⚝ IV ⚝ HÃY ĐỢI ĐẤY ! KHÔNG LÂU NỮA ĐÂU !
Tên bồi bàn da vàng ở Mỹ, tên bại tướng Lâm Quang Thi ấy chắc chưa thể quên được những ngày còn quá vui vẻ - những ngày cuối tháng 2 năm 1975. Đối với những tên tướng tá của cái "đệ nhị cộng hòa" thì vui vẻ nhất là lúc được hoàn toàn yên tâm. Riêng với Lâm Quang Thi, chỉ cần đôi chút yên tâm, hắn đã quá vui vẻ rồi.
Thời kỳ đó, chắc hắn biết tổng thống Thiệu không mấy vui. Nỗi buồn phiền của Thiệu tấy lên nhức nhối kề từ ngày vụ “Oa-tơ-ghết” vỡ lở, Ních-xơn bị nốc ao, và anh chàng Pho bất tài bất lực đành chịu lép vế trước sức ép của quốc hội Mỹ đang tìm mọi cách hạn chế quyền hành của tổng thống mà điều quan trọng nhất là không chịu tăng viện thêm cho Nam Việt Nam. Tiếp đến khi ta giải phóng hoàn toàn tỉnh Phước Long, Nhà trắng và Lầu năm góc làm ầm ỹ lên như thế, tưởng sẽ có hành động quyết hệt vậy mà về sau vẫn êm re. Đến cái mức tối thiểu là tăng viện thêm cho Nam Việt Nam cũng không nốt. Không riêng Lâm Quang Thi mà đa số tướng tá ngụy coi sự kiện trên chỉ là thử thách nhau mà thôi. Hoa Kỳ làm ra vẻ lạnh nhạt với Nam Việt Nam là để họ phải gia tăng tự lực chiến đấu, để họ phải buộc chặt hơn nữa với Hoa Kỳ. Còn như ông Thiệu để mất Phước Long một cách dễ dàng và không chủ trương tái chiếm là cốt gây sức ép với Hoa Kỳ, cốt mè nheo yêu sách viện trợ tối đa. Tất cả những trò xiếc trên sân khấu chính trị này sẽ phải chấm dứt để nhường chỗ cho sự thật là Hoa Kỳ không đời nào bỏ rơi Nam Việt Nam. Đấy là điều ngu xuẩn mà bọn Lâm Quang Thi cố tin vào đó tìm đôi chút yên tâm. Hơn nữa, chắc bọn hắn vẫn cảm thấy cái “đệ nhị cộng hòa” còn bề thế lắm. Có sứt mẻ tí chút rồi sẽ hàn gắn lại, không sao cả. Bởi thế, Bộ tổng tham mưu nguy còn nhận định rằng sắp tới, ít ra là trong năm 1975 này, ta chưa tổng tiến công được mà chủ yếu là đánh phá bình định. Có thể mở những trận tiến công vào Công Tum và đồng bằng sông Cửu Long. Muốn tổng tiến công phải là năn 1976.
Bộ tổng tham mưu ngụy đã đề ra kế hoạch Lý Thường Kiệt, tìm mọi biện pháp bảo toàn lãnh thổ, không để một tấc đất rơi vào tay đối phương.
Thực chất kế hoạch Lý Thường Kiệt là tìm cách chặn ta trước. Huy động không quân đánh vào hành lang ta, hạn chế sự chi viện từ miền Bắc vào. Tổ chức diễn tập hải quân "Con chồn biển" để đề phòng đường tiếp tế biển của ta. Tăng thêm lực lượng dù và thủy quân lục chiến để có khả năng cơ động tốt hơn. Điều chỉnh lại lực lượng để phù hợp với kế hoạch phòng thủ “ưu tiên số 1” là Sài Gòn và vùng châu thổ sông Cửu Long. Sự chú ý tiếp đó là đồng bằng miền Trung Trung Bộ, nơi được coi là quan yếu. Tây Nguyên, biên giới, giáp ranh còn là "ưu tiên số 2". Theo nhận định trên, thì Trị Thiên - Huế chưa phải là điểm đối tượng tiến công chủ yếu của ta. Riêng điều đó cũng đủ làm Lâm Quang Thi yên tâm rồi.
Cố nhiên, mọi sự tính toán sắp xếp là do Thiệu, Viên, Bộ tổng tham mưu ngụy lo. Nhưng rút dây động rừng, khi bị điều hết lực lượng dù vào Đà Nẵng, vào Sài Gòn hắn có xuýt xoa tí chút, song với số quận hiện có là trên 40 tiểu đoàn, hắn có thể xoay xở được. Nói hắn có thể xoay xở là một cách nói để diễn đạt những điều có liên quan tới kế hoạch và nhận định của Bộ tư lệnh quân đoàn tiền phương ngụy mà chúng tôi biết. Chứ thực ra, theo lời một số sĩ quan cấp tá ở trại cải tạo mà sau này chúng tôi gặp, thì Lâm Quang Thi là tên tướng bất tài, vô học và ưa huênh hoang. Hẳn là hắn phải dựa vào Ngô Quang Trưởng, một tên tướng mà hắn vừa phục vừa sợ lại vừa ghen ghét. Nhưng thôi, nói làm gì chuyện nội bộ thối tha của chúng nó, chỉ biết là tụi chỉ huy quân đoàn tiền phương ngụy ở Huế đến cuối tháng 2 năm 1975 vẫn còn nhận định về phía ta rất cứng nhắc. Chúng cho rằng, ta chỉ giữ chốt, cầm chân không đánh mạnh, chủ yếu là xây dựng cơ sở ở đồng bằng. Sau Tết nguyên đán, ta sẽ đánh phá Bình Định, đánh cắt giao thông bộ và làm tê liệt phi trường. Đi đôi với những hoạt động trên là hoạt động vũ trang ở thành phố.
Điểm lại phía mình, bọn Lâm Quang Thi cho rằng chúng đã bình định được đồng bằng khá chặt, 100% ấp loại A. Tuy nhiên, chúng vẫn ra sức củng cố hệ thống kìm kẹp, tăng cường hành quân cảnh sát, nhằm đánh phá cơ sở của ta và đề phòng quần chúng bạo động. Vào thời kỳ đó chúng điều động tiểu đoàn 12 bảo an đang ở núi Yên Bầu về đông Phong Điền, phía tây phá Tam Giang, vùng nông thôn mà chúng cho là xung yếu. Ở phía nam có một sự hoán đổi giữa ba tiểu đoàn bảo an khác: tiểu đoàn 128 đang giữ Lăng Cô nay ra Phú Lộc thay tiểu đoàn 111, tiểu đoàn 111 vào Động Tốt thay tiểu đoàn 107, tiểu đoàn 107 lại vào Lăng Cô.
Sự hoán vị này nhằm mục đích phân công thích hợp với khả năng chống giữ của từng đơn vị, ngoài ra, thông thường chúng vẫn không muốn để một đơn vị ở một nơi lâu dễ bị ta bắt rễ vào làm nội ứng.
Về bố trí lực lượng chủ lực, chúng tổ chức phòng ngự từng khu vực(lấy trung đoàn hoặc đơn vị tương đương làm chủ) tập trung vào ba trọng điểm: Quảng Trị, Huế và trục giao thông đường 1, nhất là phía nam đoạn Huế - Đà Nẵng.
Trên hướng Bắc Huế chúng đưa hầu hết lực lượng bảo an ra vòng ngoài, để thủy quân lục chiến ở phía trong làm lực lượng cơ động tại chỗ. Ở hướng nam, chúng lại đưa hầu hết sư đoàn 1 bộ binh ra phía ngoài và tập trung vào khu vực Mỏ Tàu - 303 và Nong, Truồi. Đồng thời, tập trung lực lượng bảo an và một bộ phận chủ lực chốt giữ các đoạn giao thông quan trọng từ Lăng Cô đến Đá Bấc. Chúng cố gắng điều chỉnh dần thế bố trí để rút bớt lực lượng chiếm đóng ra làm cơ động và tranh thủ luân phiên củng cố một phần lực lượng. Nhìn chung, cả ở trên tuyến tiếp xúc giáp ranh cũng như ở đồng bằng nông thôn, kẻ địch có vẻ ổn định.
Chính cái vẻ ổn định ấy khiến cho tụi Lâm Quang Thi cảm thấy yên tâm. Chúng biết ta sẽ đánh, nhưng coi như đã sắp xếp đối phó xong, cứ yên trí mà ăn nhậu vui vẻ.
Vào thời kỳ đó, Huế rất đẹp. Sau những cơn mưa, trời trong ra, không nắng. Buổi sáng sương dăng mờ sông Hương để những tà áo trắng của các cô nữ sinh Đồng Khánh đi dọc đường Lê Lợi nom xa như ẩn như hiện. Cảm giác trở nên nhẹ nhõm và thanh khiết. Buổi chiều, phía trên cầu Bạch Hổ ló chân trời màu vàng nhạt điểm những cụm mây màu vỏ trứng. Trên đường Trần Hưng Đạo, người và xe đi lại nườm nượp. Đông đúc là thế mà sao vẫn không hối hả vội vàng như Sài Gòn, Đà Nẵng. Huế vẫn có cái phong thái riêng: dường như đĩnh đạc và hơi vô tư. Ít ra đấy cũng là cảm giác của tên tướng tư lệnh tiền phương khi hắn còn đủ thì giờ để chiều chiều, tiền hô hậu ủng đi đánh tơ-nít bên kia cầu Tràng Tiền. Vào những ngày cuối tháng 2 năm 1975, người ta cảm thấy hắn nhậu nhẹt chơi bời ở nhà mụ Dạm chủ rạp xi-nê Tân Tân. Không ai biết hắn trác táng như thế nào, nhưng nếu cuộc vui mà có Bùi Thế Lâm tư lệnh thủy quân lục chiến và Lê Quang Lưỡng tư lệnh lính dù thì thế nào cũng có Tường Loan hiệu trưởng trường Đồng Khánh và Tiểu Bích hiệu trưởng trường Thành Nội. Các bà ấy công khai khoác tay các vị tư lệnh để cho các em nữ sinh tha hồ bắt bồ với sĩ quan lính tráng, đặng làm cái trò kết nghĩa, thực chất là làm ô uế học đường, làm nhục xứ Huế.
Những ngày hoan lạc cuối cùng, Lâm Quang Thi, tên bồi bàn da vàng ở Mỹ ấy hiện nay hẳn còn nhớ. Nhớ và nuối tiếc một thời. Nhưng hắn đâu biết rằng, trong những ngày ấy nhiều người trong đám nhân dân lao động, trong giáo chức, sinh viên và học sinh đang luôn luôn theo dõi bọn hắn, đã nguyền rủa: "Được rồi! Cho chúng mày cứ hoách lác, cứ đú đởn đi! Hãy đợi đấy! Không lâu nữa đâu, các con ạ!".
⚝ ⚝ ⚝
“...Không lâu nữa đâu!...”. Hôm ấy đã là ngày 28 tháng 2 năm 1975. Ở Hà Nội, đại tướng Võ Nguyên Giáp và Trung tướng Tổng tham mưu phó Lê Trọng Tấn đã thông qua xong kế hoạch tác chiến của chiến trường Trị Thiên - Huế với anh Hồ Tú Nam thay mặt Bộ tư lệnh quân khu Trị Thiên và Hoàng Đan thay mặt Bộ tư lệnh quân đoàn 2 .
Trong lúc các anh Hồ Tú Nam và Hoàng Đan trên đường trở lại chiến trường, để kịp thời triển khai công việc anh Lê Trọng Tấn đã chỉ thị cho anh Lê Tự Đồng tư lệnh kiêm chính ủy quân khu Trị Thiên và các anh Nguyễn Hữu An, Lê Văn Linh, tư lệnh và chính ủy quân đoàn 2. Nội dung chỉ thị tập trung vào hai điểm:
1. Đúng ngày N. đã xác định, phải có hoạt động nhỏ và vừa bằng đặc công, đánh giao thông, kho tàng, diệt các ban chỉ huy tiểu đoàn địch ở điểm cao 235(tây Hải Lăng) ở Cánh Giơi. Tích cực nghi binh để phối hợp chiến trường. Riêng các trận đánh then chốt của B5 và trận đánh tập trung của trung đoàn 6 thuộc B4 có thể chậm so với ngày N. là 3 ngày(N + 3).
2. Về hướng tác chiến của B5 như vậy là được. Riêng B4 cần tập trung trung đoàn 6 giải quyết cho được Chúc Mao. Sau đó tập trung lực lượng khoảng 2 trung đoàn trên hướng Chúc Mao, Sơn Na tiêu diệt tiêu hao một bộ phận sinh lực địch, kiểm tra khu vực đó, hiệp đồng với hướng của chủ lực B5, hình thành hai hướng uy hiếp địch ở vùng giáp ranh, tạo điều kiện hỗ trợ hiệu lực cho đồng bằng. Cụ thể sẽ có chỉ thị tiếp.
Thế là tình hình chuẩn bị cho chiến dịch đang bước vào thời kỳ gấp rút hoàn thành. Ngày N được quy định là ngày 5 tháng 3 năm 1975. Vào ngày đó, theo lệnh của Bộ đã phải có hoạt động nhỏ và vừa và đến N + 3 tức ngày 8 tháng 3 năm 1975 sẽ nổ ra những trận đánh then chốt. Chiến trường Trị Thiên là chiến trường phối hợp với Tây Nguyên, theo ý đồ của Bộ là phải nổ súng sớm hơn, ngoài những yêu cầu của chiến dịch, nhìn chung về sự chỉ đạo chiến lược mà nói, cần phải cầm chân địch lại, không cho chúng rảnh tay tập trung đối phó với ta ở chiến trường chính. Toàn bộ kế hoạch chiến. dịch ở Trị Thiên - Huế đã được Đảng ủy mặt trận nhất trí thông qua ngày 21 tháng 2 năm 1975 tại sở chỉ huy quân khu Trị Thiên.
Bấy giờ chỉ còn một tuần lễ nữa để vào giờ nổ súng. Thời gian là vàng ngọc. Tất cả bộ máy quân dân chính của ta đang chuyển động khẩn trương. Ở Bộ tư lệnh quân khu, vào thời kỳ đó chúng tôi đang hết sức vất vả vì có sự thay đổi trong tổ chức chỉ huy. Ban đầu Bộ tư lệnh quân khu tổ chức thành hai bộ phận: một bộ phận chỉ huy tiền phương ở hướng trọng điểm, có nhiệm vụ chỉ huy toàn bộ mặt trận nam Thừa Thiên, bao gồm cả đường 12 và thành phố Huế và trực tiếp hiệp đồng với quân dân, bộ phận phía sau, ở sở chỉ huy cơ bản, trực tiếp chỉ đạo chỉ huy cánh bắc Huế và Quảng Trị, đồng thời lo việc hậu phương.
Ngoài ra theo quyết định của khu ủy, một bộ chỉ huy hỗn hợp có tính chất tạm thời được tổ chức để trực tiếp phụ trách khu vực chỉ đạo thí điểm của khu ủy ở Phong Quảng. Khi các bộ phận chỉ huy cùng các cơ quan giúp việc đã triển khai, thì Bộ chỉ thị thay đổi lại. chỉ huy chung của quân khu(bao gồm các cơ quan) cần tập trung ở hướng nam, không được phân tán.
Thế là sở chỉ huy cơ bản chúng tôi đang ở Cốc Ba Bó trên trục đường 70, 71 lại vội vàng đi chuyển vào phía nam, nơi đặt sở chỉ huy tiền phương ở hữu ngạn sông Hữu Trạch. Di chuyển một sở chỉ huy, tất nhiên không phải việc giản đơn, từ việc hành quân, hầm hố, chỗ ở và làm việc, đến tổ chức mạng lưới thông tin, mạng lưới chỉ huy, v.v. tất cả đều phải tiến hành đồng thời với công tác chỉ huy theo dõi các đơn vị hàng ngày, hàng giờ. Hơn nữa, các cục các phòng phải điều chỉnh lại cán bộ, trợ lý: ai ở lại sở chỉ huy cơ bản, ai đi theo dõi đôn đốc đơn vị, ai ra sở chỉ huy hỗn hợp lâm thời ở cánh bắc, ai ở phía sau. Cái bận rộn vất vả này có vẻ như một sự lãng phí. Phải chăng, qua vấn đề này, cũng cần rút ra những bài học về việc thấu triệt ý đồ của cấp trên trong xác định hướng trọng điểm chiến dịch và kiên quyết tập trung chỉ huy chỉ đạo vào nơi có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của toàn chiến dịch.
Tuy nhiên, những vấp váp trên cũng được khắc phục nhanh chóng. Mặc dù thời tiết không thuận lợi, vận chuyển khó khăn, nhưng nhờ sự cố gắng chung của cơ quan, đến ngày N. tức là ngày 5 tháng 3 năm 1975, việc tổ chức cơ quan chỉ huy đã tương đối hoàn chỉnh. Đảm bảo cho Bộ tư lệnh quân khu chỉ huy cuộc tiến công từ đầu.
Vào ngày đó, nhìn lên bản đồ bố trí lực lượng của ta, anh em cán bộ trong phòng tác chiến chúng tôi, ai cũng cảm thấy vừa phấn khởi, vừa hồi hộp. Y như những quân cờ đã bày sẵn trên bàn cờ thế.
Về phía quân đoàn 2, thì quân đoàn bộ đã cắm ở động Truồi, sư đoàn 324 đang triển khai quân ở khu vực đường 14. Sư đoàn 325 tuy còn trung đoàn 18 đang trên đường hành quân vào, song coi như cán bộ chủ chốt, trinh sát đã bám sát những mục tiêu quanh hòn Kim Sắc: những điểm cao 310, 312, 520, 560, 499, v.v. Đường kéo pháo đang gấp rút hoàn thành và những khẩu pháo của trung đoàn 84 đang được dần dần kéo lên điểm cao 769 ở hòn Lưỡi Cái. Lữ đoàn 203 xe tăng, tuy buổi đầu Bộ chưa cho lệnh sử dụng nhưng vẫn cài thế sẵn sàng cơ động. Các đơn vị trực thuộc khác thì thôi khỏi phải nói, bộ binh ở đâu là họ có đấy.
Về phía Quân khu, thì các lực lượng đều đã đứng chân vào nơi quy định. Sở chỉ huy tỉnh đội Quảng Trị ở phía nam động Chiêng Dòng, cách điểm cao 367 - một điểm cao cách đang chốt giữ - có 3 ki-lô-mét. Quanh tỉnh đội đã có tiểu đoàn 10 đặc công, tiểu đoàn 8 bộ binh, còn tiểu đoàn 812 bộ binh thì đã ở động Tiên. Tiểu đoàn 14 bộ binh ở tuyến tiếp xúc Với địch phía Tích Tường, Như Lệ. Tiểu đoàn 3 bộ binh, ở thôn Lệ Xuyên cũng trên tuyến tiếp xúc phía đông. Phía sau tiểu đoàn 3 là đại đội 7 xe tăng thuộc lữ 203.
Sở chỉ huy trung đoàn 4 ở núi Công Tắt, các tiểu đoàn ở chân điểm cao 254, ấp Sơn Quả, ấp Công Thành sẵn sàng tiến công cứ điểm Phổ Lại. Tiểu đoàn 10 bộ đội địa phương Thừa Thiên phối thuộc cho trung đoàn 4 ở tây-bắc động Mái Nhà.
Tiểu đoàn 32 ở động A Vó, gần Tà Lương.
Toàn trung đoàn 271 đã ở chân đồi 401 ở phía nam núi Kệ 4 ki-lô-mét.
Trung đoàn 6 ở phía Bắc điểm cao 481.
Tiểu đoàn 4 ở bắc Truồi 3 ki-lô-mét đang hành quân về khu B.57.
Tiểu đoàn 5 ở cây số 7 đường Bạch Mã.
Tiểu đoàn 21 ở phía nam Hói Mít.
Tiểu đoàn 2 đặc công tỉnh Thừa Thiên ở đông- nam động Mang Chang, nhưng thực tế đã phân tán để đánh những mục tiêu quy định. Sở chỉ huy tỉnh đội Thừa Thiên đã dời về Đá Đen phía nam động Mang Chang.
Các đội công tác vũ trang đã ở địa điểm tập kết của từng huyện, trong khi đó một số cán bộ kể cả quân sự và chính trị đã luồn về dưới đồng bằng bắt liên lạc với cơ sở, chuẩn bị mọi điều kiện cho lực lượng đột nhập đồng bằng.
Tóm lại, tất cả các lực lượng đều đã sẵn sàng, có đơn vị đã hoàn tất công tác chuẩn bị cũng có đơn vị đang gấp rút hoàn thành nốt những công việc cuối cùng, sở dĩ còn dở dang vì chủ yếu là do ảnh hưởng của những trận mưa kéo dài - nhất là ở phía nam. Tất cả đều đang hồi hộp đợi giờ G. điểm, giờ nổ súng của chiến dịch.
⚝ ⚝ ⚝
Thực ra, không phải đợi đến giờ G. tiếng súng chiến dịch mùa xuân ở Trị Thiên đã bắt đầu từ đêm 2 tháng 3 năm 1975. Đấy là một chớp lửa xé tan màn đêm soi rõ đường viền của những đám mây nặng nề, kèm theo là tiếng nổ chuyển đất dường như cứ âm vang mãi trên sông nước, trong xóm thôn và dội về tận thành phố Huế: cầu An Lỗ đã bị đại đội 25 đặc công nước của tỉnh Thừa Thiên phá sập.
Chiến công này không lớn, phá sập cầu thì chỉ trong ngày hôm sau kẻ địch sẽ huy động công binh sửa chữa lại, nhưng cùng với những trận đánh xe trên đèo Hải Vân của tiểu đoàn 21, những hoạt động uy hiếp địch ở tuyến tiếp xúc gây cho địch một điều gì đó không được yên ổn. Đối phương bắt đầu rồi chăng, bắt đầu như thế nào hay chỉ có thế, thực sự bắt đầu hay chỉ là diễn biến bình thường. Trong chiến tranh những diễn biến như vậy, kể ra hãy còn là bình thường. Chiến dịch thực sự bắt đầu từ không giờ ngày 5 tháng 3 năm 1975(ngày N.). Không phải bằng trận tiến công có nổ súng, mà bằng cuộc diễn tập thực binh ở bắc Quảng Trị, hướng nghi binh của ta. Trước đó hàng tuần lễ, Quân khu đã cử đồng chỉ trưởng phòng quân huấn đi lo liệu việc này.
Vào giờ quy định, ở một số trọng điểm ở bắc Quảng Trị như Cửa Việt, Đông Hà, Mai Lộc, Cam Lộ đều được lệnh báo động. Dân quân du kích tập trung cơ động ngay đến vị trí chiến đấu. Nhân dân sửa sang lại công sự, thu xếp gọn gàng nhà cửa, đồ đạc sẵn sàng sơ tán đề phòng địch oanh tạc phản pháo.
Trung đoàn 9 thuộc sư đoàn 304 cùng với tiểu đoàn 3 bộ đội địa phương Quảng Trị, dân quân du kích Triệu Phong có đại đội 7 xe tăng thuộc lữ 203 tham gia, đã diễn tập tiến công quanh khu vực Cửa Việt - Thanh Hội. Quân khu trực tiếp chỉ huy cuộc diễn tập này qua điện đài. Tình huống của trận tiến công này là vào ngày hôm sau sẽ đánh chiếm chợ Sãi, Nại Cửu phía bên kia, đằng sau tuyến tiếp xúc của địch. Có điều là ta chưa thực sự tiến công, chỉ rập rình triển khai đội hình ở phía bên này. Trong lúc đó, bọn địch không lộ vẻ khiêu khích như trước kia, im lặng đào công sự - đào công sự hối hả và tích cực. Đêm, chúng bắn pháo sáng liên tục và tất nhiên là phải tăng cường cảnh giới.
Cuộc diễn tập được tiến hành tiếp tục vào ngày hôm sau, hôm sau nữa ở hướng thứ yếu: hướng Ái Tử, Tích Tường, Như Lệ. Ở hướng này do tỉnh đội Quảng Trị trực tiếp bố trí, lực lượng tham gia gồm có tiểu đoàn 14, tiểu đoàn 812 và đại đội Lê Hồng Phong bộ đội địa phương tỉnh, cùng lực lượng dân quân du kích trên tuyến phòng thủ và dân quân du kích ba xã phía tây đường 1 của huyện Triệu Phong. Trong lúc đó, Bộ cho trung đoàn 46 vào thay thế vị trí trung đoàn 9. Trước đó ít hôm trung đoàn này đã bí mật hành quân trở về đội hình của sư đoàn 304 làm đội dự bị của quân đoàn. Và trung đoàn 3 thuộc sư đoàn 324 đang ở Thượng Đức cũng trở về đội hình của sư đoàn bấy giờ đang sắp mở trận tiến công quyết liệt vào khu vực Mỏ Tàu - 303, hướng trọng điểm quân sự của chiến dịch.
Cuộc diễn tập đã gây cho địch một trạng thái tâm lý căng thẳng. Nếu không hoàn toàn bị mắc lừa thì kẻ địch cũng bối rối. Cùng với tin sư đoàn 308 vào Quảng Trị chưa được xác minh cụ thể, bọn Ngô Quang Trưởng ở Đà Nẵng, Lâm Quang Thi ở Huế, chưa thể nào dám rút bớt lực lượng thủy quân lục chiến vào tăng cường cho hướng nam. Có thể nói, với lực lượng bộ đội địa phương và dân quân du kích Quảng Trị, ta đã cầm chân được bọn địch lại. Điều quan trọng hơn, là trong khi bộ đội rập rình phía trước mặt, thì các đội vũ trang công tác và một số phân đội bộ đội khác đã bí mật luồn vào sau lưng địch, chuẩn bị chờ giờ G. nổ súng tiến công.
⚝ ⚝ ⚝
Xin nói xen ngang vào câu chuyện một điều này: làm anh trợ lý tác chiến, hay nói rộng ra là bất kỳ anh trợ lý ở phòng nào thuộc tham mưu, chính trị, hậu cần của cơ quan quân khu như chúng tôi, mỗi lần vào chiến dịch - ai nấy đều ước ao được xuống đơn vị làm phái viên. Hoặc phái viên đốc chiến, phái viên chính trị hoặc phái viên chỉ truyền đạt mệnh lệnh, chỉ thị hay có tính chất nghiên cứu, theo dõi, v.v. tóm lại là nhận nhiệm vụ gì mà được xuống chiến đấu với đơn vị là thích thú. Cũng không phải để thay đổi không khí, để có cơ hội phát triển khả năng hay lập công cụ thể, nhưng dường như ai cũng cảm giác là có đi như vậy mới thực sự là đi chiến dịch. Cố nhiên, đấy là cảm giác thiên lệch - tuy nguyện vọng của từng người tiêu chính đáng, nhưng cảm giác như vậy thì quả là thiên lệch.
Vào chiến dịch xuân 1975, thoạt đầu, tôi cũng có cảm giác thiên lệch như vậy. Chả là vì tôi không được phân công đi theo dõi đơn vị như một số anh em khác, mà được đồng chí trưởng phòng giao ở nhà “gác gôn”. Đấy là một cách nói cho vui chứ "gác gôn" nào có phải mình tôi, hơn nửa, đâu phải chuyện giữ nhà là nhàn nhã, thoải mái. Cùng đồng chí trưởng phòng, nhóm trợ lý chúng tôi có trách nhiệm thay nhau trực suốt ngày đêm để phục vụ công tác chỉ huy của Bộ tư lệnh.
Vào những ngày từ 5 đến 8 tháng 3 năm 1975, chúng tôi phải làm việc khá căng thẳng. Tất nhiên là qua hệ thống điện đài(các loại vô tuyến điện, hữu tuyến điện), phải làm sao nắm được tình hình chuẩn bị vào giờ G. của tất cả các đơn vị từ Cửa Việt đến Lăng Cô - theo dõi cả phía bên quân đoàn 2, lẫn các đội vũ trang công tác. Phải nắm tình hình từng ngày, từng giờ - và nếu có thể được - cả đến từng phút nữa.
Tôi đã ở đơn vị chiến đấu, từng làm cán bộ đại đội, tiểu đoàn nên càng hiểu rằng, trước lúc nổ súng là những giờ phút hồi hộp căng thẳng vô cùng. Trạng thái tâm lý ấy diễn ra đối với chiến sĩ, nếu trong trận phục kích là lúc chờ giặc tới hoặc giặc đã tới từ xa; nếu trong trận công đồn là lúc tiềm nhập nhất là lúc đã mò vào hàng rào kẽm gai, đã thấy lính gác địch đi đi lại lại trước mặt. Hiểu thế, nên những lúc ngồi trực bên máy điện thoại, tôi chợt hình dung ra bạn bè quen biết, hình dung ra các chiến sĩ, cán bộ ta đang trong giờ phút hồi hộp, lo âu vừa mừng vừa sợ, giờ phút đòi hỏi đầu óc phải tỉnh táo và hành động phải kiên quyết khôn ngoan.
Sau này, khi đã hồ hởi tay bắt mặt mừng gặp lại nhau ở Huế giải phóng, chúng ta mới thấy hết giá trị của những bước chân khởi đầu trước giờ nổ súng hôm ấy. Bây giờ không làm sao diễn tả hết những bước chân khởi đầu của tất cả các đơn vị. Nếu tiểu đoàn 21 phải vượt qua những tảng đá cheo leo trong đêm tối, để áp sát đường số 1 đoạn Mu Rùa trên đèo Hải Vân thì các chiến sĩ trung đoàn 4 đã phải bí mật giấu quân cả ngày dưới chân đồi cách vài trăm mét ngay trước cứ điểm Phổ Lại để đến gần chiều nổ súng. Nếu các chiến sĩ sư 324 phải tiếp cận các cứ điểm 303 - 224, 75, 76 - những cứ điểm đã được bố phòng vô cùng cẩn mật thì các đội vũ trang công tác Quảng Trị, Thừa Thiên phải giấu quân cả ngày giữa đồi trọc phía sau lưng tuyến tiếp xúc của địch, dưới sự quan sát thường xuyên từ trên không, dưới bộ của chúng. Nếu các chiến sĩ pháo binh quân đoàn 2 phải kéo pháo lên đặt trên đỉnh núi Truồi để bắn tà âm, thì các cán bộ và du kích của Phong Quảng phải nằm trong những bờ bụi ở thôn Vĩnh Nẩy hoặc giữa Tràm Dâu ở thôn Nhất Phong để chờ đón các đội công tác và lực lượng vũ trang về. Mỗi đơn vị đều có những nét đặc sắc độc đáo riêng.
Ở cơ quan tác chiến, chúng tôi có trách nhiệm theo dõi và ghi chép lại đầy đủ những diễn biến hoạt động của các đơn vị. Hồi mấy giờ, mấy phút, đơn vị nào đã làm việc gì, kết quả thắng lợi hoặc khó khăn thế nào, xin ý kiến Bộ tư lệnh và đã được giải quyết ra sao? Tóm lại, chúng tôi ghi chép diễn biến chiến dịch bằng những con số, bằng những lời lẽ vắn tắt, cô đọng và cụ thể. Chúng tôi đánh dấu trên bản đồ bằng những ký hiệu quân sự, sao chép các thứ điện từ trên Bộ xuống, Quân đoàn sang, các đơn vị lên và các loại điện từ Bộ tư lệnh quân khu gửi đi. Đấy là công việc nghiêm chỉnh, tuy có phần hơi khô khan.
Tuy nhiên, đối với tôi, công việc ấy cũng khá sinh động và hứng thú. Những con số, những lời ghi chép vắn tắt không chết lặng, không bị ép chặt vào những trang giấy mà dường như có sức sống riêng, đến nỗi có lúc tôi tưởng chúng không còn là chữ nghĩa nữa mà là những sinh vật có hành động, có tư duy. Không hẳn bởi vì tôi là người mơ mộng, có đầu óc tưởng tượng như anh em thường trêu đùa, mà vì tôi có nhiều kỷ niệm gắn chặt với mảnh đất quê hương này. Cứ nhắc đến một tên đất, đại để như thôn Trường Lưu hoặc Phò Trạch, cứ nhắc đến một tên đơn vị như trung đoàn 101 thuộc quân đoàn 2 hoặc trung đoàn 6 Phú Xuân, cứ nhắc đến một tên người như đồng chí Hiền ở Quảng Trị hoặc đồng chí Khánh ở Thừa Thiên, v.v... là tự nhiên lòng tôi cứ rộn lên nỗi niềm thương mến, và tôi như đang được cùng chiến đấu, cùng đi đứng, suy nghĩ với bạn bè, với đồng chí, đồng đội, với bà con chú bác.
Bởi vậy trong những ngày 7 và 8 tháng 3 khi các đơn vị bắt đầu hành quân đến mục tiêu chiến đấu, tôi đặc biệt chú ý theo dõi tiểu đoàn 4 bộ đội địa phương Thừa Thiên. Đấy là đơn vị cũ của tôi đã đành, lại có đồng chí Sinh trưởng ban tác chiến tỉnh đội - một người bạn quen của tôi cùng đi. Hơn nữa, hành trình của tiểu đoàn 4 là hành trình hết sức phức tạp khó khăn: đến nỗi anh em chúng tôi bảo nhau, nếu tiểu đoàn 4 hành quân trót lọt, tiếp cận mục tiêu được là nổ súng đúng giờ, thì không đơn vị nào còn lý do để bào chữa, nếu không hoàn thành nhiệm vụ tiếp cận địch.
Tôi nhớ đêm 8 tháng 3 năm 1975, tôi cứ gò lưng xuống, gào vào máy điện thoại hỏi trực ban tác chiến của tỉnh đội Thừa Thiên về tình hình cánh nam. Thoạt đầu chỉ nghe tiếng lục bục trong máy, lát sau mới có tiếng trả lời: “Không bắt được liên lạc với các mũi cánh nam”.
– Nhớ mở máy theo dõi sát vào nhé. - Tôi dặn vậy, kể ra cũng thừa. Chắc ban chỉ huy tỉnh đội cũng hết sức lo lắng, đang tìm cách liên lạc với các mũi. Khoảng hơn một tiếng đồng hồ sau, tôi vẫn nghe trả lời rằng chưa bắt liên lạc được và thêm tiếng đồng chí trực ban thở dài trong máy, lòng tôi càng se lại, cứ nghĩ đến những tình huống bất trắc.
Tôi biết là tiểu đoàn 4 bắt đầu hành quân từ khe B.57 nơi đóng quân của huyện đội Hương Thủy cũ, vào buổi sáng ngày 7 tháng 3 năm 1975. Cùng đi với tiểu đoàn 4 có 5 đội vũ trang công tác của các xã Phú Đa, Phú Cường, Phú Phong, Phú Gia, Phú Hồ.
Tất cả lực lượng này không phải là nhỏ, đều đi theo hướng núi Dích Dương. Cùng địa điểm xuất phát ở khe B.57 còn có mũi thứ hai gồm có một đại đội thuộc tiểu đoàn 2 đặc công cùng các đội vũ trang công tác của huyện Hương Thủy và thành đội Huế. Mũi này đi theo hướng Cồn Trao.
19 giờ đêm hôm qua(7-3) bộ phận đi đầu đến bờ sông Hương ở tọa độ 05-81. Khi họ bắt đầu vượt sông bằng thuyền cao su công binh, thì những đại đội phía sau chưa tới. Nhưng đến 24 giờ đêm, tất cả đã vượt sông an toàn. Và cả đội hình nối đuôi nhau, miệng ngậm tăm vượt qua tuyến tiếp xúc địch theo hành lang đã chuẩn bị sẵn. Vào hồi 4 giờ 30 sáng ngày 8 tháng 3 năm 1975, toàn đội hình đã thu gọn vào địa điểm giấu quân ở chân núi Dích Dương. Đây là ngọn núi gần như trọc, chỉ lưa thưa những cây sim, cây mua, nhưng phía dưới chân chỗ tiếp giáp với ngọn núi khác thì cây cối rậm hơn, có cây cao hơn đầu người. Chiến sĩ ta chui vào các bụi cây, ăn cơm nắm, lương khô, uống nước bình toong và đánh một giấc. Ngày hôm đó địch có đi lùng sục nhưng chỉ cách chỗ giấu quân 300 mét. Lo ngại địch đã đành, còn lo ngại gặp dân đi hái củi. May sao không gặp ai, chứ nếu gặp thì bắt buộc anh em ta phải giữ họ lại để bảo đảm an- toàn cho đơn vị. Ém hàng ba bốn trăm quân giữa đồi suốt cả ngày là một việc làm táo bạo, những có tính toán, có dự kiến đầy đủ mọi tình huống xảy ra. Buổi chiều, có mưa, anh em có ướt tí chút nhưng không sao, mưa càng đảm bảo an toàn. Rồi mọi sự đã qua đi trót lọt.
Theo báo cáo cuối cùng thì 18 giờ 30 ngày 8 tháng 3 năm 1975 đơn vị lại tiếp tục hành quân về đồng bằng. Đến đây, đơn vị chia làm hai mũi. Tiểu đoàn phó cùng một đại đội đi vào hướng Phú Bài, qua quốc lộ đoạn Hải Thủy. Đại bộ phận còn lại đi theo hướng bắc Nong, vượt quốc lộ đoạn xóm Ga thuộc xã Hưng Lộc.
Từ 18 giờ 30 trở đi, chúng tôi không được tin gì nữa. Dẫu biết rằng, trên đường hành quân, đơn vị phải hết sức giữ bí mật, khó lòng mở máy ra liên lạc với sở chỉ huy. Con đường hành quân phải len giữa các thôn xóm, mà chỉ riêng dân vệ và phòng vệ dân sự cũng đã dày đặc. Rồi phải vượt qua đường sắt, quốc lộ số 1, qua một cánh đồng, tiếp đến lại vượt con sông thứ nhất, rồi vượt con sông thứ hai. Giữa hai con sông là cánh đồng ruộng ô, nước lội đến ngang bụng. Hồi trước chúng tôi đi qua đấy, giữa mùa hè mà bơi sông, lội nước lắm cũng rét thun vòi lại. Với con đường hành quân như vậy mà chỉ đi dăm ba người giữ bí mật cho được đã khó khăn, huống chi hàng ba bốn trăm con người với trang bị súng ống đạn dược và phương tiện lỉnh kỉnh.
Chúng tôi cứ lo lắng, sợ có chuyện gì bất trắc xảy ra... May sao, quãng 5 giờ sáng ngày 9 tháng 3 năm 1975 tôi nghe từ đầu máy bên kia tiếng nói vui vẻ của đồng chí trực ban tác chiến tỉnh đội:
– Tiểu đoàn 4 đã đến Diêm Trụ an toàn, đang triển khai đội hình chiến đấu.
"Chao ôi, thế ư! Thế thì tốt quá!" - Tôi reo lên trong máy như vậy. Vậy là thành công bước đầu rồi. Sắp đến giờ nổ súng. Dẫu chiến đấu kết quả đến mức độ nào đi nữa, thì ít nhất, sự xuất hiện hàng vài trăm Quân giải phóng cùng hàng loạt cán bộ và du kích giữa các thôn xóm vùng sâu Phú Thứ, Phú Vang cũng là điều có ý nghĩa thực sự.
Nỗi lo âu được xua tan, lòng tôi ấm áp hẳn lại. Chợt nghĩ đến anh Sinh, người bạn thân, chắc giờ này đang cùng ban chỉ huy tiểu đoàn, chỉ huy các đại đội tiến công tiêu diệt bọn tề nguy và dân vệ ở các thôn Dưỡng Mông, Viễn Trình, Lương Viện, Trường Lưu, Đức Thái, v.v... ước gì có rượu, tôi sẽ rót hai chén, một cho anh, một cho tôi và uống mừng anh. Song bây giờ đào đâu ra rượu. Tôi bèn bóc bao thuốc lá Ru-bi cất trong ba lô ra mời bạn bè rồi dành ra hai điếu. Tôi châm lửa hút một, còn điếu kia tôi gói vào giấy, cất kỹ vào túi áo trên, tự hẹn mình dù mai kia thiếu thuốc lá có thèm chết đi được cũng nhất quyết không đụng đến, để dành chút kỷ niệm mừng cuộc hành quân thắng lợi cho bạn.
*
Vào những ngày trước giờ nổ súng chiến dịch, các đồng chí ở phòng 2 bằng mọi phương tiện, mọi thủ pháp của mình, đã theo dõi sát sao tình hình địch.
Ngày 7 tháng 3 năm 1975 chúng tôi được tin, có một cuộc họp của Bộ tư lệnh quân đoàn 1 ngụy với các tướng lĩnh thuộc quyền để bàn việc bố trí lại lực lượng. Chúng sẽ đưa liên đoàn biệt động 14 ở Quảng Ngãi ra Quảng Trị rút lữ thủy quân lục chiến 369 vào Quảng Nam, để cuối cùng rút hết sư đoàn dù vào phòng thủ Sài Gòn.
Tất nhiên tin này được Bộ Tổng tư lệnh, Bộ tư lệnh chiến dịch hết sức quan tâm. Chúng tôi là trợ lý không được nghe những bình luận chính thức của cấp trên, song khi mạn đàm "ngoài rìa" thì đồng chí phụ trách phòng 2 có nhận xét: Qua việc làm này, chứng tỏ kẻ địch đang lúng túng vì thiếu lực lượng tổng dự bị chiến lược. Chúng có hai sư đoàn(dù và thủy quân lục chiến) mà cảm thấy thiếu, phải co chỗ này kéo chỗ kia. Việc bố trí lại lực lượng là nằm trong kế hoạch Lý Thường Kiệt của chúng, nghĩa là coi Sài Gòn và vùng châu thổ sông Cửu Long là khu vực ưu tiên số 1, kế đến nơi quan yếu mới là đồng bằng miền Trung Trung Bộ. Bởi thế, không thể nào để cả hai sư đoàn tổng dự bị chiến lược ở quân khu 1. Việc chúng bố trí lại lực lượng như thế vừa tỏ ra chúng yếu thế, vừa tỏ ra chúng đã mắc mưu ta...
Mắc mưu ta, đấy là vấn đề hấp dẫn, nhưng chúng tôi không tò mò hỏi sâu thêm. Bầy mưu tính kế là từ tận ngoài Trung ương, ngoài Bộ Tổng tư lệnh.
Chúng tôi chỉ hiểu đại thể rằng trong chiến tranh, mưu chiến lược lớn nhất là làm sao cho kẻ địch hiểu ta không đúng và phán đoán ta sai.
Sau này, chúng tôi thấy nhận xét “ngoài rìa” của đồng chí phụ trách phòng 2 là đứng đắn. Xin trích ra đây một đoạn trong lời khai của Nguyễn Thành Trí, đại tá phó tư lệnh thủy quân lục chiến, sau khi y đã ra trình diện cách mạng.
“..Vì nhu cầu tình hình, ngày 6-3-1975 Bộ tổng tham mưu chỉ thị quân đoàn 1 tái phối trí quân để có thể sử dụng sư đoàn thủy quân lục chiến thay sư đoàn dù được di chuyển về Sài Gòn. Lệnh này có tính chất khẩn. Một cuộc họp được triệu tập ngay tại Bộ tư lệnh quân dân(Đà Nẵng). Thành phần tham dự gồm tư lệnh các sư đoàn 1, 2, 3(bộ binh), sư đoàn dù, sư đoàn thủy quân lục chiến, trung tướng tư lệnh tiền phương quân đoàn 1, dưới quyền chủ tọa của trung tướng tư lệnh quân đoàn 1. Được biết các tướng lãnh đều không đồng ý việc đưa sư đoàn dù về Sài Gòn. Việc rút sư đoàn dù khỏi Đà Nẵng và sư đoàn thủy quân lục chiến khỏi Quảng Trị sẽ gây ảnh hưởng tâm lý bất lợi trong dân chúng. Về mặt chiến thuật, việc phòng thủ trở nên lỏng lẻo không hữu hiệu, đặc biệt đối với khu vực Quảng Trị khó có thể giữ vững được. Tuy nhiên trung tướng tư lệnh quân đoàn 1 nói đây là quyết định của tổng thống Thiệu; bằng mọi cách phải trả sư đoàn dù về Sài Gòn.
Kế hoạch thay quân được dự trù như sau:
2 lữ thủy quân lục chiến sẽ thay 2 lữ dù từ Đại Lộc đến đèo Hải Vân; sau đó một lữ thủy quân lục chiến sẽ thay cho 1 lữ dù phía bắc đèo Hải Vân(tức là đèo Phú Gia). Lữ này tăng phái cho sư đoàn 1 bộ binh.
Diễn biến thay quân:
Ngày 7 tháng 3 năm 1975: sư đoàn thủy quân lục chiến tiếp nhận liên đoàn 14 biệt động quân để thay thế cho tiểu đoàn 3 thủy quân lục chiến như sau:
2 tiểu đoàn biệt động quân thay 1 tiểu đoàn thủy quân lục chiến tại khu vực lữ 1 kỵ binh thiết giáp.
1 tiểu đoàn biệt động quân và ban chỉ huy liên đoàn 14/BĐQ thay một tiểu đoàn thủy quân lục chiến và ban chỉ huy lữ 369.
Liên đoàn 14 biệt động quân chịu trách nhiệm chỉ huy các lực lượng trong khu vực của lữ 369.
Ngoài ra, 1 tiểu đoàn địa phương quân thuộc tiểu khu Quảng Trị cũng được tăng phái cho lữ 1 kỵ binh thiết giáp, thay thế cho tiểu đoàn thủy quân lục chiến còn lại.
Ngày 8 tháng 3 năm 1975. Lúc 11 giờ ban chỉ huy lữ 369 cùng với 3 tiểu đoàn thủy quân lục chiến và đại đội quân y, đại đội trinh sát công binh, ba tiểu đoàn pháo binh thủy quân lục chiến di chuyển vào Đà Nẵng...”.
Đoạn trích lời khai của Nguyễn Thành Trí càng xác nhận sự lúng túng và những sự bất đồng trong nội bộ chúng. Thực ra, dù bọn Ngô Quang Trưởng, Lâm Quang Thi và cả lô tướng lĩnh ở quân khu 1 có tỏ ra khôn ngoan hơn Thiệu, không bố trí lại lực lượng, vẫn để nguyên như cũ thì rốt cuộc cũng chẳng xoay chuyển được tình thế. Bởi vì tình thể xấu nhất của chúng là sự thất vọng hoàn toàn của quan thầy Hoa Kỳ, là những mâu thuẫn cố hữu từ trong bản chất của một đội quân tay sai đã đến lúc không còn phương gì giải quyết nổi...
Đối với tên tư lệnh tiền phương quân đoàn 1 Lâm Quang Thi thì cấp trên điều lính dù vào Đà Nẵng, hắn vẫn tỏ ra yên tâm hoặc là cố tạo cho mình sứ yên tĩnh trong tâm tư - nhưng nay, đến lượt thủy quân lục chiến bị điều đi nữa(dù chỉ mới điều hẳn lữ đoàn 369 vào Đà Nẵng, còn lữ 258 vào đèo Phú Gia, bắc Hải Vân) thì chắc hắn sẽ phải bối rối. Bị điều đi hơn 5.000 thủy quân lục chiến để đổi lấy 700 lính biệt động trong lúc phải phòng giữ một khu vực đầu sóng ngọn gió này, Lâm Quang Thi hẳn không thể tiền hô hậu ủng nhênh nhang đi đánh tơ- nít như tuần trước, nhất là bấy giờ, giờ G. đã điểm, tiếng súng chiến dịch của ta đã bắt đầu.
NGUYỄN SINH - VŨ KỲ LÂN