← Quay lại trang sách

⚝ VII ⚝ VĨNH LINH VỚI CỒN CỎ
ĐẢO

Ở Vĩnh Linh, mọi người gọi Cồn Cỏ bằng một cái tên khác: “đảo”. Chỉ ngắn, gọn, và thế là đủ. “Ra đảo”, “đảo kia kìa”, “ngoài đảo”. Tiếng ấy gợi lên một âm vang tha thiết, gắn bó máu thịt hơn là “đảo Cồn Cỏ”.

Truyền thuyết dân gian kể rằng ngày xưa có một người khổng lồ quẩy hai tảng đá lớn đi từ bắc vào nam. Đến Vĩnh Linh đứt quang, hai tảng đá rơi xuống. Tảng trong đất liền là ngọn Linh Sơn(bản đồ quân sự ghi là điểm cao 74) ở xã Vĩnh Thụy, tảng ngoài khơi là Cồn Cỏ. Vì sao có tên Cồn Cỏ? Một vài cụ già ở vùng biển Quảng Trị nói rằng ngày xưa hòn đảo vốn có tên là “Con Cọp”. Đứng từ phía Đông nhìn vào trông nó giống hình con cọp đang rình vồ mồi thật. Lâu ngày "Con cọp" biến dạng thành Cồn Cỏ. Ý kiến này có thể đúng. Trong một số tài liệu và bản đồ cũ của Pháp, họ cũng gọi đảo này là Lơ ti-gờ-rờ(Le tigre), có nghĩa là con cọp.

Nằm vắt ngang trên vĩ tuyến 17, cách Vĩnh Mốc 28 cây số cao hơn mặt biển 63,4 mét, rộng 2,4 cây số vuông, Cồn Cỏ giống như một Vĩnh Linh thu nhỏ lại. Có rừng cây, có đất có bãi cát, có núi đá, có đồi tranh thoai thoải... Sau hiệp nghị Giơ-ne-vơ, một thời gian dài, trên đảo vẫn chưa có người ở. Mùa thu năm 1959, biết địch có ý định chiếm Cồn Cỏ, ngày 8 tháng Tám, ta cho một đơn vị bộ đội đổ bộ lên đảo, trước địch hai ngày. Hôm sau ngụy quyền Ngô Đình Diệm đưa tàu chiến đến vây đảo định gây chuyện. Ta nổ súng cảnh cáo, chúng phải bỏ chạy.

Mùa xuân năm 1965, cùng với Vĩnh Linh, đảo nhỏ đi vào lịch sử trở thành biểu tượng sáng chói của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Khắp nơi trên miền Bắc, nơi nào cuộc chiến đấu giữa ta và địch diễn ra quyết liệt nhất, nơi ấy được đặt tên là Cồn Cỏ. Có hàng chục những Cồn Cỏ ở Vĩnh Linh, ở Quảng Bình, ở Trường Sơn, ở Nghệ Tĩnh... Là đơn vị đầu tiên trên miền Bắc hai lần được phong danh hiệu anh hùng, nhưng nếu bạn có dịp nói chuyện với bất cứ một chiến sĩ Cồn Cỏ nào, bạn cũng sẽ được nghe câu sau đây: "Không, không phải chúng tôi, nhân dân Vĩnh Linh mới xứng đáng với vinh dự ấy. Có sự hy sinh của bà con, chúng tôi mới giữ được đảo". Phải chăng họ khiêm tốn? Không, đấy là sự thật, hoàn toàn đúng sự thật!

⚝ ⚝ ⚝

Ngày trời tạnh, đứng ở Cửa Tùng nhìn ra thấy Cồn Cỏ nổi rõ ở chân trời. Có 16 hải lý chứ xa xôi gì. Nhưng vượt 16 hải lý ấy lúc bình thường đã không phải hoàn toàn thuận lợi. Gặp kỳ gió bấc, gió “đông ngang” là chịu chết, không vào không ra được. Phải gió "nam lôi"(gió tây) ra được nhưng không vào được. Khi gió "nam dưới" thổi vào dễ nhưng ra rất khó. Về tiết đông xuân, có những ngày đảo bị phong kín sau những lớp sương mù dày đặc, thuyền đi không khéo bị lạc. Khi miền Nam chưa giải phóng, lạc có nghĩa là vào tận Đà Nẵng, Quy Nhơn, Vũng Tàu..., là sa vào tay giặc như chơi. Vùng biển giữa đảo và đất liền lại còn có những dòng nước xoáy rất nguy hiểm(ngày 5-9- 1965, một thuyền chở hai tấn hàng và 13 người đi vào dòng nước xoáy này, bị cuốn mất tích) .

Đảo sống nhờ đất liền. Cả nước lã lúc đầu cũng phải chở từ đất liền ra. Bước vào cuộc chiến đấu, thêm nhiều nhu cầu mới: bổ sung vũ khí, công sự làm từ trước nay không thích hợp, cần có vật liệu để xây dựng lại. Ngày nào địch cũng đánh cũng thương vong, phải chở thương binh về bệnh viện, chiến sĩ về nghĩa trang, đưa người ra thay thế.

Thoạt đầu Bộ Tổng Tư lệnh giao Hải quân lo việc tiếp tế cho đảo. Bộ Tư lệnh hải quân cử một đồng chí tham mưu phó vào nghiên cứu, quyết định đặt trạm ra-đa chỉ huy ở Mũi Si(Vĩnh Kim) và dùng tàu phóng lôi từ căn cứ sông Gianh chở hàng ra đảo. Có cái khó là tàu không cập bến được, cả bến trong đất liền lẫn bến ngoài đảo. Không biết người nào nảy ra sáng kiến dùng thuyền thúng chở theo trên tàu để làm phương tiện bốc dỡ. Phải ra tận Bình Lục(Hà Nam Ninh) mới mua được thuyền thúng. Rồi còn phải tốn một thời gian nữa cho thủy thủ tập chèo. Kế hoạch đồ sộ nhưng kết quả chỉ đi được có mỗi chuyến, chở được ít gạo, xi măng, khung gỗ làm hầm và nước ngọt. Bảy giờ tối tàu ra khỏi cửa Gianh, chín giờ đến Mũi Si, bốc hàng xong vừa đúng nửa đêm. Tàu phóng vút một cái, chỉ nửa giờ đến đảo. Tàu địch thấy tàu phóng lôi bỏ chạy hết. Nhưng bốc dỡ rất chậm, thuyền nan bé tẹo, bập bà bập bềnh trên sóng, chưa dỡ hết hàng trời đã sắp sáng, phải tạm dừng cho tàu quay về để kịp đi giấu. Việc tiếp tế cho đảo bằng tàu thế là không tiếp tục được.

Cuối tháng Năm 1965, tình hình trên đảo khá nguy ngập. Gạo ăn dè xẻn cũng chỉ đủ trong vòng một tuần lễ, đạn tính từng viên. Gay go nhất là nước ngọt. Cả đảo có một cái giếng hình chữ L. Không biết anh chiến sĩ tinh nghịch nào đã đặt câu ca:

"Cồn Cỏ có cái giêng lờ

Cán bộ, chiến sĩ ngồi chờ nước ra"

Nước giếng L không thật ngọt, chảy ri rỉ từng giọt, hứng suốt ngày chỉ vừa đủ nấu cơm. Đảo trưởng Trần Thà muốn mở cho miệng giếng rộng ra và xoá cái tên “lờ” không hay ho, mới cho nổ một quả bộc phá. Từ đó mạch nước tịt luôn. Trong trận đánh phá đầu tiên, một quả bom Mỹ rơi trúng bể chứa nước mưa. Thế là coi như đảo hết sạch nước ngọt, phải chặt chuối rừng vắt ra lấy nước uống. Có ngày trên đảo chỉ còn một bi-đông nước, một hộp sữa. Quản lý đưa bi-đông nước và hộp sữa cho ban chỉ huy bồi dưỡng để lấy sức chỉ huy chiến đấu. Ban chỉ huy chuyển ra trận địa cho pháo thủ, pháo thủ chuyển về bệnh xá cho thương binh. Thương binh lại nhường cho ban chỉ huy.

Địch biết điều đó. Một mặt chúng cho dội thật nhiều bom, phá nốt những gì còn lại trên đảo. Mặt khác dùng tàu chiến bao vây thật chặt, bịt, kín mọi lối vào ra giữa đảo và đất liền. Xảo quyệt hơn nữa, chúng thả lên đảo năm mươi đồng bào đánh cá bị chúng bắt, làm cho nguồn lương thực, nước uống trên đảo cạn nhanh hơn. Chúng hy vọng chỉ một thời gian ngắn, đội quân nhỏ bé trên đảo nếu không đầu hàng cũng chết gục vì đói khát và cắn xé nhau.

Những bức điện cầu cứu từ đảo đánh về mỗi lúc một dồn dập, như đốt cháy gan ruột các đồng chí lãnh đạo khu vực. Đảng ủy họp hết ngày này sang ngày khác. Có khi ngồi im lặng không ai nói với ai một câu. Giữ đảo, hay rút số quân ít ỏi kia về, để mặc đảo cho kẻ thù? Quyết giữ, nhưng giữ bằng cách nào? Biển khơi bao la và hàng rào tàu chiến, máy bay của địch? Chính là lúc này, lập trường, ý chí và sự sáng suốt của tổ chức đảng, của từng đồng chí được thử thách.

Đầu tháng Sáu năm 1965, đảng ủy Vĩnh Linh phát lời kêu gọi: "Tất cả vì đảo". Hàng nghìn lá đơn từ các xã ven biển như Vĩnh Quang, Vĩnh Giang, Vĩnh Thạch, Vĩnh Thái... đã gửi lên khu vực xin được đi tiếp tế cho Cồn Cỏ. Giữa tháng Sáu, một đêm không trăng sao, đoàn thuyền 10 chiếc đầu tiên chở vũ khí lương thực cho đảo rời bến Vĩnh Mốc. Cả chuyến đi lẫn chuyến về đều trót lọt. Con đường đã mở nhưng... đó là con đường máu.

⚝ ⚝ ⚝

Anh Vũ Nguyên Trình hồi năm 1965 là phó tư lệnh của Bộ chỉ huy quân sự khu vực Vĩnh Linh, chuyên trách việc tiếp tế cho Đảo Cồn Cỏ kể lại:

– Dạo ấy vào quãng tháng 11 - anh Trình nói, đúng tám giờ tối chúng tôi tiễn một đoàn thuyền năm chiếc ra đảo. Anh em đi, chúng tôi ngồi dán mắt vào màn hiện sóng của máy Ra-đa. Cách đất liền 15 cây số, tôi đếm vẫn đủ năm chiếc, không thấy tàu địch xuất hiện, đầu óc đã đỡ căng được đôi chút. Đột nhiên hai chiếc tàu biệt kích của địch từ phía bên kia đảo chồm tới. Thế là mất hút đoàn thuyền. Gọi không thấy thưa, hỏi đảo, đảo trả lời không biết. Gọi mãi cho đến sáng vẫn không nghe tiếng đáp lại. Tôi chạy về báo cáo với anh Đưởm, anh ấy gục đầu xuống bàn một lúc rồi ngẩng lên hai mắt đỏ hoe bảo tôi: “Cậu đem theo hai đồng chí thông tin, đi dọc bờ biển từ Cửa Tùng đến Lệ Thủy, vừa đi vừa gọi máy rà anh em họ đi lạc đâu đó”. Chúng tôi đi. Trời rét, gió đông bắc thổi hun hút, ba anh em men theo bờ cát đi mãi, cứ vài ba phút lại gọi: "Hồng Hà gọi Sông Lô, Hồng Hà gọi Sông Lô". Chỉ có tiếng sóng gió và tạp âm lạo xạo đáp lại. Đói quá chúng tôi bàn nhau vào một gia đình dân chài ở Vĩnh Thái kiếm chút gì ăn. Ông cụ chủ nhà nhét cho mỗi người đầy hai túi khoai lang phơi khô, chúng tôi vừa đi, vừa nhai. Hai đồng chí thông tin thay nhau gọi, gọi đến khản cả giọng nhưng "Sông Lô" vẫn biệt tăm. Buổi chiều trở về đến Vĩnh Thạch, chúng tôi gặp hai ông lão bà ba người đàn bà đang đứng trên bãi cát nhìn những mảnh thuyền vỡ nát từ ngoài khơi dạt vào...

HỒNG HÀ GỌI SÔNG LÔ

Tháng Tư năm 1967, tôi có dịp về Vĩnh Kim làm việc với các đồng chí ở đội thuyền tiếp tế đảo. Một đêm đầu mùa hạ, tiết trời dịu mát. Tôi, đồng chí Phủ, đội trưởng, đồng chí Diệp, chính trị viên và đồng chí Nhĩ, tham mưu phó của bộ chỉ huy quân sự chuyên trách tiếp tế đảo, đứng trên một doi đất. Trước mặt chúng tôi là biển, nghe tiếng sóng vỗ rì rào lên bờ cát. Mặt biển tối thẫm, chốc chốc vụt lóe những quầng lửa sáng rực - những khẩu pháo 203 mm của hải quân Mỹ đang bắn về phía Vĩnh Giang. Đồng chí Nhĩ quay ra phía sau, ngồi thụp xuống, bấm đèn pin soi đồng hồ.

– Mười lăm phút nữa, anh bảo tôi.

Mười lăm phút nữa đoàn thuyền sẽ rời đất liền ra đảo. Trong khoảng tối trước mặt chúng tôi có một chấm đỏ của điếu thuốc lá sâu kèn đang cháy, thỉnh thoảng rực hồng lên soi rõ một đôi mắt sâu, hai gò má nhô lên, nhăn nheo, bộ râu bạc lưa thưa, phơ phất trong gió biển thổi lồng lộng. Anh Nhĩ nói:

– Cụ Phác cố vấn của chúng tôi anh ạ.

Buổi chiều tôi đã gặp ông cụ trên bến. Không hiểu sao cụ lại mặc áo dài đen, bịt khăn, trông như một ông lão đi “việc làng” từ hai mươi năm về trước. Nhĩ lật mũ ra phía sau, bàn tay đưa lên vành tai nghe tiếng động lạ rồi nói tiếp:

– Trước kia là cụ Quy nhưng nay cụ hy sinh rồi.

– Hy sinh ở đâu? - Tôi hỏi.

– Ngoài biển, đụng tàu địch.

Đồng chí Phủ nói:

– Trước kia trong đội đông các cụ lắm anh ạ. Vĩnh Thái có cụ Trí, Vĩnh Giang có cụ Cử, cụ Quy, Vĩnh Thạch có cụ Mò. Cụ nào cũng đi biển hàng nửa thế kỷ rồi, tay lái rất vững, chỉ nhìn mây trên trời và sóng biển các cụ biết đi dễ hay khó. Chúng tôi giao các cụ làm “cố vấn khí tượng” và thuyền trưởng. Có các cụ anh em trẻ vững tay lắm.

Đồng chí Diệp nói:

– Các cụ hăng lắm anh ạ. Như cụ Mò ở Vĩnh Thạch, cả nhà ba cha con cùng đi đảo.

– Hiện nay? - Tôi hỏi

– Không - Diệp nói, dạo sáu lăm, sáu sáu kia. Tháng Chín năm sáu lăm hai người con của cụ là anh Tỉ và anh Triêm cùng đi một chuyến. Gặp tàu địch, anh Tỉ hy sinh. Thuyền anh Trêm bị bắn, chìm nhưng anh bơi vào bờ được. Cụ Mò rất đau khổ nhưng không nhỏ một giọt nước mắt, không khóc một tiếng. Hôm sau cụ nhờ đứa cháu viết hộ lá đơn gửi lên ủy ban xã xin đi tiếp tế đảo thay con.

Tiếng máy bay phản lực vút qua, một chùm đèn dù lơ lửng phía Cửa Tùng. Ngay khi bóng tối vừa bị đẩy đi, tôi thấy hiện ra trên khoang lái của con thuyền trước mặt một dáng người rất đẹp. Trạc, Nguyễn Trạc, một cán bộ chỉ huy của đảo. Anh đứng cao, cao hơn tất cả mọi người. Mặc một chiếc quần đùi ướt sũng, nửa người phía trên của anh phơi ra trong ánh sáng đèn dù. Đôi vai rộng, hai múi ngực căng phồng, đen bóng, hai cánh tay gân guốc. Anh khoác một khẩu B 40. Đầu nhọn của quả đạn nhô lên sau vai như một cái bắp chuối. Trước mặt anh, người chiến sĩ thông tin ngồi lút vào giữa hai bao hàng. Chiếc cần ăng- ten có hình ngôi sao nhô lên.

Đúng tám giờ, đồng chí trắc thủ ra-đa báo cáo tàu địch đã quay về, đồng chí Phủ ra lệnh cho đoàn thuyền rời bến. Chiếc thuyền của Trạc đi cuối cùng. Anh huơ tay vẫy chào chúng tôi. Con thuyền đi xa, nhỏ dần, mờ dần... Đèn dù tắt mặt biển lại chìm nghỉm vào đêm tối. Tôi và Nhĩ vẫn ngồi trên doi đất nhìn ra phía trước. Sau lưng chúng tôi, trong căn hầm mờ đục ánh đèn, đồng chí trắc thủ ra-đa vẫn dán mắt vào màn hiện sóng, đồng chí chiến sĩ thông tin, ngồi trước máy vô tuyến điện, ống nghe vẫn úp bên tai. Họ đang dõi theo đoàn thuyền đi mỗi lúc một xa bờ.

– Liệu thế nào? - Tôi hỏi Nhĩ.

Anh lắc đầu, giọng rời rạc, vẻ lo lắng:

– Không biết được, sóng êm, gió thuận, nhưng...

Nhĩ ngừng lại. Tôi biết anh không muốn nhắc đến điều rủi ro đang chờ đợi, rình rập đoàn thuyền. Những làn sóng ra-đa của địch ở Cửa Việt, ở các tàu chiến chắc đang quét ngang, quét dọc, sục sạo mặt biển. Và một chiếc máy bay có thể bất thần nhào đến hay một chiếc tàu biệt kích nằm im trong bóng tối...

Hàng nghìn tấn vũ khí, kể cả pháo 75, cao xạ 37, lương thực, vật dụng... đã được những chiếc thuyền gỗ chạy buồm, chèo tay đơn sơ chở từ đất liền ra, đủ cho các chiến sĩ ngoài đảo sống không đến nỗi thiếu thốn và chiến đấu liên tục hàng hai ba năm. Nhưng cái giá của mỗi viên đạn, mỗi hạt gạo đều phải tính bằng máu. Hàng trăm gia đình ở các xã ven biển có người hy sinh hoặc bị địch bắt đem đi mất tích. Có một số đội sản xuất, gần như tất cả mọi người trong đội quấn khăn tang. Tôi biết đêm nay, cũng như chúng tôi, ngồi trên doi đất này, có những ông bố, bà mẹ, những người vợ, những đứa con cũng không ngủ. Lúc chập tối, họ đã bốc hàng từ địa đạo lên thuyền cho người thân chở ra đảo. Bây giờ họ ngồi trong hầm, hướng ra biển, lắng nghe, chờ đợi với tất cả nỗi lo lắng, hồi hộp...

⚝ ⚝ ⚝

– Có tàu! Tiếng anh chiến sĩ ra-đa hét lên.

Tôi nhìn nhanh ra biển. Một vùng bóng đêm phía trên chợt loãng ra, giần giật, có những vạch đỏ đan chéo nhau, phóng vun vút y như ai cầm một bó nhang đang cháy huơ lên. Tim tôi đau thắt lại. Trong nháy mắt, cái sở chỉ huy nhỏ bé của đội thuyền nhốn nháo, tất bật hẳn lên. “Hồng Hà gọi Sông Lô... Hồng Hà gọi Sông Lô” - Anh chiến sĩ thông tin vô tuyến điện hét đến lạc cả giọng. Nhưng chiếc máy điện thoại bị quay mạnh cứ rít lên... "A-lô Vĩnh Thái... Vĩnh Thái đâu..". "A-lô Vĩnh Quang... Vĩnh Quang nghe đây... “Oành oành... oành...”. Pháo ta ở trận địa Cổ Thạch bắt đầu bắn một viên đạn vạch đường đỏ lừ lao vút qua bóng tối dày đặc... Những quầng lửa chói lên trong vùng sáng mờ đục phía trước. Tiếng ốc nổi lên rền rĩ chạy dài theo bờ biển. Dân quân các xã đang nổi hiệu báo động sửa soạn lao thuyền ra ứng cứu. Tuy thô sơ nhưng trình độ tổ chức hợp đồng như vậy kể cũng đã chặt chẽ và có hiệu quả.

"Hồng Hà gọi Sông Lô"... "Hồng Hà gọi Sông Lô"...- Anh chiến sĩ vô tuyến điện bỗng ngước lên, hướng về phía đồng chí Nhĩ:

– Báo cáo tàu địch chạy, đoàn thuyền đang quay về.

Nhĩ ngồi phịch xuồng, đưa tay áo quệt mồ hôi chảy ròng ròng trên trán.

⚝ ⚝ ⚝

Mười giờ rưỡi, chiếc thuyền đầu tiên về đến bến.

Đồng chí Diệp hỏi:

– Có việc gì không?

– Không. Giônxơn vồ hụt rồi.

– Không ai làm sao chứ?

– Báo cáo an toàn ạ.

– Phân tán ra, phân tán ra, nhanh lên các đồng chí.

Tôi nghe tiếng người nào đó hô trong bóng tối. Trạc bước vào hầm, đầu quấn băng, một vệt máu thấm ra đỏ lòm, tròn hoay như đồng xu ở thái dương bên trái.

– Hai thằng tàu biệt kích - Trạc nói. Nó nằm im không nổ máy, phát hiện ra nó thì đã quá gần. Nó bắn như mưa.

– Mình cũng bắn chứ? - Anh Nhĩ hỏi.

– Bắn.

– Kết quả thế nào?

– Không biết, thuyền cứ dập dà dập dình, tôi quất một phát, thấy đánh nhoáng một cái. Lúc ấy pháo trong bờ bắn ra, tàu nó chạy, tôi cũng hô anh em chạy luôn.

– Có làm sao không? tôi chỉ vết thương trên đầu Trạc, hỏi.

Anh cười:

– Dạ... Không việc gì, hình như một mảnh phóng lựu, nhỏ thôi, chỉ bằng hạt thóc.

Một chiến sĩ bưng cho Trạc bát nước, anh uống một hơi rồi ngẩng lên hỏi đồng chí Nhĩ:

– Mấy giờ rồi anh?

– Mười một giờ mười lăm.

– Lại đi à? - Tôi hỏi.

– Vâng - Trạc cười hóm hỉnh, thằng Mỹ nó tưởng mình quay lại không dám đi nữa, nó về nhảy đầm, mình lại ra. Thế mới thắng được nó thủ trưởng ạ.

Anh quay sang Nhĩ:

– Đề nghị anh báo cho đảo, bên pháo binh và các xã.

– Đồng ý.

Tôi định theo Trạc ra bến tiễn anh em nhưng anh ngăn lại:

– Các thủ trưởng ở đây cho, cứ coi như không có việc gì xảy ra hết. Đừng bịn rịn, ảnh hưởng đến tinh thần anh em... Mà... các thủ trưởng cũng ngủ đi một lát, đừng lo, nhất định chúng tôi sẽ đến đảo an toàn.

Đoàn thuyền lại rời bến. Chúng tôi vẫn ngồi trên doi đất, mắt không rời khoảng biển trước mặt. Phía Cửa Việt có những chiếc máy bay lên thẳng của địch bay từ hạm đội vào rồi lại từ đất liền bay ra, đèn đỏ chớp chớp trong bóng đêm dày đặc.

Nhĩ bắt đầu kể chuyện, hình như anh muốn chúng tôi bớt căng thẳng. Tôi nhớ nhất là chuyện bắt khỉ. Giọng Quảng Trị lúc trầm, lúc bổng, anh vừa kể vừa làm điệu bộ trong bóng tối.

– Về mùa này đây - Nhĩ nói, tối đến khỉ hay mò ra rẫy bẻ trộm bắp. Tụi này mới mua pháo dây về xe lại thành một sợi dài. Nối hai sợi pháo dây vào một chiếc pháo đùng, hai người rình hai đầu dây. Khi khỉ đến thì châm lửa cho pháo dây cháy. Thấy lửa cháy loe lóe trong đêm tối, khỉ ta thích lắm, cả mấy chục con bâu lại, nhảy nhót xung quanh. Pháo dây cứ ngắn dần, ngắn dần, đàn khỉ cũng cụm lại. Lửa cháy đến pháo đùng, đột nhiên một tiếng nổ vang lên. Cả đàn khỉ quay lơ ra nằm chết giấc. Tụi này đã đóng sẵn một chiếc cũi, cứ việc xồ ra nhặt bỏ vào. Mấy phút sau chúng nó tỉnh lại hết.

Ba giờ sáng. Anh chiến sĩ ra-đa tắt máy, bước ra khỏi hầm:

– Mời các anh đi nghỉ, đoàn thuyền đến đảo rồi.

Tôi nằm ngửa ra bãi cỏ, ngước nhìn lên bầu trời. Bây giờ tôi mới biết trời đầy sao, rất đẹp.

CẢ NHÀ RA ĐẢO

Cụ Trí cười, nụ cười thanh thản, hồn nhiên như đứa trẻ.

– Đèn treo [21*] hắn thả... chà chà... cái kim trong bọc cũng chộ chú ạ. Ông chỉ huy bảo tui: “Bọ cứ bình tĩnh”. Tui trả lời: "Mấy chú lo bắn đi, tay lái xin mặc tui".

Tôi ngắm ông lão, không cần giới thiệu cũng biết là một con người của biển. Hình như nắng gió, chất muối mặn mà cái lớn lao của biển cả đã kết đọng trong con người ấy. Nắng lấp lánh trên bờ ngực đỏ au, đôi vai rộng, lực lưỡng như một cái vòm cửa; hai cánh tay cộm lên từng múi thịt và các đường gân to như sợi dây chão neo thuyền. Ngay cả dáng đi dập dềnh và giọng nói to, khàn khàn của ông lão cũng toát lên một cái gì rất biển. Anh Ngự, bí thư đảng ủy xã Vĩnh Thái bảo tôi:

– Bọ là đoàn viên thanh niên đó.

Cụ Trí lại cười, tiếng cười sang sảng, nghe rất khỏe khoắn. Ông lão vào hầm một lúc rồi trở ra đưa cho tôi xem chiếc huy hiệu đoàn - quà kỷ niệm của Đoàn Thanh niên lao động Cồn Cỏ tặng.

Cụ Trí góa vợ từ năm mới ngoài ba mươi tuổi. Ba bố con tần tảo nuôi nhau. Năm 1965, cả ba người cùng viết đơn xin đi tiếp tế Cồn Cỏ. Thương con gái, ông cụ gàn:

– Mi ở nhà, không ai cho con gái ra khơi mô.

– Răng không cho, ở Vĩnh Giang có o Huyên đi rồi, con kém chi o Huyên - cô gái nói.

Ba bố con nạp đơn cùng ngày nhưng không hiểu vì “cảm tình riêng” hay cần một tay thông tỏ lộng khơi, lèo lái giỏi mà cụ Trí được chọn đầu tiên. Ông lão đi thông ba chuyến, hai chuyến gặp địch nhưng vẫn trót lọt. Ra đến đảo trong lúc mọi người nghỉ ngơi thì cụ Trí suốt ngày làm việc, lúc đào hầm với công binh, lúc hái rau kiếm củi, bắt cua đá với anh nuôi. Anh em ở đảo rất quý ông lão, họ quây lấy, bắt ông lão kể chuyện, tranh nhau nhận làm con rể. Đoàn Thanh niên của Đảo còn kết nạp ông lão làm “đoàn viên danh dự”.

Cuối tháng Bảy năm 1965, cụ Trí về. Hai hôm sau đến lượt Trái, người con trai lên đường. ông lão tiễn chân con ra đầu động cát và dặn:

– Con đi bữa ni nhiều khó khăn đó, bọ chỉ nhắc con một chuyện: nếu có chết cũng phải chết cho vẻ vang.

Anh con trai vốn hiền lành, ít nói, giống tính mẹ nhiều hơn, chỉ ngẩng lên nhìn bố rồi lặng lẽ quay đi.

Trái đi chuyến thứ nhất trót lọt. Đến chuyến thứ hai, lúc quay về thì gặp địch. Một đêm mùa thu rất đẹp, trời trong, rất nhiều sao, biển lặng. Được gió đông nam, thuyền căng buồm lướt phăng phăng, chẳng mấy chốc đã về được quá nửa đường. Trái ngồi trước mũi thuyền, yên lặng, để mặc gió mặn của biển khơi kỳ tấm lưng trần cháy nắng. Chợt anh đưa bàn tay khum khum lên che vành tai: lẫn trong tiếng gió và tiếng sóng vỗ dào dạt, anh vừa nhận ra một thứ tiếng lạ. Người thuyền trưởng chỉ vừa kịp ra lệnh mắc thêm chèo thì đèn dù đã vọt lên. Trời biển vụt lóa đi trong khoảnh khắc rồi đột nhiên bừng lên, sáng trắng ra, soi rõ từng con cá chuồn như mũi tên lao nhanh giữa hai đợt sóng. Tàu chiến địch mỗi lúc một gần thêm. Con thuyền gan góc của Trái và đồng đội có thêm tay chèo dũng cảm vẫn thẳng hướng đất liền lao nhanh. Nhưng không kịp nữa rồi. Tàu địch bắt đầu bắn. Từ trong các ụ súng đen trùi trũi trên boong tàu, đạn đại liên, đạn đại bác cỡ nhỏ của địch phóng xối xả về phía thuyền. Một thủy thủ đang chèo, ngã xấp xuống, nằm yên.

Trên mặt và cánh tay thuyền trưởng Hạnh máu đầm đìa nhưng anh vẫn đứng thẳng, giữ chặt mái chèo. Một viên đạn trúng lòng thuyền, nước vọt lên. Trái vớ chiếc áo dưới chân nhét lại. Nhưng vừa bịt được dòng nước, đột nhiên anh thấy thuyền rùng mình, nước tràn vào như thác. Trong ổ súng còn lại viên đạn cuối cùng, Trái bình tĩnh nhắm ụ súng trên tàu địch, bóp cò. Anh khoác súng vào vai, ôm phao nhẩy xuống biển...

⚝ ⚝ ⚝

Tàu địch lùi xa dần, đèn dù tắt, biển lại chìm trong đêm mù mịt. Trái vẫn bơi, ngực vươn lên, tay nhịp nhàng rẽ sóng. Chợt anh nhận ra phía bên tay phải, người nào đó đang bơi một cách nặng nề, khó nhọc.

– Ai đó? - Trái hỏi.

– Sung...đây.

Tiếng trả lời hổn hển. Trái nhớ lúc còn chiến đấu, anh thoáng thấy mặt Sung đẫm máu. Đúng là Sung bị thương rồi. Trái bơi lại gần Sung:

– Cậu níu lấy mình, hai đứa ta bơi vào.

Thêm Sung, Trái bị dìm xuống, tay chân co ruỗi không còn thoải mái như trước. Biển trước mặt bao la. Nhìn sóng, Trái biết ít ra cũng chục cây số nữa mới đến bờ. Một lúc sau anh nghe tiếng Sung nói:

– Trái ạ, đằng nào mình cũng chết, cậu bỏ mình ra, cậu phải sống...

– Đừng nói bậy bậy.

Trái ngắt lời Sung và kéo bạn vào sát mình, tiếp tục bơi. Được một lúc Sung lại khẩn khoản:

– Buông mình ra, Trái ạ...chết cả hai đứa...uổng quá.

Trái muốn nói một câu để bạn yên tâm nhưng anh nghĩ mãi không ra. Anh siết chặt Sung vào mình thêm chút nữa. Trái nhớ lời bố dặn: “Có chết phải chết vẻ vang”. Anh nhổm đầu lên nhìn biển, biển vẫn còn rộng lắm, không biết đâu là bờ là bến. Chung quanh sóng vỗ ì ào. Anh cất tiếng hát, bài hát duy nhất mà anh thuộc. Giọng anh không hay nhưng cũng như bố anh, rất to khỏe. Mười mấy con người gần kiệt sức đang ngoi ngóp giữa biển đêm vụt thấy mình khoẻ thêm khi nghe Trái hát bài Giải phóng miền Nam.

Tiếng hát đầm đìa nước mặn, lúc vút lên cao, lúc chìm trong tiếng sóng như cánh buồm nâng họ lên, đẩy họ về phía trước.

Họ cố sức bơi, bơi trong tiếng sóng và tiếng hát, cho đến lúc đoàn thuyền từ đất liền ra đón nổi ốc làm hiệu gọi...

⚝ ⚝ ⚝

Tôi không gặp Trái, cũng không gặp cả cô Lý, con gái cụ Trí. Cách đây một tuần lễ, ông lão vừa tiễn cả hai người ra đảo.

Cụ nói với tôi:

– Con nớ hắn gan lắm chú ạ, nhưng mà... tui thương hắn lắm. Răng thì hắn cũng là con gái...

THUYỀN GỖ THẮNG TÀU SẮT

Một đêm tháng Mười trăng lặn, biển tối mò, chiếc thuyền gỗ hai tấn của tổ Lê Văn Ban như con ngựa quen đường vẫn cưỡi sóng, rạch đêm tối phóng băng băng, nhằm hướng đất liền lướt tới. Vào lúc nửa đêm, thuyền đi được một phần ba đường. Ban bỗng nhận ra một thứ tiếng lạ, đùng đục càng lâu càng to gần, khác hẳn với tiếng sóng và tiếng gió. Anh ra lệnh cho cả tổ:

– Có tàu địch, chuẩn bị chiến đấu.

Anh em trai bạn, theo lệnh thuyền trưởng, nạp đạn vào ổ súng, buộc lựu đạn thành chùm hai quả một, ai vào vị trí nấy. Địch cũng đã phát hiện thuyền ta. Chúng nổ máy cho tàu tăng tốc độ và bắn đèn dù. Khi biển sáng lên, nhìn về phía trái Ban thấy hai chiếc tàu biệt kích đen trùi trũi đang thả hết sức nhanh chồm tới. Khoảng cách giữa ta và địch mỗi lúc một ngắn thêm, đã có thể trông rõ cái lỗ đen ngòm của nòng khẩu đại liên trên tàu đang chĩa về phía trước. Ban đi đảo đã nhiều, đụng tàu địch vài ba bận, nhưng chưa lần nào tình thế lại hiểm nghèo như lần này. Tàu địch vượt lên, xem ra chúng định vây chặt để bắt gọn cả đoàn thuyền. Ban liếc nhìn chùm lựu đạn để bên cạnh nói với anh em:

– Bình tĩnh nghe, tôi hô chi mần nấy, đừng lộn xộn.

Anh kéo mạnh cần lái, lợi dụng lúc một chiếc tàu địch đang chạy quá trớn cho thuyền quay ngoặt sang trái. Tàu địch vượt lên trước chặn đường. Ban lại cho thuyền quay sang phải. Đèn dù tắt, nhân lúc trời tối, Ban kéo căng dây lên, đón gió thúc thuyền chạy thật mau.

Tàu địch nổ máy phóng nhanh hơn, bắn liên tiếp hơn chục ngọn đèn dù. Cả vùng biển sáng lên như ban ngày. Thấy địch lùi tàu lại, Ban đoán chúng sắp bắn, anh cho thuyền quay mũi về phía bắc, không để phơi sườn ra trước mũi súng địch. Thuyền vừa quay dọc, đạn bay tới xối xả. Đạn đại liên, trọng liên bay chiu chíu quanh người, lao xuống nước xèo xèo như tôi sắt. Con thuyền cứ đi và cái tập thể nhỏ bé này vẫn gan góc lạ thường. Tý bám chặt ghềnh [22*] , lúc vào lúc ra nhịp nhàng theo lượn sóng. Lô giữ chặt dây buồm, co, nới theo lệnh thuyền trưởng. Liệu, Trần, Phàn ghếch súng lên mạn thuyền, bình tĩnh chọi lửa với tàu chiến địch. Ban đứng thẳng người trong khoang lái, căng mắt quan sát tàu địch, miệng hô, tay lái. Thuyền lúc vọt lên, lúc dừng lại, lúc ngoặt trái, ngoặt phải, trườn qua sóng, luồn trong lửa đạn mà đi tới. Địch cho tàu vượt lên, hai chiếc đi hai bên định ép chặt chiếc thuyền: Sóng tàu từ hai phía dồn lại, làm chiếc thuyền con có lúc như bị nhấc bổng lên cao, lúc bị dìm chúi xuống. Ban để ý, thấy từ ngày ta trang bị các loại vũ khí như B41, ĐKZ cho đoàn thuyền, tàu địch chạy xa hơn, không dám xấn xổ áp vào quăng dây móc thuyền như trước nữa. Anh nói với cả tổ:

– Tàu Mỹ có vẻ sợ thuyền mình rồi đó nghe, cố gắng lên!

Ban cho thuyền chạy thẳng một đoạn rồi lừa lúc chúng sơ hở lại rẽ ngoặt tay trái, vọt ra ngoài vòng vây. Tàu giặc không còn cách nào khác là trút đạn vào con thuyền. Lần này không chỉ súng máy mà còn cả pháo cỡ nhỏ và phóng lựu Đạn pháo, đạn cối nổ ùng ục quanh thuyền, dựng lên từng cột nước trắng xóa. Một viên đạn bắn thẳng trúng lòng thuyền, nước ùa vào. Lô chồm lên, giẫm chân lên chỗ thủng và cởi áo nút chặt lại. Thuyền vẫn đi.

⚝ ⚝ ⚝

Đột nhiên Ban thấy tay lái của mình nhẹ bỗng đi, thuyền như bị tụt vào một cái hố, hai lá buồm xẹp xuống ỉu xìu.

Nhìn ra phía trước mặt biển phẳng lặng như mặt hồ. Thuyền đã chạy chậm dần. Tàu địch vẫn bắn rát. Đã là người đi biển, không ai không hãi hùng khi đụng đầu cái thứ bình yên giả dối này. Chỉ mấy phút nữa thôi, gió cả, sóng cồn sẽ kéo tới.

Mười con mắt cùng nhìn về phía thuyền trưởng, chỉ đợi... Ban cũng thấy bối rối. Anh chưa đủ sức để đối phó với một tình huống quá phức tạp thế này. Lên mười tuổi Ban đã đi nghề, mười lăm tuổi ra khơi, nhưng chưa bao giờ các cụ để anh sờ vào tay lái. Ra đi làm nhiệm vụ tiếp tế cho đảo, anh làm mọi việc, không nề hà khó nhọc, nguy hiểm, nhưng hôm được cấp trên cử làm thuyền trưởng Ban đã từ chối. Anh sợ tay lái của mình non, gây khó khăn cho đồng đội. Bây giờ khó khăn xảy ra còn quá sức tưởng tượng của anh... Không thể trù trừ thêm một giây, Ban hét to:

– Tý, Lô, Phàn quai chèo, Liệu, Trần tiếp tục bắn...

Thuyền lại đi. Tàu địch chưa đến gần nhưng trước mắt cơn bão như một bức tường trắng đang kéo tới.

Trời nổi gió, mưa trút ào ào, biển dậy sóng, đèn dù tắt. Con thuyền và Ban như chiếc lá bị nâng lên, dập xuống trong khoảng đêm sâu thẳm, đen kịt, không biết đâu là lộng, là khơi, là nam, là bắc. Đạn từ phía tàu địch vẫn tuôn sóng xé toạc đêm tối. Theo các cụ dạy, ra biển gặp bão là phải hạ buồm, không hạ sẽ chết. Nhưng bây giờ địch đang đuổi sát phía sau, hạ buồm là dừng lại, là bó tay chịu chết. Không thể hạ buồm được! Ban mím môi, bậm chân xuống lòng thuyền, dồn hết sức lực và trí tuệ vào đôi tay, phối hợp nhịp nhàng giữa lèo và lái để tránh đạn địch, đưa thuyền đi, cũng không để buồm căng quá làm lật thuyền.

Tàu địch bắn loạc choạc một lúc nữa rồi bỏ đi. Thoát địch, nhưng mưa mỗi lúc một to, bão càng thêm dữ. Nước mưa, nước biển tràn vào thuyền, tát không kịp. Ban vẫn cho thuyền đi. Đến một lúc biết chắc tàu địch không bám đuổi nữa anh mới ra lệnh hạ buồm. Ban bảo Tý bỏ neo, nhưng dây neo mười bốn sải ném xuống không đến đâu cả. Ban lấy một quả cân 50 kg buộc vào một sợi dây cước thả xuống. Lúc đầu họ tưởng đâu vài chục mét là cùng, nhưng quả cân cứ xuống, xuống mãi, sợi dây cước dài 100 mét mà chỉ còn lại trên mặt nước có vài mét. Anh em nhìn nhau. Không ai nói gì nhưng họ đều hiểu: thuyền đã đi ra khơi quá xa. Liệu hỏi:

– Thế đây là biển nam bay biển bắc?

Không ai trả lời được. Họ chẳng có cách nào để xác định tọa độ. Trời biển xung quanh tối mịt mùng, sóng gào thét như điên dại.

Trời sáng. Mưa ngớt nhưng sóng gió không dịu đi được chút nào. Thuyền vẫn dập dềnh giữa biển khơi bao la. Lô không còn áo rét, run cầm cập nhưng vẫn đùa:

– Miềng tưởng chừ cá ăn rồi, rứa mà lại thoát. Eng Ban bữa nay mần thuyền trưởng được.

Tý vừa cởi áo vắt nước mưa vừa nói:

– Thằng Mỹ hèn thiệt, miềng mà có tàu bọc thép như hắn, một viên đạn mình cũng không bắn, cứ xáp vô, a-lô, bắt sống.

Ban mệt quá, không buồn bắt chuyện. Mặt anh rát như phải bỏng vì đêm qua vuốt nước mưa nhiều quá, sầy hết cả da. Anh nghĩ tới các đồng chí trên các thuyền bạn. Năm thuyền, giờ chỉ còn một, ai sống, ai chết? Trần lôi dưới sạp thuyền lên một mo cơm đã rã nát vì ngập nước, hỏi mọi người:

– Răng, ta không có ăn?

Tuy rất đói, không ai nói gì, chỉ nhìn thuyền trưởng. Ban nói:

– Đúng ra thì cơm này là không nên ăn. Nhưng chừ ta phải ăn, để để mà lấy sức trở về và nếu gặp địch còn chiến đấu.

Nắm cơm chia sáu phần, mỗi người chỉ được một vốc bàn tay. Dẫu sao cũng thấy khỏe lên đôi chút.

Ban nhìn biển, biển vẫn nổi sóng. Trời xung quanh trắng đục như tròng mắt con lợn đã luộc chín, không biết bờ bến ở đâu. Ban nhớ dạo trước cụ Quy có dạy anh: khi trời bão, biển có hai thứ sóng, sóng to đi theo gió, sóng nhỏ đi vào bờ. Bây giờ nhìn kỹ, quả có hai thứ sóng ấy thật. Ban ra lệnh kéo chiếc buồm con năm chục mét vải rồi luồn gió lựa sóng, cho thuyền đi về phía đất liền.

Khoảng giữa trưa, bão dịu xuống, trời đỡ đục. Nhìn về phía tay phải họ trông thấy chỏm nhọn của một hòn đảo như chiếc sống mũi của người khổng lồ nằm ngủ nhô lên chân trời. Đến bây giờ Ban mới biết mình đang ở đâu.

⚝ ⚝ ⚝

Ban bảo hạ buồm. Chờ mọi người vào hết trong khoang, anh nói:

– Các đồng chí ạ, thuyền ta trôi tuốt vào nam rồi, có khi trong nớ là Đà Nẵng cũng nên. Chừ ta coi nên liệu cách răng?

Tý nói:

– Trở lên miền bắc thôi.

Lô nói:

– Theo tôi, ta neo thuyền lại, chờ nồm trở ra bắc.

Ban nói ý kiến mình:

– Theo ý tôi cả hai đồng chí đều nói đúng. Nhưng trong hoàn cảnh ni không thể lên được. Trời đang nổi gió đông bắc, mần răng mà đi lên. Neo lại thì dây neo ngắn quá. Cứ để thuyền trôi thì không khéo vô thấu Nha Trang, Ô-Cấp cũng nên. Cho nên tôi có ý kiến ri, các đồng chí ngó được thì mần, không thì thôi. Ta vô bờ nam.

Bốn cặp mắt nhìn xoáy vào Ban bằng những tia sáng sắc lạnh làm anh ngơ ngác run sợ. Ban đã hiểu. Anh cảm thấy đau khổ, các đồng chí ngờ anh, họ tưởng rằng anh muốn vào đất liền để đầu hàng giặc.

Cố nén bực bội, Ban nói:

– Miền nam bây chừ không như trước. Ta cứ vô, gặp vùng giải phóng là hay nhất. Phải vùng tạm chiếm ta nhờ đồng bào giúp đỡ liên lạc với cách mạng. Lỡ gặp địch ta đánh. Đánh trong đất còn có đường tiến đường lui, còn có chỗ dựa là nhân dân. Lênh đênh trên biển thì khó khăn lắm.

Anh em bàn bạc một lúc nữa. Thấy ý kiến có vẻ giống nhau, Ban nói:

– Việc ni hệ trọng, ai đồng ý thì đưa tay lên, cố nhất trí trăm phần trăm ta mới làm, không thì thôi.

Cả năm người cùng giơ tay.

Thuyền giương buồm tiến về phía đất liền. Quá trưa, họ đã trông thấy bờ cát với những đường viền dương liễu màu xanh. Hình ảnh thân thuộc quá, đất nước dù nam hay bắc đều có những nét chung. Ban cho thuyền vào gần nữa. Trông thấy thuyền, lưới, xóm chài và lũ trẻ con đang nô đùa trên bãi cát. Ban bảo Tý hạ buồm nhưng không bỏ neo. Anh nói:

– Chừ các đồng chí ở đây, tôi lội vô thăm dò trước. Nếu tôi hy sinh...

Lô cắt ngay lời anh:

– Không được, eng Ban là thuyền trưởng phải ở lại chỉ huy anh em, để tôi vô.

Tý, Liệu, Trần, Phàn, anh nào cũng đòi để mình vô trước.

Ban nói:

– Thôi được, tôi chỉ định đồng chí Lô vô trước. Nếu gặp vùng giải phóng đồng chí đưa cả hai tay lên. Gặp địch, đồng chí đưa một tay. Nếu cần hy sinh, đồng chí hy sinh trước, chúng tôi chiến đấu...

Lô quay nhìn anh em một lượt rồi nhảy xuống nước. ánh vào đến bờ... Anh bước lên bãi cát, bước thong thả về phía hàng dương liễu, nơi có người đang vá lưới... Những giây phút chờ đợi dài ghê gớm. Đột nhiên họ thấy Lô từ hàng dương chạy vụt ra. Anh giơ cả hai tay lên trời rồi vừa nhảy cà tưng vừa reo: "Giải phóng rồ... ồi..." “Giải phóng rồi... ồi”.

– Vào bến! - Ban hạ lệnh, lưỡi anh líu lại vì quá xúc động.