BẮC HẢI VÂN XUÂN 1975 I
KỂ CHUYỆN TỪ KHU NHÀ THUỘC VỀ NGƯỜI CHIẾN THẮNG
Kể lại những điều hiểu biết về chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 ở Trị Thiên - Huế cho một nhà báo nghe, tôi chợt nhớ cách vài hôm trước đây có một tin vắn đăng trên báo Nhân dân. Tin về tên bại tướng Lâm Quang Thi đã xin được chân bồi bàn ở một tiệm rượu bên Mỹ. Tôi khoe cái tin này với các bạn bè trong phòng tác chiến chúng tôi. Lạ thay, không ai bình luận gì cả. Có anh đọc xong đoạn tin, tủm tỉm cười. Có anh ghé mắt nhìn qua một tý rồi dửng dưng làm việc mình. Có anh còn phũ phàng gạt tờ báo ra, chặc lưỡi coi như chuyện Lâm Quang Thi làm bồi bàn là tất nhiên, tin này có gì mà quan tâm. Riêng tôi, tôi lại thấy thú vị. Thoạt tiên tôi bỗng buồn cười cho một kiếp người. Sau đó, tôi để trí tưởng tượng của mình bay đến một thành phố xa lạ, ồn ào, với những ngôi nhà cao tầng, với những dòng người và xe nườm nượp hối hả. Trong một khách sạn trang trí lòe loẹt, có một anh chàng bồi bàn da vàng đang chạy bắng nhắng giữa đám khách da trắng trong tiếng nhạc giật cuồng loạn, tiếng dao dĩa cốc tách va vào nhau, tiếng cười nói la hét, huýt sáo của những người say:
– Ê bồi. Thêm một "Mác-ten".! Cho nhiều Sô-đa vào.!
– Ê ông lỏi da vàng! Sâm banh mau lên!
– Này! Vang trắng còn nữa không?
Hắn quay cuồng bận rộn, luôn mồm: thưa ông, thưa cô thưa ngài,... Hắn đang học cách bưng khay làm sao cho đi đứng thật uyển chuyển như múa. Ở Mỹ, nhìn người da vàng hầu bàn, không ai ngạc nhiên. Dù sao thì với hình dáng nhỏ bé, tóc đen, mũi tẹt với màu da vàng đục, với cách phát âm tiếng Anh còn cứng, hắn cũng trở nên một thứ lạ mắt. Còn lạ mắt hơn là khi khách hàng biết được rằng hắn vốn là tên tướng bại trận ở Việt Nam, một tướng ba sao cơ đấy. Người ta thích gọi hắn hầu bàn nhất là tụi sĩ quan hoặc lính tráng sống sót ở Việt Nam trở về. Hoặc vì tò mò để nghe thằng da vàng nói năng ngô nghê cho vui. Hoặc vì muốn hả dạ, để thằng tướng xưa kia biết thế nào là hầu hạ kẻ khác. Hoặc vì thương hại, tội nghiệp anh chàng. v.v.. Có điều là hầu như ai cũng gợi chuyện với hắn:
– Thế nào? Anh bạn người Việt Nam à? Di tản sang chăng?
– Thưa ngài, vâng.
– Hồi ở bên nước, đằng ấy làm nghề gì?
Hắn chỉ muốn quát vào mặt người đối thoại rằng, mày hỏi xỏ tao hả, mày coi thường tao hả? Tao đã từng là cấp tướng, gọi một tiếng là hàng trăm thằng như thứ mày chạy đến hầu hạ. Tao từng cụng ly thân hữu với các tướng lĩnh cao cấp Hoa Kỳ: Oét-mô-len, A-bra-ham,... Tao đã từng... chợt nhìn cái khay bưng trên tay, hắn sực tỉnh, hiểu ra thân phận mình lúc này. Hắn cười gượng:
– Dạ, làm nhì nhằng thôi ạ!
Hắn ỡm ờ đánh trống lảng, cố quên cái quá khứ xấu xa nhục nhã đi. Nhưng quá khứ chưa xa. Một bước ngoặt cuộc đời xảy ra cách đây sáu bảy tháng sao gọi là xa được? Hắn chưa quên thời kỳ vàng son của hắn - thời kỳ còn là trung tướng Lâm Quang Thi tư lệnh phó quân đoàn 1, quân khu 1, tư lệnh tiền phương vùng bắc Hải Vân - người chỉ huy cao cấp nhất ở Huế. Nói bước ngoặt cuộc đời cũng là thi vị hóa, chứ cái nghề làm tướng của Lâm Quang Thi thực chất cũng chỉ là anh bồi bàn cho thằng Mỹ mà thôi. Nhưng kệ thây cuộc đời hắn. Cuộc đời làm tướng tay sai của hắn có gì mà quan tâm? Sở dĩ đọc xong cái tin kia, tôi thấy thú vị có thể do cá tính của tôi, một thứ cá tính không biết nên khen hay nên chê. Tôi là trợ lý phòng tác chiến quân khu, nhưng anh em hay trêu tôi là người mơ mộng. Công việc ở phòng tác chiến là một công việc đòi hỏi tính cụ thể, chuẩn xác, khoa học, vậy mà anh em đùa như thế, nghe ra dễ bị mếch lòng, song tôi biết không ai có ý châm biếm chế giễu mình. Thú thật, chẳng qua thỉnh thoảng tôi cũng nổi hứng làm đôi bài thơ(thơ tôi là loại thơ vườn đến nỗi gửi sang báo Quân giải phóng Trị Thiên - Huế, cũng thường được góp ý kiến chứ ít khi được đăng. May phúc mà được đăng thì hầu như ban biên tập đã phải sửa đến nửa bài rồi). Tôi lại vốn là người đa cảm. Nghe một tiếng chim kêu thống thiết giữa trời hoàng hôn, nhìn những đợt sóng vỗ hoài vào ghềnh đá cam chịu, tôi thấy lòng mình chợt buồn, nỗi buồn của một người cô đơn. Đang đi giữa rừng bỗng thấy phía trước mở ra một thung lũng đầy nắng và hoa mua tím, tôi chỉ muốn reo lên. Cái cảm giác vui vẻ tràn dâng trong người khiến tôi chỉ muốn trở thành trẻ nhỏ, chạy tung tăng giữa nắng, ngắt những cánh hoa, đặt lên lỗ hổng nắm tay, dùng tay kia đánh một cái bốp. Cánh hoa này rách đã có cánh kia, lo gì. Mỗi cánh hoa là một tiếng nổ. Tiếng pháo tuổi thơ đấy!
Đầu óc tôi rất dễ liên tưởng. Đang vẽ bản đồ chiến lệ trận tập kích đồi 235 chợt nhớ tới chúng bạn thân hy sinh trong trận ấy, thế là nước mắt cứ giàn giụa. Ngồi gói thủ pháo với anh em, tôi là người đầu tiên nhắc tới chuyện gói bánh chưng, bánh tét, và lẽ dĩ nhiên chính tôi cũng đâm ra nhớ nhà...
Ừ nhỉ! Tôi là người hay liên tưởng. Bởi vậy, đọc xong cái tin vắn về tên bại tướng Lâm Quang Thi đã thành anh bồi bàn kia, tôi lẳng lặng rời bàn làm việc, đi ra hành lang lầu hai, tỳ tay vào lan can, nhìn ra toàn khu Mang Cá, nơi cách đây không lâu còn là sào huyệt của tên bại tướng Lâm Quang Thi. Nói cho đúng hơn, không phải sào huyệt của riêng hắn mà của hàng lô hàng lốc tướng tá ngụy khác. Chẳng hạn như tên trung tướng Ngô Quang Trưởng tư lệnh quân đoàn 1, tư lệnh quân khu 1 - một thứ người hùng kiểu Mỹ, một tay đại bợm đầu cơ chính trị và ma mãnh gian ngoan trong mánh khóe đề cao uy tín cá nhân. Với dáng người gày gò xấu xí nét mặt lúc nào cũng lạnh như tiền, hắn rất ít nói; chỉ nói lúc cần quyết định, cần ra lệnh. Hắn không bao giờ nhắc đến cái tỉnh Kiến Hòa(Bến Tre), quê hương hắn với những cù lao Minh, cù lao Bảo với những kênh rạch và những nếp nhà lợp bằng lá dừa nước, dù để khoe khoang cái cơ nghiệp đại địa chủ của cha hắn mà hắn đã ăn xài thỏa thuê. Lúc còn trẻ tuổi, hắn cũng không bao giờ nói ra là bằng cách nào mà hắn cuỗm được vợ một tay đại úy về làm vợ mình. Ấy thế, nhưng hắn vẫn để cho người ta biết hắn còn mang một mảnh đạn trong phổi. Một mảnh đạn của Việt cộng nhức nhối trong người lúc hắn còn là trung úy. Và đáng lý hắn được giải ngũ, thì hắn tình nguyện ở lại quân đội thề chống cộng suốt đời, và hắn đã ở lại với ba nguyên tắc sống nổi tiếng bỉ ổi. Một là, bằng mọi giá phải làm vừa lòng cố vấn Mỹ, kể cả cố vấn cấp trên lẫn cố vấn đồng cấp(có lần hắn đã cõng một cố vấn Mỹ bị thương chạy thoát chết, và vì thế hắn được thăng chức rất nhanh). Hai là, biết và dám nướng quân: thí quân lúc cần thiết cho một mục đích nào đó(tất nhiên là vì mục đích cá nhân). Thí quân không hề thương tiếc, không mảy may động lòng. Ba là, biết hướng về binh lính, mà tìm cách vỗ về phỉnh nịnh họ, vì họ là những con vật hy sinh. Với ba nguyên tắc sống tàn bạo và bỉ ổi ấy hắn dám gạt bỏ ngay những ham muốn này để phục vụ cho ham muốn khác. Vì thế, hắn đã gây được ấn tượng giật gân cho mọi người chung quanh.
Ở Đà Nẵng, hắn vẫn thường bay trực thăng ra Huế, đáp xuống cái khu Mang Cá này để kiểm tra, đôn dốc, để ra lệnh, hội họp. Để cho mọi người phải hiểu rằng hắn là tư lệnh quân đoàn 1, tư lệnh quân khu 1, người có quyền sinh quyền sát trong khu vực từ Quảng Trị đến Quảng Ngãi.
Bà con ở Huế vẫn nhắc tới Ngô Quang Trưởng với mùa hè năm 1972, khi ta tiến công giải phóng Quảng Trị, đuổi địch đến sông Mỹ Chánh. Hồi đó, Ngô Quang Trưởng được phái đến thay Hoàng Xuân Lãm đã bị gọi ra tòa. Tên tướng gian ngoan này đã lớn tiếng trên đài phát thanh Huế tuyên bố tử thủ, quyết tâm bảo vệ cố đô đến giọt máu cuối cùng. Giữa cái thành phố đã rã rời hoảng loạn, tiếng nói của hắn ít ra cũng vỗ về trấn an được phần nào tụi ngụy quân, ngụy quyền. Tiếc thay, hồi đó ta chưa đủ mạnh để giải phóng được Thừa Thiên - Huế, nên bỗng nhiên, lời nói dóc của hắn hóa ra ứng nghiệm. Một số người nhẹ dạ tâng bốc hắn, cả đàn cả lũ tụi ác ôn đề cao hắn và hắn cũng biết cách đi bách bộ dọc đường Trần Hưng Đạo để đám thanh niên nuôi ria mép nửa say nửa tỉnh trong các quán rượu, quán cà phê đổ ra đường đứng nghiêm chào hắn, hò hét suy tôn hắn là bậc anh hùng. Bà con ở Huế nhắc tới năm 1972 để giễu hắn năm 1975 này. Giễu hắn vì "bé cái nhầm", hắn lại huênh hoang tuyên bố “... dẫu có chết, hắn cũng sẽ sẵn sàng chết trên đường phố Huế”. Buồn cười thay, hôm 25 tháng 3 năm 1975 không có xác chết nào trên đường phố Huế cả, và hắn vẫn sống mạnh khỏe ở Đà Nẵng, chỉ phải uống một ly rượu mạnh, để tự trấn an tinh thần mình.
Dưới trướng Ngô Quang Trưởng, ngoài Lâm Quang Thi ra còn nhiều tên khác: Tên thiếu tướng tư lệnh phó quân dân phụ trách các tiểu khu(tức là phụ trách bình định) Hoàng Vinh Lạc, tên đại tá tham mưu trưởng quân đoàn 1 Hoàng Mạnh Đán, tên đại tá Hy tham mưu trưởng quân đoàn 1 tiền phương, tên đại tá Duệ tiểu khu trưởng Thừa Thiên, tên chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm tư lệnh sư đoàn 1 bộ binh, tên chuẩn tướng Bùi Thế Lân và tên đại tá Nguyễn Thành Trí chánh, phó tư lệnh sư đoàn thủy quân lục chiến, tên chuẩn tướng Lê Quang Lưỡng tư lệnh sư đoàn dù, tên đại tá Dũng, lữ trưởng lữ đoàn 1 thiết kỵ, tên... Ồ, nhiều tên khác không thể kể hết. Những tên tướng tá bại trận ấy đã có một thời vênh váo vào ra khu Mang Cá này, cái hang ổ đầu não dù để chỉ huy toàn bộ quân ngụy ở Trị Thiên - Huế mà chúng còn gọi là bắc Hải Vân. Giờ đây, thằng thì đã cao chạy xa bay sang nước ngoài, thằng thì vào các trại cải tạo của ta, và có thằng đã xanh cỏ. Tôi đã bắt gặp chúng nó rạng ngày Bộ tư lệnh quân khu về đóng ở Mang Cá. Chúng phơi mặt ra trên những tấm ảnh vương vãi khắp sàn nhà, cầu thang, hố xí những chiến sĩ của sư đoàn 325, 324 của trung đoàn 6 đã lôi chúng từ những quyển "an-bom" lưu niệm, từ những khung ảnh treo tường, từ những ngăn kéo, ô bàn, ô tủ, v.v.; và sau khi chửi thề chửi đổng vài câu đã xé đôi, xé ba, xé tư, ném tung ra đất cho những khuôn mặt béo phì đầy hãnh tiến của một thời, tha hồ ngắm đế giầy đế dép cao su Quân giải phóng. Cùng vương vãi với những khuôn mặt nhớp nháp ấy là cờ xí, quần áo rằn ri, kê-pi, bê-rê.. mũ đồng; là những huy hiệu tạp nham mang hình chim ưng, trâu điên, hổ vằn, ngựa trắng,... ; là súng đạn các loại, là giấy tờ, tài liệu, báo chí bay tung lên như bươm bướm mỗi lần có trận gió qua; là chân dung tên bán nước Nguyễn Văn Thiệu bị gạch chéo hoặc bị chọc thủng mắt; là dây thép gai, vỏ đồ hộp mang nhãn hiệu Mỹ, Đài Loan hoặc Nhật Bản.
Bây giờ, tất cả những thứ rác rưởi ấy đã được thu dọn từ lâu. Khu Mang Cá đã trở thành doanh trại Quân đội nhân dân Việt Nam. Bộ tham mưu chúng tôi làm việc ở đây. Cục chính trị ở kia và đằng sau chúng tôi là Cục hậu cần, Cục kỹ thuật.
Lúc này, vừa vào đầu giờ làm việc của buổi sáng, doanh trại trang nghiêm. Các chiến sĩ vệ binh đứng gác, vài chiếc hon-da tắt máy dắt bộ qua cổng. Phía ngoài cầu Kho là áo màu, là xe cộ nổ máy, là cuộc sống bình thường của nhân dân. Tiếng súng đã tắt, vĩnh viễn tắt rồi. Một cuộc sống hòa bình đang mở ra... Bất giác, tôi ngước nhìn lên và bắt gặp lá cờ đỏ sao vàng đang uốn lượn trên cột cờ giữa sân. Cái màu đỏ như có hơi thở ấy đang phập phồng in lên những đám mây màu xà cừ.
"Đã ba mươi năm..." - Tôi thầm kêu lên. Đã ba mươi năm, kể từ ngày tôi nhìn thấy lá cờ đỏ sao vàng đầu tiên. Hồi đó, tôi chỉ là một chú bé con bận quần xà lỏn chạy đi “coi” người lớn giành chính quyền ở huyện. Bây giờ tôi đã đến bốn mươi, lác đác vài sợi tóc bạc. Ba mươi năm, qua hai cuộc kháng chiến ác liệt để hôm nay lá cờ đỏ sao vàng bay lượn trên cột cờ khu Mang Cá như một sự khẳng định chiến thắng. Niềm tự hào trào dâng trong lòng, tôi đưa tay lên chấm những giọt nước mắt ứa ra trên mi, chỉ sợ ai trông thấy.
Với một tâm trạng xúc động như thế, tôi cứ lững thững đi dọc hành lang, xuống cầu thang, đi dọc hành lang tầng dưới - nơi có những bao cát xếp chồng lên nhau thành một bức tường bảo vệ. Có thể quên đi cái hang ổ của tụi ngụy xưa kia, bởi vì khu Mang Cá bây giờ gợi lại cho tôi cái cảm giác quen thuộc của khu doanh trại quân đội ở Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định - những khu doanh trại do Pháp xây để lại cổ lỗ xấu xí nhưng được cái chắc chắn, vững chãi. Lại vẫn cờ, khẩu hiệu, ảnh Hồ Chủ tịch trang trí ở các phòng. Lại vẫn những cán bộ bận quân phục "ga- bác-đin" hoặc vải chéo xanh, quân hàm đeo trên ve áo, ngồi làm việc hoặc đi lại bận rộn. Lại vẫn phích nước, ấm chén - và có khi còn có cái ống điếu thuốc lào bằng "duya- ra" máy bay Mỹ - đặt trên bàn uống nước, lại vẫn những dãy giường cá nhân, chăn màn xếp gọn ghẽ vuông góc và những chiếc hòm gỗ giản dị vừa là tủ vừa là bàn đêm.
Cuộc sống của một doanh trại ổn định tạo nên cái không khí quen thuộc. Dấu tích của đội quân chiếm đóng và đội quân đánh thuê còn lại trên những chiếc tủ, chiếc bàn bằng kim loại nặng nề, trên những chiếc ghế dựa có bánh xe, có trục xoay di chuyển tiện lợi, trên những chiếc quạt hai cánh của hãng "Giê-nê-rôn ê-léc-tơ-rích" Mỹ, to tổ bố, cao lênh khênh đặt ở góc phòng.
Không - tôi tự cãi mình - dấu tích của chúng còn khá nhiều, rải rác đó đây từ câu viết bậy trong hố xí đến lá cờ sọc dưa dùng làm giẻ lau xe đạp Nhưng tập trung hơn cả, có lẽ là khu nhà hầm “trung tâm hành quân”. Đây là một thứ nhà hầm hình chữ nhật, khá rộng lớn, đắp nổi bằng nhiều tầng bao cát xếp dày, đạn đại pháo 130 ly không xuyên thông, có hàng rào thép chống đạn B.40 bao quanh. Nhà "trung tâm hành quân" này bây giờ trở thành một thứ bảo tồn để nghiên cứu, để nhìn vào đó càng tự hào về chiến thắng của ta.
Một ý nghĩ ham muốn xem lại chợt đến, mặc dù tôi đã quá quen thuộc với ngôi nhà này, tôi quay về phòng tác chiến mượn cái chìa khóa. Chẳng vì nhà này do phòng tác chiến chúng tôi quản lý. Đấy là nơi chúng tôi chứa tất cả mọi thứ tài liệu quân sự của địch và tất nhiên cũng là nơi thuận tiện để chúng tôi cất hon-đa, xe đạp mỗi lần đi phép hoặc đi công tác xa không cần đến. Tính tôi hay hình dung ra như thế, khi mở khóa đánh tách một cái, là tôi hình dung ra tên đại tá Hy đang đứng thẳng người giơ tay lên vành mũ kê-pi chào bọn quan trên Ngô Quang Trưởng, Lâm Quang Thi, v.v.. Hắn đứng chào ngay cạnh cửa hành lang nơi có dán bản quy định cho tất cả các sĩ quan đi vào “trung tâm hành quân". Tôi bỗng nảy ra ý nghĩ khôi hài: “...Riêng tớ thì được miễn chứ!”. Cái hành lang tối lờ mờ bỗng chốc sáng bừng lên khi tôi ấn vào công tắc bên tường. Liên tiếp các buồng khác được sáng đèn. Một mùi mốc vì thiếu hơi người. Những dãy bàn ghế trống không. Vẫn treo nguyên trên tường là các bản theo dõi, thống kê, quy định nhiệm vụ sĩ quan trực chiến, các loại bản đồ được đánh dấu bằng bút chì màu. Chúng nó vẫn còn kia chăng? Những tên sĩ quan tham mưu trực tác chiến, tình báo, trực không quân, trực pháo binh, công binh, thông tin, sĩ quan trực hải quân, tiếp liệu, v.v.., những tên đeo hoa mai trên ve áo, tóc râu đều sức dầu thơm còn ngồi sau những chiếc bàn kia chăng? Thực ra, tôi đã gặp chúng trong các trại cải tạo, đang đánh trần ra chặt gỗ dựng nhà, hoặc đang im lặng nghe bài giảng vỡ lòng đầu tiên: thế nào là nước Việt Nam, thế nào là đế quốc Mỹ.
Thực ra trước đó nữa tôi đã gặp chúng giơ tay đầu hàng dọc con đường xuống cảng Tân Mỹ bên cạnh ngổn ngang xác xe tăng, xe giép, xe vận tải các loại - cái thì chổng kềnh dưới ruộng, cái thì bẹp gí, vỡ mặt, cái thì cháy ra màu gỉ đỏ. Thực ra bạn bè tôi đã tóm được chúng trên các nống cát dưới Hà Thanh, Hà Úc, Tư Hiền - những tên ngoan cố nhưng bất lực không thể chạy ra biển trong lúc tàu bè ngoài khơi bị trúng đạn pháo ta bốc cháy.
Bây giờ chúng không thể nào còn ở trong ngôi nhà hầm này nữa, mà tôi vẫn tưởng tượng ra chúng. Nhưng lạ chưa, chúng trở nên bất động y như người trong cuốn phim dùng thủ thuật cho đừng hẳn lại. Khuôn mặt thằng nào cũng trở nên cứng đờ như đắp bằng thạch cao. Phải chăng cái ảo giác này là do từ cái không khí chết lặng của căn phòng mà thời gian dường như đã chấm dứt, đã dừng hẳn theo tờ lịch treo tường chỉ rõ ngày 25-3-1975.
Tôi đứng trước những tấm bản đồ ở buồng chỉ huy được thiết kế như những cánh cửa tủ xếp chồng lên nhau. Tấm bản đồ miền Nam Việt Nam đã được gạch xiên và khoanh viền lại bằng bút chì than ở toàn bộ Tây Nguyên, ở Tam Kỳ, Quảng Ngãi và Quảng Trị - đánh dấu những vùng đất đã mất vào tay quân ta. Đấy là lần ghi cuối cùng của tên sĩ quan tham mưu trực chiến, sau đó chắc hắn không còn đầu óc nào mà ghi vào bản đồ nữa, hắn lo thu xếp vợ con gia đình và thu xếp lấy cái thân hắn. Nhưng chỉ mới chừng ấy thì nhìn lên bản đồ, cũng đã thấy Huế - Đà Nẵng trơ ra như một cù lao, lọt thỏm giữa những vòng vây thít chặt.
Tôi lần lượt mở những cánh cửa tủ khác. Những tấm bản đồ Trị Thiên - Huế mỗi cái có một tác dụng theo dõi riêng cũng lần lượt hiện ra. Hầu như bản đồ nào cũng được ghi chép, đánh dấu vào những ngày đầu của chiến dịch. Sau đó, hoặc vì tự lừa dối để trấn an tinh thần ngay trong bộ tư lệnh tiền phương của chúng, hoặc vì không đủ minh mẫn sáng suốt để làm việc, chúng đành bỏ.
Giờ đây, trên tấm bản đồ bố trí lực lượng của chúng đã chết lặng tất cả ký hiệu những đơn vị, những sân bay, hải cảng, những căn cứ, sở chỉ huy chi khu quân sự, v.v. Đã chết lặng tất cả binh quân chủng của đội quân tay sai ngoại bang: bộ binh, pháo binh, dù, thủy quân lục chiến, thiết giáp, không quân, hải quân, cảnh sát,... Đã chết lặng trên màu xanh bút chì những phiên hiệu quen thuộc: lữ 2 dù, lữ 147, 258, 369 thủy quân lục chiến, trung đoàn 1, 3, 51, 54 thuộc sư 1 bộ binh, liên đoàn biệt động 15, 14, liên đoàn bảo an 913, 914, lữ 1 thiết kỵ, thiết đoàn 20, v.v.. Có điều là những ký hiệu biểu thị lực lượng của chúng quả là dầy đặc, chen chúc trên bản đồ từ Thanh Hội - Long Quang qua Tích Tưởng - Như Lệ về tây Hải Lăng, tây Phong Diễn kéo xuống đường 12, đường 14, vào tận Lăng Cô, Hải Vân. Hãy tưởng tượng xem hơn bốn chục tiểu đoàn với trang bị hiện đại của Mỹ cùng với năm vạn dân vệ, phòng vệ dân sự, tất cả gồm mười một vạn tay súng đã từng hoành hành trên mảnh đất Trị Thiên nhỏ bé này. Cảm giác của ta trở nên lạnh tanh, rợn người vì sự va chạm của sắt thép; cảm giác của ta trở nên chật chội khó thở vì đi đâu cũng vấp phải thằng người cầm súng. Vùng trời bị rạch nát vì những đường bay của hàng trăm phi vụ, những đường đạn đại bác cháy bỏng không gian. Chen trong tiếng sóng vùng biển, trên các cảng Mỹ Thúy, Thuận An, Tư Hiền là tiếng động cơ của các loại tàu chiến và tiếng nổ đầu nòng của đại bác tầm xa...
Sức mạnh của chúng hiển nhiên phơi bầy ra như thế, vậy mà chỉ trong vòng hai mươi ngày(từ ngày 5 tháng 3 năm 1975 đến ngày 25 tháng 3 năm 1975) đã tiêu tan. Điều gì đã khiến cho một đạo quân hùng hùng hổ hổ như vậy bỗng nhiên bị đè bẹp một cách nhanh chóng?
Bất giác, tôi lật thêm một cánh cửa tủ, và trước mắt tôi là cái bản đồ ghi chép theo dõi lực lượng của ta. Những ký hiệu kèm theo mũi tên đỏ từ Trường Sơn thọc xuống, từ phía bắc ép vào. Quả thật, thằng địch hiểu ta không sai mấy: Sư đoàn 324, sư đoàn 325 thuộc quân đoàn 2 tiến công từ Mỏ Tàu vào đến núi Kim Sức, Lưỡi Cái; Trung đoàn 271 ở La Sơn, trung đoàn 6 ở núi Chúc Mao, đèo Sơn Na, trung đoàn 4 và phía sau là trung đoàn 46 ở tây Phong Điền, lữ xe tăng 203 ở A Lưới, tiểu đoàn 3 ở nam Cửa Việt, tiểu đoàn 8, tiểu đoàn 10 ở tây Hải Lăng, tiểu đoàn 21, tiểu đoàn 5 ở Lăng Cô, Hải Vân, v.v... Tất nhiên chúng có sai một số chi tiết như có chỗ chúng đã đặt cả sư 308, sư 341 vào vùng Gio Linh- Cam Lộ. Đấy lại là chuyện khác, chuyện về công tác nghi binh tài giỏi của ta. Nhưng điều quan trọng hơn hết là chúng không làm sao hiểu rõ và ghi chép được những biểu hiện đầy đủ về sức mạnh. Sức mạnh của ta đâu chỉ riêng những sư đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn từ bàn đạp Trường Sơn thọc xuống mà còn hàng chục vạn nhân dân đang làm ruộng, đốn củi, buôn bán, học hành, còn cả những người lính tỉnh táo trong hàng ngũ chúng. Sức mạnh của họ đều là những trái bom hẹn giờ. Sức mạnh đâu chỉ trong khẩu AK cầm tay, trong những viên đại pháo 130 ly, trong những chiếc T54, trong các loại A72, tên lửa... mà sức mạnh còn trong trái tim, khối óc những người làm chủ vũ khí chiến đấu. Sức mạnh không chỉ ở lực mà còn ở thế nữa - cái thế ta đã giành phần ưu từng bước và vừa qua đã đến điểm áp đảo kẻ địch. Sức mạnh còn là sự tổng hợp của ba thứ quân, sự chặt chẽ của ba mũi giáp công, sự nhịp nhàng giữa tiến công và nổi dậy, sự uyển chuyển của đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao,...
Kẻ địch không làm sao hiểu nổi sức mạnh của ta, nên đã từ bàng hoàng, hốt hoảng đến tan rã nhanh chóng. Tan rã và thất bại hoàn toàn.
Tôi lần lượt đóng những cánh cửa tủ lại, để cho những tấm bản đồ quân sự của một bộ tư lệnh bại trận nằm yên cùng với tờ lịch trên tường dừng hẳn trong ngày 25 tháng 3 năm 1975. Ngôi nhà “trung tâm hành quân” này trở nên một thứ nhà mồ. Dấu tích của một đạo quân tay sai của đế quốc Mỹ, một đạo quân gần 11 vạn tay súng ở Trị Thiên - Huế này đã chôn vùi trong đó.
⚝ ⚝ ⚝
Ngoài sân, nắng đã lên màu mật ong xua tan cái giá rét mấy hôm nay. Có tiếng cười tiếng nói chuyện vui vẻ ở tam cấp nhà Bộ tham mưu. Tôi thấy đủ mặt các đồng chí trong Bộ tư lệnh quân khu: thiếu tướng Lê Tự Đồng, thiếu tướng Hồ Tú Nam, đại tá Dương Bá Nuôi, đại tá Nguyễn Chi, đại tá Trần Văn Ân,... cạnh đó còn có đồng chí thượng tá tham mưu trưởng, người đã mất cánh tay phải trong trận Thanh Lam Bồ hồi chống Pháp và suýt mất nốt cánh tay trái trong chiến dịch 1972 ở Quảng Trị. Đồng chí thượng tá cục trưởng chính trị, một cán bộ vui tính mà chúng tôi hay gọi đùa là "nhà thơ mũi mác". Và một số cán bộ khác nữa. Có lẽ vì nắng ấm và vì câu chuyện trong giờ giải lao quá vui vẻ, nên ai cũng cười nói rất tươi, nét mặt đỏ au. Bây giờ đã xóa hẳn dấu chân của tụi Ngô Quang Trưởng, Lâm Quang Thi, Hoàng Vinh Lạc,... Trên sân Mang Cá này là những con người đại biểu của chiến thắng. Chợt nhớ tới những ngày Bộ tư lệnh quân khu phải nương nhờ trên đất Mường Noòng bên nước bạn, những ngày về đứng chân trong khu rừng Cao Bồi trên biên giới Việt Lào. Những ngày mà anh em ở cơ quan Bộ tư lệnh chúng tôi mỗi bữa chỉ được một lạng gạo, chủ yếu sống bằng rau rừng mà vẫn đinh ninh một lời hứa son sắt, một lời thề nhất định có ngày sẽ trở về với Huế. Chao ôi, niềm tin của chúng ta thật là mãnh liệt!