21 mà chạy về tận Xuân Hòa, rời xuống đến Ninh Hòa. Cuộc đời chiến đấu kéo dài ba chục năm bắt đầu từ cái trận ấy, từ cái tháng ấy. Sang tháng Chạp, anh Phát dẫn sáu anh em trong đội vào Nam Bộ trước, đi theo quốc lộ I qua Phan Rang, Phan Thiết vào miền Đông. Số còn lại do tôi phụ trách ngày ngày tập hợp anh em đi đều bước đến chỗ đồng chí quản lý của khu 6 báo cáo quân số, xin ăn cơm, ăn xong lại hát một bài rồi kéo về phố Ninh Hòa. Mà buồn quá, giặc thì còn ở xa, lại chưa có việc gì để làm, người xin được vào Nam Bộ ngay, người lại muốn trở ra Bắc, không biết phải xử trí như thế nào? Anh Phạm Kiệt là tư lệnh khu 6 lúc bấy giờ liền tổ chức mấy chục người lại thành một đội tuyên truyền cho cuộc tổng tuyển cử vào tháng Giêng năm 1946. Đi tuyên truyền là phải biết hát, biết làm kịch. Kịch diễn nửa chừng mới đứng ra nói chuyện về cuộc tổng tuyển cử đầu tiên trong cả nước, giới thiệu công trạng của các vị ra ứng cứ, là hô hào đồng bào bỏ phiếu cho các vị đó. Sau đợt tuyên truyền này, anh Kiệt lại giao cho tôi làm công tác huấn luyện quân sự cho những anh em từ ngoài Bắc vào qua Ninh Hòa, hoặc đi nữa vào tận Nam Bộ, hoặc rẽ lên Buôn Mê Thuột. Huấn luyện quân sự ở cái năm đã xa xôi ấy là như sau: "Tổ súng máy bắn, nổ súng trường tiến. Tổ súng trường bắn, tổ súng máy tiến...". Cứ lấy cái sân bóng ở Ninh Hòa mà bày binh bố trận, thấy đội hình tiến lui nhịp nhàng, uyển chuyển là đã hài lòng lắm. Lại nhớ cái tết năm 1946, còn cách vài ngày nữa là tết, đang ngồi với trung đội bàn tán về cách đánh du kích thì địch ập đến. Nổ súng lung tung một chập, mình chạy, quân Pháp dồn đuổi đến tận chân đèo Dốc Mỏ. Lại dắt nhau chạy nữa, qua đèo Dốc Mỏ mất hai đêm hai ngày sang tận Đồng Bò, quên mất cả chiến tranh du kích. Khi được gặp anh Nguyễn Sơn ở trường tiểu học Tuy Hòa, anh mắng là lũ bại trận, lũ chạy dài, mặt thằng nào thằng ấy cứ đực ra. Nó đánh rát thì mình phải chạy, không chạy thì đưa ngực ra hứng đạn sao? Nghĩ thế, nghĩ một cách thơ ngây và đơn giản như thế. Nhớ lại cái năm đã rất xa ấy, thương vô cùng, mà nhớ cũng vô cùng. Giả thử có ai hỏi vào cái năm ấy ta sẽ thắng Pháp bằng cách nào cũng rất khó trả lời. Nhưng nhất quyết là phải đánh, đánh rồi lại rút, rút nhiều nơi, rút mấy năm liền, nhưng vẫn cứ phải đánh. Đánh mãi rồi cũng tìm được ra một cách đánh. Đánh đến trận Điện Biên Phủ thì thấy cái sự thắng nó đã là lẽ tất nhiên rồi.
"Cái đêm ngồi ở chỉ huy sở của sư đoàn 10, bị pháo 155 của bọn dù dập đúng, chết mất một đồng chí thông tin đi cùng, cả đêm tôi không ngả lưng một lúc nào. Trong đêm ấy tôi biết một cách chắc chắn là chúng ta sẽ giải phóng toàn miền Nam trong mùa Xuân này, là cuộc khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng kéo dài đã ba chục năm đang tiến dần tới những giây phút sau chót. Vì tin là thế, biết chắc chắn sẽ là thế nên sự vắng mặt đột nhiên của người này người kia hóa ra đau đớn vô cùng. Lại nghĩ đến trận đánh đầu tiên trong đời và người bạn thân nhất đã hy sinh trong trận đánh đầu tiên của năm ấy. Năm ấy anh cũng chỉ trạc tuổi tôi, hăm ba hăm bốn tuổi. Mãi mãi anh là một chàng trai hăm bốn tuổi. Đồng chí thông tin vừa hy sinh trong đêm cũng chỉ mới ngoài hai mươi. Mà người hy sinh đêm nay chưa phải là người sau cùng. Nếu người sau cùng lại là tôi thì tôi rất mãn nguyện, vì tôi đã được tận mắt nhìn thấy Cách mạng đang toàn thắng. Ngồi trên xe trở lại đoạn đường 21 về Buôn Mê Thuột vừa bâng khuâng, vừa lạ lùng. Có bao nhiêu sự trùng hợp rất ngẫu nhiên mà ngỡ đâu như đã được chọn lọc, đã được sắp xếp từ trước để tạo ra một kết thúc lý thú và có hậu. Cũng đoạn đường này lần đầu tiên được biết thế nào là chiến tranh, rồi cũng vẫn đoạn đường này được chứng kiến những ngày sau cùng của một cuộc chiến tranh. Ở cái năm đã rất xa, mấy chục người súng thiếu, đạn thiếu, kinh nghiệm đánh giặc lại càng thiếu, bỏ chạy trước một tiểu đoàn quân viễn chinh Pháp, từ Buôn Mê Thuột xuống đến Ninh Hòa. Ba chục năm sau, nhìn một cánh quân nào pháo nào xe, nào súng lớn súng nhỏ, ầm ầm tiến xuống miền duyên hải để tiêu diệt nốt nhưng đơn vị còn lại của một quân đoàn ngụy được gọi là mạnh. Lúc mới đến vùng đất này, tóc hãy còn xanh, còn rất xanh, khi trở lại, chưa hẳn là một ông già, nhưng tóc đã bạc trắng. Trong cánh quân tiến đánh Nha Trang, trong cánh quân tiến đánh Tuy Hòa, có nhiều anh em đánh trận này là trận đầu tiên. Đánh là thắng ngay, nổ súng là đuổi giặc, chỉ một bước nhảy đã đứng ngang hàng với những người hành quân từ ba chục năm về trước. Họ là những người đến may mắn. Nhưng sự may mắn của họ đã được chuẩn bị gian khổ từ nhiều năm. Nên nghĩ là quá dễ, là quá thuận, là của trời cho. Rồi đến lượt họ cũng lại phải chuẩn bị nhẫn nại, chuẩn bị gian nan trong một chục năm, hai chục năm, có thể là ba chục năm cho sự nghiệp xây dựng và hoàn thành chủ nghĩa xã hội. Chỉ mong rằng khi gặp khó khăn, gặp trở ngại thì họ chớ vội nản, chớ vội buồn, chớ vội nghĩ rằng: "Không xong rồi, hỏng hết cả rồi, phải tìm một cách khác thôi". Muốn giành được độc lập và tự do thì không có cách nào khác là cầm súng đánh đuổi quân xâm lược. Muốn giữ được độc lập và tự do mãi mãi thì cũng không có cách nào khác là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Xây dựng một nước Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa có thể còn khó hơn cả những năm dài đánh giặc, rồi sẽ có những trận thắng, và cũng có cả những trận thua. Tự mình vạch ra một cách thức cho riêng mình thì phải biết gánh chịu những sự thắng, sự thua rất tất nhiên đó. Hãy tin ở tương lai, hãy tin ở những thế hệ sẽ tiếp nối. Nếu như chúng ta tự nghĩ không có điều gì đáng phải hổ thẹn với ông cha, thì những lớp người tới sau chắc chắn cũng sẽ không có điều gì đáng phải hổ thẹn với chúng ta cả. Một dân tộc đã được hoàn toàn giải phóng, dân tộc đó sẽ làm nên những việc phi thường.
“Thời đại Hồ Chí Minh là thời đại của những thay đổi phi thường”.
Tết Bính Thìn
XUÂN THIỀU