⚝ III ⚝ CUỘC CHUẨN BỊ BA MƯƠI NGÀY - CUỘC CHUẨN BỊ BA MƯƠI NĂM
Vâng, đang nói về mùa xuân năm 1975. Nhắc tới mùa xuân, ta chợt có cảm giác thanh thản nhẹ nhõm, dẫu đang ở trên rừng. Tưởng như ngửi thấy mùi thơm hoa phong lan phảng phất trong tiếng hót ngọt ngào chim khướu, trong tiếng róc rách suối chảy. Tưởng như có thể say sưa ngắm những ré nắng xuân xuyên qua đám sương màu lam...
Thực ra, mùa xuân ở Trị Thiên bao giờ cũng là một mùa xuân ẩm ướt, buồn tẻ. Nếu như ở vùng đất hanh khô, mùa xuân đến mang theo cái không khí hiu hiu mát dịu - cái không khí mơ màng của hơi sương, thì ở đây - trời vẫn mưa, một thứ mưa lai rai dai dẳng. Đất đỏ miền tây Quảng Trị dính bết vào dép cao su, còn ở miền tây Thừa Thiên, thứ đất pha lá mục, nom dễ đi, nhưng hễ giẫm chân vào là nước đen tứa ra từ các kẽ chân, vừa bẩn vừa ngứa.
Chiến sĩ Trị Thiên chúng tôi chào đón mùa xuân năm 1975 trên những nẻo rừng sũng nước như thế. Chúng tôi đã quen với rừng hàng vài chục năm nay, hàng mươi năm nay hoặc ít ra hàng dăm bảy tháng nay. Có gì mà phải bực bội với mùa xuân đẫm nước ở cánh rừng miền tây Trị Thiên? Rất giản dị và yêu đời là chiến sĩ. Chúng tôi lọc ra niềm vui qua cái buồn của thời tiết, trong những sinh hoạt bình thường: mùa này, măng đang ngọt. Còn nấm mối thì có thể bất thần nhú lên ở một đám đất ẩm ướt ngay cạnh ta. Mùa xuân, chuối rừng khoe hoa đỏ chót, hoa lim màu tím rụng vào những hốc đá đầy nước. Mưa, ừ thì có ướt át nhớp nháp thật đấy, nhưng nếu qua suối rửa ráy tinh tươm, bước lên những bậc dốc lát bằng gỗ chẻ, vào trong nhà giũ áo mưa roàn roạt rồi hơ tay lên bếp lửa thì coi như đã gửi lại cái mưa gió ngoài rừng. Ở đây, dưới mái lán lợp lá đoác, lá gồi, chiến sĩ ngồi hong tay nghe củi nổ lép bép trong tiếng gió giũ nước mưa đọng lên lá xuống suối, trong tiếng thác đổ xa xa... Để tâm hồn nhẹ nhõm và chợt nhớ về những miền quê xa xôi, về những kỷ niệm tuổi thơ, về những buồn vui cuộc đời chiến sĩ. Hoặc nếu thích cuộc sống sôi nổi ồn ào thì hãy lao vào những trận đánh bài "tiến lên" vừa hò hét vừa trêu chọc lẫn nhau. Có thể bị vẽ râu hoặc beo tai bóp mũi gì đó nếu thua cuộc, nhưng không sao, chỉ đùa vui thôi mà - đời lính bao giờ cũng hướng về niềm vui, hướng về chiến thắng.
Mùa xuân năm 1975 đến với chiến sĩ Trị Thiên có gì khác ngoài những niềm vui bình dị. Có gì khác năm 1974 và những năm trước kia? Thực ra, mối quan tâm trước tiên đối với chiến sĩ chúng tôi khi mùa xuân đến là điều có liên quan tới sứ mệnh của mình. Năm nay sẽ mở chiến dịch ở đâu? Làm ăn ra sao? Ước nguyện sâu xa của người cầm súng là tự trả lời mình trước lúc lên đường nhập ngũ.
Anh chiến sĩ sẵn sàng bên khẩu đại liên trên chốt Long Quang, o du kích nằm trong hầm bí mật giữa trằm Bầu Bông vùng Phong Hòa, anh bộ đội địa phương gác nơi hòn Rẫm bên kia cửa Tư Hiền, cũng như chúng tôi - những cán bộ đã lớn tuổi công tác ở cơ quan quân khu - đều nghĩ về mùa xuân năm 1975 như hướng về ước mơ của mình. Chúng tôi nghe thời gian đi trong tiếng tắc kè điểm giờ, trong tiếng gà gọi sáng, trong khi bóc tờ lịch hàng ngày. Còn nghe tiếng thời gian đi khi nhìn mái tóc lốm đốm bạc của đồng chí chỉ huy, khi bất chợt tính với nhau rằng, thế là Bác Hồ đã đi xa được sáu năm. Sáu năm không có thơ mừng xuân của Bác, nhưng dường như lúc nào lời di chúc của Bác cũng văng vẳng bên tai: “... Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể còn kéo dài. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của nhiều người. Dù sao, chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn...”. Giữa ngày xuân, chiến sĩ chúng tôi chợt băn khoăn, vì chưa thực hiện được trọn vẹn lời di chúc của Bác. Thưa Bác, thế là một mùa xuân nữa lại đến, mùa xuân năm 1975. Bất giác thấy Bác vẫn đi trước hàng quân, cổ vũ chúng tôi, vẫy gọi chúng tôi. Tâm tư và ước ao của chúng tôi vẫn hướng về một trận thắng lớn. Chúng tôi nghe ngóng, phán đoán, thăm dò. Trí tưởng tượng của người lính chúng tôi tha hồ bay bổng, tha hồ tính toán về mùa chiến dịch sắp tới.
⚝ ⚝ ⚝
Một buổi tối ở trung đoàn Phú Xuân - chiến sĩ cảnh vệ tên là Tứ vừa theo một cán bộ trung đoàn ra công tác ở Quân khu về, sau khi tắm táp giặt giũ xong, đã hào phóng ném ra bao thuốc lá Tam Đảo và gói chè Ba Đình cho cả tiểu đội quây quần lại, người chủ cuộc vui tung ra một tin mới:
– Sắp làm ăn to rồi các cậu ạ!
– Sao? Nói đi! Bọn tớ cũng biết cách giữ bí mật chứ? Thề! - Đám lính trẻ xích lại gần nhau hơn. Trong màn thuốc lá tỏa ra bàng bạc, trong tiếng xuýt xoa vì bát nước trà nóng, những ánh mắt mở to vui vẻ chờ đợi. Tứ bèn kể với các bạn, bằng nét mặt quan trọng, bằng giọng nới tự tin. Câu chuyện của anh ta bắt đầu từ cuộc họp của người cán bộ trung đoàn ở Quân khu. Tất nhiên anh ta không được phép biết nội dung, song cứ xem cung cách tổ chức hội nghị tuyệt mật, cung cách tất bật của các cán bộ chủ trì về họp, hết làm việc với tham mưu lại đến với chính trị, hậu cần,... chắc hẳn là cuộc họp có tính chất giao nhiệm vụ quan trọng. Anh ta còn xem mặt, bắt hình dong, thấy đồng chí thủ trưởng của mình chợt vui vẻ, chợt bần thần tỏ ra nhiều lo lắng suy nghĩ là biết anh đang có nhiều điều cân nhắc tính toán.
Câu chuyện của anh kể về nhiều hiện tượng chuẩn bị chiến dịch: xe cộ chạy rần rần đi sâu vào trong kia, rất nhiều xe chở quân, toán tụi lính trẻ da dẻ đỏ au, quần áo mới cứng. Xe chở dầu máy và phụ tùng xe tăng của các đội sửa chữa. Xe chở đạn các cỡ hòm lớn hòm bé vô thiên lủng. Gặp những anh lính lái xe hay tán dóc, chỉ cần mời điếu thuốc lá làm quen là anh ta sẵn sàng phun ra cho biết, xe đang chở hàng gì, vào tận đâu. Theo Tứ - anh chiến sĩ thạo tin cho biết thì ở Quân khu đang có nhiều cuộc tập huấn: tập huấn quân sự, chính trị và binh vận. Quan trọng hơn cả là có một cuộc tập trung hàng ngàn cán bộ địa phương và du kích để tổ chức các đội vũ trang công tác. Có đến hàng trăm đội. Những đội này sẽ về phát động quân chúng nổi dậy ở đồng bằng phối hợp với chủ lực giải phóng nông thôn.
– Các cậu có nhớ con Lưu giao liên Phong Điền nữa không? Chính hắn nói với tớ và còn hẹn mời tớ về cái thôn Thế Chí Đông của hắn bên kia phá Tam Giang ăn cá biển. Thế có bốc không? Của đáng tội con bé cũng xinh, chỉ phải cái hơi ngắn.
Trong tiếng cười vui, Tứ tiếp tục kể thêm về dấu hiệu mùa chiến dịch sắp tới. Xuỵt! Các cậu có biết không, cánh trinh sát sư đoàn 325 đi chuẩn bị chiến trường gần tháng nay rồi đấy. Chúng nó đang làm ăn ở đường 12. “Thằng” trung đoàn 101 đang bò ra huấn luyện. “Thằng” trung đoàn 18 nghe đâu đã bí mật rời tuyến tiếp xúc, giao các chốt lại cho cánh bộ đội địa phương Quảng Trị. Lạ lùng nhất là “thằng” 95 - trung đoàn chủ công của sư 325 lại đang tổ chức ăn tết. Chính mắt anh ta trông thấy 95 gói bánh chưng, mổ bò mổ lợn chia về cho các đại đội: Gặp anh lính 95 nào là biết ngay, mặt mũi phởn phơ như bắt được của. Anh nào cũng chạy nhắng lên để chuẩn bị tết. Sao lại ăn tết sớm thế? Ăn tết “Quang Trung” để làm cái gì thế? Làm cái Mậu Thân nữa chăng? Tiếng bàn cãi khe khẽ nổi lên:
– Ồ không đời nào lặp lại cái Mậu Thân thứ hai nữa. Trong quân sự kỵ nhất là cái lặp lại. Mất hết cả yếu tố bất ngờ.
– Không, cậu ơi! Chính vì nghĩ như cậu nên có khi lặp lại mới bất ngờ.
Anh chiến sĩ thạo tin xua tay:
– Tớ biết chắc chắn là trung đoàn 95 ăn tết sớm để hành quân vào Tây Nguyên. Tuyệt mật đấy! Một thằng đồng hương nói lại với tớ, và dọa nếu để lộ ra là mất cái đội mũ tai bèo.
Đám lính trẻ xầm xì thán phục người đồng đội chỉ đi một chuyến công tác mà lượm được ối tin quan trọng. Và họ bắt đầu làm "tham mưu con". Thoạt tiên, họ tính với nhau về sự phân bố lực lượng quân đoàn 2 - quả đấm nặng cân nhất của chiến trường Trị Thiên: Vậy là, “thằng” sư 304 vẫn ngồi trong Thượng Đức,(trung đoàn 9 ở lại ngoài Cam Lộ thì đã có trung đoàn 3 thuộc sư 324 thay thế) “thằng” sư 324 đang xoay trần ra huấn luyện ở vùng A Lưới. “Thằng” sư 325 cũng rút ra khỏi tuyến tiếp xúc phòng ngự, “thằng” lữ xe tăng 203 tuy ở rải rác nhiều chỗ thật, nhưng đối với hắn thì lo quái gì, cơ động nhanh như chớp. Còn mấy anh chàng lữ 164 pháo binh, lữ 209 công binh, sư 673 cao pháo thì không phải không tính đến, nhưng các anh chàng ấy sẽ có mặt ngay nơi nào bộ binh cần đến. Tóm lại là toàn quân đoàn 2 đã được rảnh tay chuẩn bị giao cho các tuyến tiếp xúc lại cho địa phương. “Thằng” trung đoàn 271 ở Mỏ Tâu, La Sơn, “thằng” trung đoàn 4 ở tây Phong Điền. “Thằng” tiểu đoàn 14 tây Hải Lăng, “thằng” tiểu đoàn 13 ở Thanh Hội, Long Quang, v.v. Còn trung đoàn 6 chúng mình?
Đám lính trẻ mới sực nhớ ra chính họ cũng vừa được rút ra khỏi tuyến tiếp xúc, đang tranh thủ củng cố huấn luyện. Phải coi như trung đoàn 6 là lực lượng cơ động của Quân khu. Nhưng sẽ được ném vào đâu?
Điều đáng chú ý là tất cả lực lượng đều đang chuẩn bị tại chỗ, sao lại điều trung đoàn 95 đi Tây Nguyên? Điều một trung đoàn cứng được huấn luyện chu đáo đi nơi khác, tất là nơi đó phải quan trọng, phải là chiến trường chủ yếu. Vậy thì Trị Thiên ta là chiến trường phối hợp nhưng mức độ quan trọng của chiến trường phối hợp phải như thế nào mới tập trung hàng trăm đội công tác để tung về nhằm giải phóng nông thôn. Khó nghĩ là đường 12 - con đường chọc thủng vào phía tây thành phố Huế. Định giải phóng Huế chăng? Hay chỉ là giương đông kích tây giáng một đòn ở Quảng Trị. Đám lính trẻ làm “tham mưu con” thường có nhiều ý kiến, và bao giờ họ cũng tự đặt mình vào vị trí tư lệnh quân khu, tư lệnh chiến dịch chẳng hạn. Có anh còn cả gan làm Bộ Chính trị, Bộ Tổng tư lệnh để tính toán mọi kế hoạch, mọi cách làm ăn trong mùa xuân năm nay.
Cuối cùng thì cái vai trò mà anh ta "dám làm" kia cũng chấm dứt, khi người trung đội trưởng nổi hiệu còi, ra lệnh tắt đèn đi ngủ.
Họ kết thúc buổi trà lá vui vẻ, thu vén ca bát, giũ chiếu mắc màn để làm một giấc ngon lành của anh chiến sĩ bình thường. Một cậu đứng giữa nhà, vươn vai, vặn xương kêu răng rắc rồi đủng đỉnh nói:
– Dù sao thì chúng mình cũng chuẩn bị đi thì vừa! Chuẩn bị cái đầu cho cứng, cặp tay chân cho khỏe vào mà húc.
– Ồ chuẩn bị là việc cấp trên, cánh lính chúng mình thì quái gì mà chuẩn bị. Cứ lệnh một cái là a-lê hấp, nhào dô luôn.
– Bậy, cấp trên có cái chuẩn bị của cấp trên, thằng lính có phần chuẩn bị của nó. Thí dụ: như cánh ta đang học quân sự đây này, phải làm sao đừng quỵ xuống vì sốt rét này, rồi phải làm đường, làm kho đạn, kho gạo này? Ồ, ối công việc...- Cuộc tranh luận nho nhỏ này cũng dễ nhất trí. Khi chiến sĩ đã manh nha được mùa chiến dịch sắp tới, hầu như ai cũng hiểu được mình phải làm gì để đảm bảo thắng lợi. Có điều là trong những dòng suy nghĩ miên man về chiến dịch sắp tới, xen lẫn với hình ảnh những người thân, hình ảnh quê hương thường hiện về lúc đã ấm trong chăn, các chiến sĩ chợt sực nhớ về một mùa xuân nữa đến.
Một cậu lớn tuổi nhất tiểu đội lên tiếng hỏi khẽ:
– Năm tới là năm Mão phải không các cậu?
– Ừ năm nay là Giáp Dần, năm tới là Ất Mão.
– Vậy là năm cẩm tinh con mèo. Nghe đâu thằng Thiệu tuổi chuột. Cái giống chuột, vốn kỵ mèo nhất. Không chừng năm tới, Thiệu sẽ kềnh cũng nên.
⚝ ⚝ ⚝
Mẩu chuyện sinh hoạt của tiểu đội cảnh vệ sở dĩ tôi biết được là do Tứ kể lại. Cũng không riêng Tứ mà anh em trong tiểu đội mỗi người góp một câu nhân hôm tôi xuống chơi với anh em, sau ngày Huế giải phóng. Biết tôi là trợ lý ở phòng tác chiến, đám lính trẻ muốn khoe cái tài làm "tham mưu con" của họ, và để tôi xác minh những điều họ nhận định là đúng. Họ chỉ thừa nhận có hai điểm phán đoán chưa chính xác. Một là, hướng trọng điểm của chiến dịch tưởng là đường 12 hóa ra đường 14. Hai là, tưởng đánh chắc tiến chắc không ngờ lại thực hiện bao vây chia cắt lớn và áp dụng lối đánh thần tốc chọc thủng vào tung thâm địch.
Tôi cười:
– Các cậu sai những điều cơ bản nhất rồi, còn gì. Vậy là chưa đủ trình độ làm tư lệnh chiến dịch.
Anh em cười xòa.
Quả thật là làm sao mà ai cũng có trình độ làm tư lệnh chiến dịch được. Ngay như chúng tôi - những cán bộ có trách nhiệm giúp cấp trên vạch kế hoạch tác chiến, vậy mà trong quá trình chuẩn bị, quá trình diễn biến chiến đấu cũng như sau khi chiến thắng hoàn toàn rồi, vẫn còn nhiều điều ngớ người ra, dần dần mới vỡ lẽ. Như vấn đề chọn hướng trọng điểm của chiến dịch chẳng hạn - một trong những vấn đề có tính chất quyết định thắng, bại của chiến dịch. Sau này, anh em cán bộ quân sự, chính trị chúng tôi lúc ngồi tán phiệu với nhau, dẫu biết vậy là khen phò mã tốt áo vẫn nắc nỏm thán phục Trung ương tài thánh thật - chọn Tây Nguyên làm chiến trường chính mà nam Tây Nguyên là hướng tiến công chủ yếu, lại chọn Buôn Mê Thuột làm điểm then chốt của chiến dịch thì tuyệt, không chê vào đâu được. Ở Trị Thiên chúng tôi cũng vậy, vấn đề chọn hướng công kích chủ yếu của chiến dịch chắc là vấn đề lao tâm khổ tứ của cấp trên. Sở dĩ phải nói chung một chữ “cấp trên”, vì chiến dịch mùa xuân 1975 tiến hành ở Trị Thiên trong thực tế là một bộ phận của chiến dịch “Huế - Đà Nẵng” trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam, dưới sự chỉ đạo chỉ huy trực tiếp của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh.
Xin nói thêm điều này: ở chiến trường Trị Thiên - Huế có hai lực lượng quân sự là B4 và B5 tức là quân khu Trị Thiên và quân đoàn 2. Xuất phát từ yêu cầu chiến dịch và đặc điểm tình hình Trị Thiên, Bộ Chính trị quyết định thành lập Đảng ủy mặt trận Trị Thiên, trực thuộc Quân ủy Trung ương. Bí thư Đảng ủy là đồng chí thiếu tướng Lê Tự Đồng. Việc chỉ huy thì Bộ tư lệnh B4 và B5 trực tiếp chỉ huy lực lượng thuộc quyền mình. Về mặt tổ chức, tuy không có một Bộ chỉ huy mặt trận chung, nhưng hai Bộ tư lệnh B4 và B5 đều có liên lạc với nhau thường xuyên qua máy điện thoại. Hai nữa, về tình nghĩa mà nói, giữa quân đoàn 2 và chúng tôi là chỗ con một nhà mà ra. Đi lại, nói năng với nhau đều thoải mái, không phải giữ kẽ.
Bây giờ, tôi trở lại vấn đề chọn hướng công kích chủ yếu của chiến dịch ở Trị Thiên. Đây là một vấn đề quan trọng và khó khăn không thuộc quyền định đoạt của phòng tác chiến chúng tôi, cũng như phòng tác chiến quân đoàn 2. Bởi vậy, sự hiểu biết thật tỉ mỉ, cụ thể của chúng tôi dĩ nhiên là có hạn chế. Chỉ biết ngay từ lúc đầu, khi vạch kế hoạch tác chiến của chiến dịch, chúng tôi đã được chỉ thị về hướng tiến công chủ yếu là đường 12. Hầu như đấy là chỉ thị từ Bộ Tổng tham mưu. Quân đoàn 2 - lực lượng được tập trung vào hướng trọng điểm quân sự, đã tung cán bộ, trinh sát ăn đêm nằm ngày hàng tháng ở đường 12, từ trên Sơn Na về dưới Binh Điền- Hòn Vượn để nghiên cứu tình hình.
Đùng một cái, có lệnh chuyển hướng trọng điểm công kích của chiến dịch sang đường 14. Đối với lực lượng quân khu chúng tôi đảm nhiệm ở những hướng khác, kế hoạch có thay đổi tí chút cũng không sao, chứ với quân đoàn 2 là cả một cuộc đảo lộn hết sức vất vả. Thay đổi hướng trọng điểm công kích là thay đổi toàn bộ kế hoạch tác chiến, thay đổi toàn bộ công tác chuẩn bị. Thời gian lại quá gấp rút. Đâu như chỉ còn được một tháng để làm lại từ đầu. Thôi thì cứ vắt chân lên cổ mà chạy. Cánh cán bộ và trinh sát đi nghiên cứu chiến trường lại cơm đùm cơm gói kéo nhau vào Lưỡi Cái, Kim Sắc, vào Mỏ Tàu - điểm cao 303, 224, 75, 76, v.v. Tuy vùng Mỏ Tàu đối với sư đoàn 324 là nơi quen thuộc, vì mùa hè năm ngoái 324 đã giáng cho bọn sư 1 ngụy một đòn trừng phạt đích đáng, lấy lại được vùng đất này. Nhưng vào mùa mưa khi 324 rút ra huấn luyện giao lại cho trung đoàn 271 và trung đoàn 6, thì kẻ địch đã tập trung lực lượng lấn chiếm lại. Tất nhiên kẻ địch không thể nào để nguyên thế bố phòng như cũ. Chúng phải dùng những thủ đoạn mới. Việc chuẩn bị chiến trường của cán bộ và trinh sát cũng không phải giản đơn, cứ theo sách cũ mà làm được. Riêng sư đoàn 325 có nhiệm vụ tác chiến ở hòn Kim Sắc, hòn Lưỡi Cái, điểm cao 494, v.v. thì khá gay go, vất vả. Chiến trường hoàn toàn mới. Phải soi đường mà đi, phải mò vào tận hàng rào, vào tận công sự địch mà xem xét.
Trời lại mưa, mưa chi mưa thối đất. Cánh trinh sát thật không có chỗ đặt ấm lưng, ăn miếng lương khô cũng phải nhón hai ngón tay thật khéo không thì vướng bùn. Chỉ có nước uống là dồi dào. Nước khe nước suối tha hồ, nhưng vẫn chê đục. Cứ lấy lá cây chúm lại làm gầu múc nước mưa đọng trong các hốc đá vào bình toong, uống ngọt lịm.
Hãy tưởng tượng xem cánh công binh và cả bộ binh của sư đoàn 325 nữa phải gấp rút mở đường từ Vũng Tròn vào đến sông ruồi, con đường dài 13 ki-lô-mét 500 với khối lượng đất là 33.500 mét khối trong một thời gian ngắn nhất thì vất vả biết chừng nào. Làm ngày, làm đêm. Đường vừa lầy vừa dốc. Lũ máy bay trinh sát của địch không ngớt nhòm ngó, tìm kiếm. Đường làm đến đâu xe pháo nhích đến đó. Tính từng giờ từng phút làm sao cho kịp kéo pháo vào trận địa đúng giờ quy định nổ súng. Những ngày kéo pháo lên tận trên hòn Lưỡi Cái cao tới 847 mét cũng là những ngày vất vả, hào hùng làm chiến sĩ ta được sống lại thời kỳ Điện Biên. Chẳng những pháo binh mà còn phải huy động hàng tiểu đoàn bộ binh, công binh. Hàng ngàn con người căng sức lực ra trên những dây chão dây cáp kéo những khẩu 122 ly, 105 ly, 85 ly, 37 ly vượt dốc lầy trung bình 20 độ, có chỗ đến 40 độ dưới trời mưa rả rích, dưới tầm đại bác câu tới của địch. Đạn pháo có quả rơi vào giữa đội hình mà chiến sĩ ta vẫn cúi rạp người, găm dây cáp xuống không cho pháo lùi dù chỉ một tấc. Chiến sĩ hy sinh, bị thương đã có người lo, pháo vẫn nhích lên theo nhịp tay chỉ huy "hai, ba,... nào", y như Điện Biên năm xưa. Phó chính ủy sư đoàn, phó chính ủy trung đoàn trực tiếp chỉ huy kéo pháo. Bộ tư lệnh lữ đoàn công binh hội ý sinh hoạt ngay trên mặt đường. Không khí khẩn trương hối hả nhưng nghiêm túc không ồn ào. Cán bộ lo từng ngày, tính từng giờ. Khẩu pháo cuối cùng được đưa vào trận địa trên cao đứng vào trước giờ nổ súng. Sau này, lớp con cháu ta sẽ khó mà tưởng tượng được rằng chỉ dùng bằng sức người mà kéo pháo lên cao được như vậy. Ngay sau khi chiến thắng, muốn đưa pháo về xuôi, ta đã phải dùng trực thăng để cẩu.
Ngày 11 tháng 3 năm 1975 khi sư đoàn 324 đã nổ súng được ba hôm rồi, trung đoàn 18 mới hành quân vào đến nơi. Cán bộ còn tập trung để học tập cách đánh. Quân đoàn phó Hoàng Đan trực tiếp lên lớp cho cán bộ trung cấp. Sư phó Huy lên lớp cho cán bộ sơ cấp. Bàn với nhau cách đánh cũng gấp gáp, khẩn trương. Cán bộ chỉ huy trung đoàn 18 không có thì giờ trinh sát thực địa lần thứ hai. Mà trinh sát thực địa lẩn hai coi như tổ chức chiến đấu tại chỗ luôn.
Tất cả cái bối cảnh chuẩn bị hết sức hối hả, hết sức cực nhọc là ở phía đường 14 - nơi được chọn làm trọng điểm quân sự, nơi sẽ diễn ra cú đấm nặng cân nhất có tính chất quyết định cho chiến dịch.
Khi cấp trên quyết định chuyển hướng công kích chủ yếu từ đường 12 sang đường 14, anh em cán bộ quân sự chúng tôi đều thấy phải - tuy có băn khoăn, liệu chuẩn bị có kịp không? Anh em cán bộ ở quân đoàn 2 còn băn khoăn hơn chúng tôi, vì chính các anh mới thực sự là những người vất vả.
Nghe đâu chính ủy quân đoàn 2 - thiếu tướng Lê Văn Linh đã nói một câu, đại để như thế này: "Trước mắt, chúng ta chỉ có 30 ngày để chuẩn bị, nhưng trong thực tế chúng ta đã có ba mươi năm chuẩn bị cho cuộc chiến đấu hôm nay. Phải lấy tinh thần, kinh nghiệm của 30 năm để cuộc chuẩn bị khẩn trương nhưng chu đáo này hoàn thành tốt đẹp...".
Vâng, đúng như thế. Chúng ta đã chuẩn bị từ ba mươi năm nay, ba mươi năm chuẩn bị bằng mồ hôi nước mắt và xương máu. Bởi thế, sự khẩn trương trong suy nghĩ, trong hành động đã thành tư tưởng, thành tác phong của cán bộ, chiến sĩ. Bởi thế, sự tính toán của cấp trên là dựa trên cơ sở khoa học, chính xác mới dám quyết định thay đổi hướng công kích, chủ yếu của chiến dịch. Sau khi giành được thắng lợi hoàn toàn rồi, nhìn lại toàn bộ chiến dịch, càng thấy quyết định chuyển hướng trọng điểm quân sự từ đường 12 sang đường 14 để cắt đứt đường số 1 là chính xác là tuyệt vời. Xét về địa hình Trị Thiên, đoạn hiểm yếu nhất là đoạn đường từ Truồi vào đến Lăng Cô, một bên là phá Cầu Hai, một bên là Trường Sơn, ở giữa chỉ một doi đất quá hẹp, lơ thơ vài xóm nhỏ, có chỗ chỉ đủ cho quốc lộ số 1 và đường sắt chạy qua. Cắt đứt đoạn này là cắt đứt sự liên lạc trên bộ giữa Huế và Đà Nẵng, làm rung chuyển thế phòng ngự của địch ở vùng 1 chiến thuật, làm dao động tinh thần và ý chí của đối phương.
Trong quá trình chiến đấu, chẳng những ta cắt đứt đoạn đường này mà còn bịt chặt cửa Thuận An và cửa Tư Hiền thoạt đầu bằng pháo binh, sau đó bằng bộ binh. Trước đòn hiểm bao vây chia cắt ấy, kẻ địch chỉ có rối loạn, như kiến bò quanh miệng bát bị đun nóng. Điều đó có thể giải thích được tại sao khi ta đánh vào Huế lại dễ dàng và nhanh chóng thế.
Tất nhiên, chuyển hướng trọng điểm công kích từ đường 12 sang đường 14 để cắt đứt quốc lộ số 1 là một quyết định chính xác, táo bạo, nhưng như ta đã biết, không phải là việc giản đơn. Nó đòi hỏi phải có sự cân nhắc, tính toán thật khoa học. Vậy ý kiến đúng đắn này từ đâu đề xuất ra?
Có lần tôi hỏi chuyện một cán bộ sư đoàn, thì anh trả lời:
– Thực ra chúng tôi chỉ là cấp chiến thuật, cấp thực hiện. Sau khi nhận lệnh chiến đấu ở đường 12, chúng tôi liền cử cán bộ, trinh sát đi nghiên cứu và nhanh chóng triển khai mọi kế hoạch chuẩn bị cơ sở vật chất, kỹ thuật. Song quả thật, trong lòng vẫn còn đôi chút băn khoăn. Mạn đàm, trao đổi với nhau, chúng tôi nghĩ rằng, đánh đường 12 thì sẽ khó thực hiện được yêu cầu chia cắt chiến dịch lúc có thời cơ.
Hơn nữa, nếu địch tập trung lực lượng be bờ cố thủ thì tình thế chiến dịch dễ bị giậm chân tại chỗ, khó phát triển. Chúng tôi nghiêng về ý kiến chọn khu vực đường 14 làm hướng tiến công chủ yếu. Sau đó chúng tôi có mạnh dạn đề nghị ý kiến này lên cấp trên. Nhưng, chính các anh trên Bộ tư lệnh quân đoàn cũng đã sẵn ý kiến như vậy. Khi nghe đồng chí cán bộ sư đoàn nới thế, không hiểu sao, tôi cứ nghĩ đến đồng chí tư lệnh quân đoàn 2 - thiếu tướng Nguyễn Hữu An. Anh An nguyên trước kia là tư lệnh phó quân khu Trị Thiên, vừa đi nghiên cứu quân sự ở nước ngoài về, và nhận chức tư lệnh quân đoàn từ đầu chiến dịch. Vừa tiếp thu được kiến thức và kinh nghiệm của một nền khoa học quân sự hiện đại, chắc anh An là người có khả năng đề xuất những ý kiến mới mẻ.
Nhưng hỏi anh An, anh đáp, đấy là ý kiến tập thể của Bộ lư lệnh quân đoàn vừa là trùng hợp với ý kiến tập thể Bộ tư lệnh quân khu. Sau khi thống nhất trong Đảng ủy mặt trận, ý kiến này được báo cáo và thảo luận trong lúc thông qua phương án tác chiến và được Bộ nhất trí. Cuối cùng, Bộ quyết định cho chuyển hướng tiến công chủ yếu của chiến dịch vào hướng Nam Huế.
Thực ra, tôi hỏi vậy cũng vì tò mò. Chứ các đồng chí cấp trên thường là rất nguyên tác và khiêm tốn: dù là ý kiến cá nhân đề xuất ra, nhưng khi đã thông qua tập thể là trở thành ý kiến tập thể.
Dù sao, trong vấn đề này, sự nhạy bén trong đầu óc cán bộ các cấp là một điều đáng lưu ý. Dường như có tia sáng vô hình nào đó lóe lên, soi rõ mọi ý đồ mọi dự định, và cán bộ chúng ta đã cùng một lúc nhìn thấy được, bắt nắm được. Sau này, khi đã nổ súng, sự hiểu biết lẫn nhau, sự thông cảm với nhau trong ý đồ chiến lược, chiến dịch cũng như phương pháp tác chiến đã biểu hiện điều đó. Nhiều lúc chưa kịp hợp đồng với nhau, mà các cánh quân đều tiến công nhịp nhàng, chưa kịp ra mệnh lệnh, chỉ thị mà cấp dưới đã hành động đúng ý đồ, đúng dự kiến. Phải chăng là chúng ta được soi sáng trong mọi đường lối chung của Đảng, vì chúng ta đã tích lũy được nhiều kiến thức, nhiều chiến thắng, từng đau đớn trước không ít tổn thất, hy sinh. Đúng là chúng ta không chỉ có ba mươi ngày để chuẩn bị, mà chúng ta đã chuẩn bị từ ba mươi năm nay cho trận thắng cuối cùng.
⚝ ⚝ ⚝
Trong những ngày chúng ta chuẩn bị ở đường 14, dường như kẻ địch cũng đã đánh hơi thấy. Theo thông báo của Bộ tư lệnh quân đoàn 1 ngụy ngày 3 tháng 3 năm 1975(tức là trước lúc ta nổ súng 5 ngày) thì ta đã trinh sát xong các cứ điểm của sư đoàn 1 nguy từ Hương Thủy trở vào. Lực lượng địch bấy giờ ở Trị Thiên ước tính 56.000 tên, kể cả chủ lực lẫn địa phương(không kể dân vệ và phòng vệ dân sự), tất cả là 41 tiểu đoàn.
Sư đoàn 1, một sư đoàn mạnh nhất của bộ binh quân ngụy gồm có 4 trung đoàn: 1, 3, 51, 54. Chúng có nhiệm vụ phòng giữ phía tây từ Hương Trà vào Hương Thủy đến bắc Phú Lộc. Sư đoàn thủy quân lục chiến gồm có 3 lữ: lữ 147 phòng ngự phía tây Phong Điền, lữ 258 ở Thanh Hội, Long Quang, lữ 369 ở thành cổ Quảng Trị sau này được rút ra làm lực lượng cơ động. Tóm lại, sư đoàn thủy quân lục chiến chỉ huy luôn cả mấy quận và tiểu khu Quảng Trị trong phạm vi mình phụ trách - đảm nhiệm khu vực chiến đấu từ bắc sông Bồ trở ra.
Sư đoàn dù chỉ để lữ đoàn 2 ở Thừa Thiên do quân đoàn tiền phương nguy trực tiếp chỉ huy, đóng ở đèo Phước Tương có nhiệm vụ cơ động bảo vệ đường Huế - Đà Nẵng. Liên đoàn biệt động quân 15 gồm ba tiểu đoàn: 60, 61, 94, lúc đầu ở Phú Bài, về sau được đưa vào Phú Lộc do bị no đòn ở đấy.
Liên đoàn bảo an 913 ở Quảng Trị, liên đoàn bảo an 914 ở Thừa Thiên. Ngoài ra còn 9 tiểu đoàn bảo an khác trực thuộc hai tiểu khu Quảng Trị và Thừa Thiên.
Lực lượng địa phương gồm 21 đại đội bảo an, 319 trung đội dân vệ, 119 ban chỉ huy phân chi khu quân sự, 2 đại đội cảnh sát đã chiến, 7.000 tên cảnh sát từ xã đến tỉnh, ba mươi ngàn phòng vệ dân sự(trong đó có 23 ngàn tay súng).
Pháo binh mặt đất địch gồm 10 tiểu đoàn, 1 đại đội, 7 trung đội; tất cả có 194 khẩu kể từ pháo 105 ly đến pháo 175 ly.
Về thiết giáp, chúng có 3 thiết đoàn, 260 xe chiến đấu(trong đó có 100 xe tăng M48, M41). Thiết đoàn chiến xa 20 đóng quân ở Đức Tích cùng với lữ đoàn 1 kỵ binh thiết giáp án ngữ vùng phía nam sông Mỹ Chánh, Đồng Lâm đề phòng ta chia cắt chiến trường Trị Thiên ra làm hai.
Thiết đoàn 17 thiết giáp phối hợp cùng lữ đoàn 258 thủy quân lục chiến đóng ở đồng bằng Quảng Trị, một lực lượng mạnh có thể sẵn sàng tiến công. Thiết đoàn 7 thiết giáp ở ấp 5 phía nam Huế, phục vụ cơ động cho sư đoàn 1 bộ binh nguy. Pháo cao xạ chỉ có một tiểu đoàn mới thành lập gồm 27 xe M42 gắn pháo 40 ly 2 nòng và 37 xe gắn súng máy 12 ly 7 loại 6 nòng và 4 nòng.
Hải quân địch gồm 81 tàu thuyền, phần lớn loại nhỏ. Ở Cửa Thuận, có hai duyên đoàn số 11 và 12 và hai giang đoàn số 60 và 92. Ở cửa Tư Hiền có duyên đoàn số 13. Giang dân số 32 đóng ở bến Tòa Khâm, Huế. Lực lượng không quân của chúng chi viện cho chiến trường Trị Thiên do sư 1 không quân ở Đà Nẵng đảm nhiệm. Ở sân bay Phú Bài chỉ có 1 phi đoàn máy bay trực thăng UH.1 từ 18 đến 20 chiếc và hai phi đội máy bay trinh sát từ 8 đến 10 chiếc. Loại máy bay vận tải C.130 đến và đi, không ở lại. Nói chung, lực lượng của chúng khá hùng hậu, được bố trí chặt chẽ, có lực lượng vòng trong, lực lượng vòng ngoài, có lực lượng cơ động toàn chiến trường, có lực lượng cơ động từng khu vực và tại chỗ.
Nhìn thế bố trí của địch, ta thấy chúng có chú ý vào đường 14. Khu vực đường 14 là nơi đã xảy ra nhiều trận chiến đấu quyết liệt từ mùa thu năm ngoái đến nay. Tháng 7 năm 1974, phối hợp với Thượng Đức và Đắc Pếch ta mở trận tiến công t ừng phạt địch ở Mỏ Tàu -303 do trung đoàn 54 và trung đoàn 1 nguy phòng giữ. Bọn địch ở đây đã bị thất thiệt 7 tiểu đoàn, gồm 4.000 tên.
Ngày 6 tháng 8 năm 1974 ta cắt hẳn đường tàu hỏa từ Huế vào Đà Nẵng, và uy hiếp quốc lộ số 1.
Từ đấy, bọn Ngô Quang Trưởng, Lâm Quang Thi qua những câu trả lời phỏng vấn của nhà báo nước ngoài đã biểu lộ sự lo ngại khả năng có thể bị chia cắt giữa Phú Bài và Phú Lộc.
Vì thế, chúng đã tập trung toàn sư đoàn 1 và liên đoàn biệt động 15 đối phó với ta từ tháng 8 năm 1974 tới tháng 2 năm 1975 ở quanh đường 14. Cuối cùng, chúng đã tái chiếm được những mảnh đất ta vừa giành giữ. Tuy nhiên, kẻ địch không thể nào yên ổn trên mảnh đất này. Chúng biết, không chóng thì chầy, chúng sẽ bị giáng trả những đòn trừng phạt quyết liệt hơn, mạnh mẽ hơn.
Vào những ngày sau Tết nguyên đán Ất Mão, qua những tin tức của gián điệp tình báo phối hợp với tài liệu phương tiện trinh sát kỹ thuật, kẻ địch cũng biết rằng có một lực lượng đáng kể của quân đoàn 2 sẽ đánh vào đường 14.
Vậy thì tại sao kẻ địch không tập trung lực lượng cao hơn nữa để ngăn chặn ta ở đường 14? Đấy là nỗi đau khổ của những người cầm quân không nắm được thế chủ động trên chiến trường. Lực lượng chúng tuy đông nhưng bị căng mỏng ra, số quân cơ động bị hạn chế. Lâm Quang Thi, cùng tham mưu trưởng là đại tá Hy đã vật mình vật mẩy với Ngô Quang Trưởng, tư lệnh quân đoàn 1 xin thêm 1 lữ dù hoặc từ 468 thủy quân lục chiến mới thành lập ở Sài Gòn ra tăng thêm làm lực lượng cơ động cho Trị Thiên. Nhưng làm sao Ngô Quang Trưởng lại có thể đồng ý, khi sư đoàn 304 của ta vẫn uy hiếp chúng ở Thượng Đức. Trong quá trình chiến đấu, chẳng những không được tăng thêm mà còn bị điều mất lữ dù 2, tiếp đến còn điều nốt cả lữ 369 thủy quân lục chiến vào Quảng Nam để đổi liên đoàn biệt động quân 14 ra Trị Thiên, một đơn vị chất lượng chiến đấu chắc chắn là kém hơn bọn lính dù và thủy quân lục chiến.
Không có đủ lực lượng cơ động đã đành, chúng vẫn không thể xem thường cánh bắc. Đòn tiến công quyết liệt 1972 của ta ở Quảng Trị đến bây giờ còn làm chúng khiếp đảm. Như con chim đã chết hụt một lần, hễ thấy cành cây cong cũng sợ, chúng luôn luôn để mắt ra hướng bắc và tây- bắc. Đấy là những hướng, ta có vùng giải phóng rộng lớn có thể áp đảo chúng. Cảm giác của tụi tướng tá ngụy luôn luôn bị ám ảnh bởi những trận pháo kích dữ dội, những đoàn xe tăng T.54 lao lên và tiếp theo là những đợt sóng xung phong của bộ binh thiện chiến và gan góc.
Sau này đọc lời khai diễn biến hành quân của sư đoàn thủy quân lục chiến ngụy của tên đại tá Nguyễn Thành Trí, phó tư lệnh sư đoàn, ta càng thấy rõ kẻ địch đã để nhiều sức lực vào việc bố phòng hướng bắc. Không thể bỗng dưng mà chúng đề ra kế hoạch về các giai đoạn phòng ngự. Giai đoạn 1, chúng phòng ngư ở tuyến sông Thạch Hãn, mà chúng gọi là tuyến đen. Ở đây chúng sử dụng một lực lượng mạnh để tiến công hòng vá lại khi tuyến bị chọc thủng. Giai đoạn 2, chúng dự kiến nếu đối phương gia tăng áp lực mạnh ở Quảng Trị, thế không giữ nổi thì co về tuyến đỏ. Tuyến đỏ tức là phòng tuyến sông Mỹ Chánh từ thượng nguồn sông về tận Văn Trình sang bên kia Thanh Hương. Những kế hoạch này gọi là trì hoãn chiến. Sau này trong quá trình chiến đấu khi đã thực sự bị áp lực mạnh của ta từ phía bắc, chúng đề thêm dự kiến xấu hơn là nếu tuyến đỏ bị chọc thủng thì tử thủ ở tuyến Bắc Bình, tức là tuyến sông Bồ từ Lại Bằng, An Lỗ về dưới ngã ba Sình. Thực ra hy vọng tử thủ ở tuyến Bắc Bình này là quá mong manh, ở đây chỉ cách Huế trong vòng hai mươi ki-lô-mét trở lại. Nhưng điều quan trọng hơn hết là kẻ địch không đoán chắc được ta sẽ tiến công từ hướng nào là hướng chủ yếu. Chúng vừa lo ở hướng bắc, vừa lo ở hướng tây Phong Điền tức là giữa tuyến đỏ và tuyến Bắc Bình, vừa lo ở đường 12 - con đường ngắn nhất để chọc thủng về Huế, lại càng lo ở đường 14 phía nam, nơi chúng có thể bị ta cắt một nhát sắc bén từ đường 14 qua đường 1 và thế là bị cô lập hẳn với Đà Nẵng và toàn miền Nam. Nỗi lo lắng băn khoăn của chúng là do thế chủ động của ta tạo nên. Nghệ thuật chỉ đạo quân sự là biết đẩy địch rơi vào tình trạng khó khăn, và tiếp theo là biết khoét sâu vào khó khăn ấy.
Để đánh lạc hướng tiến công chủ yếu, để thu hút sự chú ý của địch về hướng bắc, ta đã khéo nghi binh. Một cuộc diễn tập thực binh do Quân khu tổ chức gồm lực lượng của trung đoàn 9 thuộc sư đoàn 304 và lực lượng bộ đội địa phương và dân quân dụ kích Quảng Trị có xe tăng và pháo binh tham gia, được tiến hành rầm rộ ở bắc Quảng Trị. Vào thời kỳ đó, ta lại cho xe xích và cả máy kéo nữa cơ động thêm ở một số nơi, di chuyển thay phiên quân ở nhiều địa điểm, nửa kín nửa hở gây không khí chuẩn bị chiến dịch. Và có thể do ta khéo tung tin, bọn phòng nhì của quân đoàn tiền phương ngụy ở Huế cuống cuồng ghi nhận là sư đoàn 308 đã trở lại Quảng Trị. Tin tức này được ghi nhận vào ngày 13 tháng 1 năm 1975 với những chi tiết có vẻ khá cụ thể: sư đoàn bộ đóng ở tỉnh Quảng Trị, Gio Linh, trung đoàn 102 ở sông Vĩnh Phước, trung đoàn 88 ở Khe Sanh, trung đoàn 36 tây Đông Hà có nhiệm vụ sẽ thay thế trung đoàn 101 thuộc sư đoàn 325. Ngoài ra, sư đoàn 341 cũng sẽ vào. Trước mắt, sư đoàn này đã cho một trung đoàn vào đóng phía bắc Cửa Việt. Ở vùng Cửa Việt và Gio Linh chúng còn ghi nhận thêm sự hiện diện của trung đoàn 31, trung đoàn 2, trung đoàn 5 hải quân, trung đoàn 126 đặc công nước,...
Tóm lại, giữa cái hư và cái thực, kẻ địch không biết đằng nào mà tin. Theo tài liệu ta biết được thì bọn địch chỉ thị cho tụi gián điệp, tụi thám báo cố chụp ảnh cho được nghị quyết của Khu ủy Trị Thiên và xác minh lại tin tức về sư đoàn 308. Cố nhiên là chúng không làm được, hoặc là làm được trong vòng ý muốn của ta.
Bọn địch ở Trị Thiên cố ổn định ở phía bắc, để tập trung đối phó với ta ở phía nam Huế. Cũng như chúng cố ngan chặn ta ở giáp ranh để ráo riết đẩy mạnh bình định nông thôn đồng bằng, nhưng tất cả những cố gắng của chúng đều rơi vào tình trạng khó khăn, vì cơ bản chúng hoàn toàn ở thế bị động cả về chiến lược lẫn chiến thuật. Khi đã bị động đối phó thì lực lượng đông cũng cảm thấy thiếu. Như người đắp chiếc chăn hẹp và ngắn, cố đằng đầu thì hở đằng chân, kéo về phía trước bụng thì sau lưng gió lọt.
Đấy là tâm trạng của lũ tướng tá thuộc quân đoàn 1 ngụy khi bắt buộc phải dăng quân ra khắp nơi cả ngoài Trị Thiên - Huế, lẫn trong Đà Nẵng - Quảng Nam, cả trên tuyến tiếp xúc và cả trong vùng nông thôn rộng lớn. Tâm trạng ấy càng trở nên rối bời khi chúng manh nha được sẽ phải chịu đòn trừng phạt quyết liệt sắp tới, nhưng sẽ rơi vào đâu?
⚝ ⚝ ⚝
Cuộc chuẩn bị cho chiến dịch mùa xuân năm 1975 ở Trị Thiên thực sự bắt đầu từ lúc nào? Thật khó mà rạch ròi được điều này. Những anh cán bộ tác chiến chúng tôi do thói quen nghề nghiệp, thường có sự chuẩn bị thực sự bắt đầu từ lúc vạch kế hoạch.
Tôi nhớ một buổi chiều đầu tháng 12 năm 1974, đồng chí trưởng phòng chúng tôi đi dự họp ở Bộ tư lệnh về, tỏ ra rất vui. Khi xách bát đi ăn cơm, anh nói nhỏ với tôi: "sắp sửa mần ăn rồi đó cậu ạ!". Sắp sửa mần ăn, thế là tôi hiểu. Từ đấy chúng tôi xoay trần ra phục vụ cho Bộ tư lệnh quân khu trong việc vạch kế hoạch tác chiến. Sau này chúng tôi biết thêm: Cuối tháng 1 năm 1975 Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh thông qua kế hoạch thống nhất của quân khu Trị Thiên và quân đoàn 2, quyết định việc lãnh đạo chỉ huy và đến cuối tháng 2 năm 1975 thì kiểm tra và chỉ thị thêm lần cuối.
Tôi vẫn còn ghi nhớ quyết tâm và ý định tiến công của ta lúc bấy giờ:
“Thực hiện mệnh lệnh của Bộ, quyết tâm chung của chúng ta là, tập trung toàn bộ lực lượng B4 và B5, tranh thủ thời cơ thuận lợi của năm 1975, đẩy mạnh tiên công tiêu diệt một bộ phận quan trọng binh lực địch, đánh bạt về cơ bản kế hoạch bình định của địch ở Trị Thiên, giành 35 vạn dân ở nông thôn đồng bằng phát động cao trào đấu tranh chính trị ở thành phố, đánh mạnh kho tàng, hậu cứ, triệt phá giao thông, tích cực sáng tạo thời cơ và sẵn sàng chớp thời cơ tiên lên giành thắng lợi lớn - kể cả giải phóng Huế”.
Toàn khu Trị Thiên chia làm 5 khu vực tiến công là:
– Nam Quảng Trị.
– Hai huyện Phong Điền và Quảng Điền(bắc Thừa Thiên).
– Đồng bằng Nam Huế.
– Ven đô và thành phố Huế(bao gồm cả huyện Hương Trà và một bộ phận huyện Hương Thủy).
– Trục giao thông từ Truồi trở vào đến đèo Hải Vân.
Trọng điểm giành dân là Phong Quảng. Trọng điểm quân sự và giành dân là nam Thừa Thiên. Mặt trận đồng bằng và mặt trận giáp ranh, phối hợp chặt chẽ với nhau: mặt trận đồng bằng đánh phá bình định, mặt trận giáp ranh thu hút, kiềm chế và tiêu diệt địch.
Kế hoạch dự tính trong năm 1975 sẽ mở hai chiến dịch tổng hợp ở Trị Thiên. Chiến dịch 1 gọi là chiến dịch "Xuân Hè"(ở quân đoàn 2 còn gọi là chiến dịch K.175) từ tháng 3 đến đầu tháng 5 năm 1975. Chiến dịch 2 gọi là chiến dịch “Mùa Thu” khoảng chừng 7 đến tháng 8 năm 1975. Đi đôi với "kế hoạch cơ bản" có “kế hoạch thời cơ” để sẵn sàng chủ động khi có thời cơ thuận lợi lớn; đồng thời có kế hoạch nghi binh để đánh lạc hướng địch như phần trên đã kể.
Những yêu cầu chính của chiến dịch "Xuân Hè" là:
1. Ở đồng bằng, từ phá lỏng đến phá rã hệ thống kìm kẹp của địch giành từ 7 đến 10 vạn dân, phát triển lực lượng vũ trang và chính trị địa phương, đưa cơ quan lãnh đạo chỉ huy xuống đứng ở vùng sâu.
2. Ở giáp ranh, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, phá thế phân tuyến, chiếm lĩnh một số địa bàn có lợi nhất là trên đường 14, làm chủ cho được khu vực 303, đánh cắt giao thông phía Phú Lộc và phá kho tàng.
3. Khi có thời cơ thì tung hết lực lượng ra tiến công, giải phóng toàn bộ nông thôn, thực hiện chia cắt chiến lược bao vây uy hiếp thành phố Huế. Nếu có điều kiện thì kết hợp tiến công và nổi dậy để giải phóng hoàn toàn Trị Thiên - Huế.
Thế đấy: nhìn chung quyết tâm, ý đồ và những yêu cầu chính của chiến dịch mùa xuân 1975 ở Trị Thiên và chắc là ở cả miền Nam đều hãy còn khiêm tốn, thận trọng. Thắng lợi hoàn toàn vừa qua là nằm trong kế hoạch thời cơ. Thời cơ không bỗng dưng mà đến, thời cơ do ta tạo nên, do ta biết khoét sâu vào sai lầm của địch. Nhưng đấy lại là chuyện khác, chuyện về sau sẽ kể về diễn biến của chiến dịch.
Điểm lại quyết tâm, ý đồ và yêu cầu của chiến dịch để lưu ý một vấn đề tư tưởng chỉ đạo: lúc nào việc tiêu diệt địch và giành dân cũng đều xoắn xuýt lấy nhau. Mọi hoạt động đều lấy giành dân làm đích.
Bởi thế trong công tác chuẩn bị chiến dịch lần này có một điểm khá nổi bật: chúng ta đã huy động hàng ngàn cán bộ địa phương và dân quân du kích tổ chức lại thành từng đội vũ trang công tác - những đội quân xung kích ở cơ sở. Có đến gần 150 đội như thế. Đúng như tên gọi của nó, đội có 3 nhiệm vụ và chức năng chủ yếu: xây dựng phát triển thực lực cách mạng, xung kích trong khởi nghĩa vũ trang, nòng cốt trong việc xây dựng, bảo vệ và củng cố chính quyền cách mạng mới. Các đội được tổ chức chặt chẽ, huấn luyện chu đáo cả về chính trị lẫn quân sự, sẵn sàng tung về khắp nơi nhất là ở những trọng điểm giành dân.
Trong câu chuyện làm "tham mưu con" của đám chiến sĩ trẻ trung đoàn Phú Xuân, cậu Tứ có nhắc tới cô Lưu nào đó với niềm tin mãnh liệt vào chiến dịch" vào đội vũ trang công tác của mình - đã mời Tứ về thôn Thể Chí Đông bên kia phá Tam Giang ăn cá biển. Chúng ta tin rằng, Tứ không bịa chuyện. Tôi đã từng gặp nhiều cán bộ, du kích địa phương trong thời gian họ còn tập trung học tập; quả thật, hầu như ai cũng vậy, nhất là đám các cô gái họ rất tin vào đợt làm ăn sắp tới. Chưa nghĩ đến toàn Trị Thiên - Huế sẽ được giải phóng như hôm nay, nhưng ai cũng hình dung ra từng mảnh đất tự do, từng thôn làng giải phóng như quyết tâm của trên và cũng là của bản thân họ. Có thể do nỗi thèm khát được trở về với quê hương tự do của mình sau nhiều năm phải nằm hầm nằm hố, chui rúc bờ bụi hoặc lên rừng, nhưng chắc chắn là có những điều, sâu xa hơn nữa thuộc về lý tưởng cách mạng, thuộc về ý đồ của chiến dịch và trước hết thuộc về công tác tổ chức cụ thể về hành động. Gặp anh Luyện bí thư huyện ủy Phong Điền, anh vui vẻ nhắc lại với tôi những kỷ niệm đẹp đẽ năm 1964 - 1965 lúc Phong Chương, Quảng Thái còn là "đất thánh" cách mạng của hai huyện Phong Điền, Quảng Điền. Câu chuyện của anh nhắc tới những lúc đi xuồng máy đuôi tôm qua bên kia phá Tam Giang, những lúc chúng tôi đèo nhau xe đạp đi từ Mỹ Phú về Phò Trạch... Nhắc tới quá khứ một cách vui vẻ là anh muốn tỏ ra thận trọng, không vội bốc đồng huênh hoang về tương lai. Tuy nhiên, qua cặp mắt tự tin và giọng nói kiên nghị của anh, tôi hiểu rằng, anh hoàn toàn tin vào kế hoạch của huyện ủy sẽ giải phóng hoàn toàn và làm chủ ở 6 thôn(Mỹ Phú, Nhất Phong, Phò Trạch, Vĩnh An, Trạch Phổ và Ưu Điềm), đưa 27 thôn còn lại của huyện Phong Điền lên vùng tranh chấp(kể cả những thôn ben kia phá Tam Giang mà địch tách ra làm quận Hướng Điền). Nhân thể xin nói thêm điều này: có vài anh cán bộ khi nói chuyện với tôi cho rằng, vừa qua chẳng thấy quần chúng nổi dậy đâu cả vì cơ sở quần chúng ta còn quá yếu. Thực ra không phải hoàn toàn như thế, nhìn chung, cơ sở ta còn yếu thật. Yếu là so với yêu cầu của cách mạng, yêu cầu một cuộc nổi dậy đồng loạt có tính chất quyết định, chứ không phải quá yếu. Ngay ở huyện Phong Điền chẳng hạn, xã nào cũng có chi bộ đảng từ 3 đến 5 đảng viên. Nói riêng cơ sở quần chúng ở một thôn như thôn Nhất Phong thuộc xã Phong Chương là khá mạnh. Ở đây có 1 chi đoàn thanh niên, 5 tổ phụ nữ và nông hội, 45 quần chúng cốt cán và 1 tổ du kích gồm 12 người. Số du kích này, đa số nằm trong hàng ngũ phòng vệ dân sự của địch.
Nếu nói vùng sâu thì ở Trị Thiên ta chắc không đâu sâu hơn thành phố Huế, ở đây, kẻ địch luôn luôn tìm mọi thủ đoạn đánh phá phong trào cách mạng, nhất là sau cuộc tổng công kích Mậu Thân. Xây dựng cho được một cơ sở quần chúng cách mạng thật không dễ dàng gì. Vậy mà trước khi giải phóng, Huế cũng đã có 8 chi bộ Đảng, ba mươi chi đoàn thanh niên phần lớn trong giáo chức, sinh viên, học sinh. Ngoài ra còn 170 cơ sở quần chúng cách mạng và 6 sĩ quan nội tuyến. Ở nông thôn cũng như ở thành phố, khi quần chúng bị o ép dưới bàn tay bình định khắc nghiệt, tàn bạo của địch mà có được những tổ chức cơ sở như vậy thật là đáng kể.
Hãy tưởng tượng xem khi có đòn tiến công quân sự hỗ trợ, với những đội vũ trang công tác được tổ chức huấn luyện chu đáo lại có sự hợp đồng với mạng lưới cơ sở quần chúng cách mạng nằm sâu trong lòng địch, sao lại không làm nên chuyện? Sao lại không vận động đông đảo quần chúng nổi dậy được?
Trong thực tế, qua quá trình diễn biến của chiến dịch, các đội vũ trang công tác đã đóng góp phần xứng đáng vào thắng lợi chung.
⚝ ⚝ ⚝
Cuộc chuẩn bị chiến đấu ở Trị Thiên chúng ta năm nay ngoài việc phải hết sức bí mật, tạo yếu tố bất ngờ để giành thắng lợi còn dựa trên phương châm vừa tiến công vừa chuẩn bị, vừa chuẩn bị vừa tiến công; phương châm đúng đắn này được Khu ủy và Quân khu ủy đề ra và tính liệu từ năm 1974, tạo cơ sở và tiền đề cho năm 1975. Nhìn chung toàn chiến trường, ta thấy khi trung đoàn 271, trung đoàn 6 còn giành giật với địch ở Mỏ Tàu - 303 thì quân đoàn 2 đã khẩn trương chuẩn bị bước vào chiến dịch, các đội vũ trang công tác đã được tập trung huấn luyện, học tập. Khi chiến dịch đã nổ súng, sư đoàn 324, trung đoàn 4, trung đoàn 271 đã chiến đấu quyết liệt hàng tuần lễ các đội vũ trang công tác cùng bộ đội địa phương đã giành giật với địch từng thôn, từng làng ở đồng bằng, thì sư đoàn 325 vẫn gấp rút hoàn thành chuẩn bị vào đợt hai. Ngay trong từng đơn vị cũng có bộ phận tiến công, bộ phận chuẩn bị. Chuẩn bị khẩn trương chu đáo là tạo điều kiện tiến công thắng lợi. Ngược lại, tiến công thắng lợi chính là thiết thực chuẩn bị cho bước phát triển mới.
Khó mà rạch ròi được thời gian giữa chuẩn bị và tiến công. Bởi thế, nếu nói cuộc chuẩn bị này trong ba mươi ngày hoặc cuộc chuẩn bị này đã ba mươi năm đều chỉ là một cách nói mang ý nghĩa tượng trưng.