← Quay lại trang sách

11: Vĩnh biệt tình yêu

Ngay sau khi đồng ý đi sang Naples tìm cô cháu gái mất tích, Ted Hollander lái xe tới nhà anh rể, người sẽ hỗ trợ cho chuyến đi, lên kế hoạch tìm kiếm cô ở khắp tất cả những nơi mà đám thanh niên nghiện ngập, vô công rỗi nghề thường lui tới - ví như nhà ga - để hỏi xem họ có biết con bé không. “Sasha. Người Mỹ. Capelli rossi” - tóc đỏ - hắn đã dự định nói vậy, thậm chí đã luyện tập phát âm cho tới khi hắn bật được chữ r trước từ rossi hoàn hảo. Nhưng đã một tuần tới Naples, hắn chưa nói từ đó lần nào.

Hôm nay, hắn bỏ qua ý định bắt đầu tìm kiếm Sasha để tới thăm phế tích Pompeii, ngắm tranh tường thời kỳ đầu La Mã và những bức tượng nhỏ nằm rải rác giống như trứng Phục sinh giữa các khoảng sân đầy cột kèo. Hắn ăn một lon cá ngừ dưới cây ô liu và lắng nghe sự yên lặng trống rỗng cuồn cuộn. Cuối chiều, hắn trở về phòng khách sạn, buông tấm thân đau nhức xuống chiếc giường rộng thênh thang, và gọi điện cho em gái hắn, Beth, mẹ của Sasha, để thông báo rằng một ngày nỗ lực nữa lại thất bại.

“Được rồi” - Beth thở dài từ Los Angeles, như bà vẫn làm vào mỗi cuối ngày. Sự thất vọng của bà rót vào tiếng thở dài ấy một điều gì đó giống như là hiểu biết; Ted cảm nhận điều đó như một người thứ ba trên điện thoại.

“Anh xin lỗi” - hắn nói. Một giọt thuốc độc rỏ vào tim hắn. Ngày mai hắn sẽ đi tìm Sasha. Nhưng ngay khi đưa ra lời thề này, hắn đang tái xác nhận một kế hoạch trái ngược là đi thăm bảo tàng Museo Nazionale, nơi có tượng Orpheus và Eurydice mà hắn đã ngưỡng mộ bao nhiêu năm: một công trình đá cẩm thạch thời La Mã phỏng theo nguyên bản của Hy Lạp. Hắn đã luôn muốn tới thăm chỗ đó.

May sao, Hammer, chồng sau của Beth, kẻ thường có hàng loạt câu hỏi dành cho Ted mà có thể tóm lại thành một câu rất đơn giản là, Tiền tôi bỏ ra có đáng giá hay không đây? (thế nên Ted luôn đầy cảm giác lo lắng của kẻ trốn việc), hoặc là không ở cạnh đó hoặc là quyết định không ra lời. Sau khi gác máy, Ted đi tới quầy bar nhỏ và rót một cốc vodka đầy đá. Hắn mang rượu và điện thoại ra ngoài ban công và ngồi xuống chiếc ghế nhựa màu trắng, nhìn xuống đường Via Partenope và Vịnh Naples. Bãi biển rất hẹp, nước trong đến đáng ngờ (dù xanh ngắt quyến rũ), và đám người Naples háo hức kia, hầu hết đều béo nục, đang cởi quần trên bãi đá và nhảy xuống vịnh giữa tầm nhìn của người đi dạo, khách sạn cho khách du lịch, và xe cộ. Hắn gọi cho vợ.

“Ồ, chào anh yêu!” - Susan giật mình khi nghe giọng hắn lúc sáng sớm vậy, thường thì hắn gọi trước khi ngủ, thời điểm gần với giờ ăn tối ở East Coast hơn. - “Mọi chuyện ổn chứ?”

“Mọi chuyện ổn.”

Ngay lập tức, giọng mau mắn rộn ràng của cô khiến hắn chán nản. Susan vẫn thường trong tâm trí Ted ở Naples, nhưng là một phiên bản hơi khác của Susan: một phụ nữ hiểu biết, sâu sắc, một người hắn có thể trò chuyện mà không dùng lời. Susan phiên bản hơi khác này đã cùng hắn lắng nghe sự yên tĩnh của Pompeii, tỉnh thức trước sự vọng về lưu cữu của những tiếng thét gào, của tro tàn lả tả. Làm thế nào mà bao nhiêu hưng phế như vậy có thể trở nên im bặt? Đây là kiểu câu hỏi đã trở lại tràn ngập trong tâm trí Ted trong một tuần cô độc, một tuần mà có cảm giác vừa như một tháng vừa như một phút.

“Em vừa có một khoanh đất trên khu Suskind” - Susan nói, rõ ràng hy vọng làm hắn vui lên với thông báo này từ lĩnh vực bất động sản.

Nhưng nỗi thất vọng Ted cảm thấy với vợ, mỗi chút hao hụt thêm, lại kèm theo sự day dứt có lỗi; nhiều năm trước, hắn đã xếp lại làm đôi khao khát từng có với Susan, để hắn không còn phải khổ sở, tuyệt vọng khi liếc nhìn cô nằm bên cạnh hắn trên giường: hai cánh tay gân guốc và cặp mông nhão nhoét xồ xề. Rồi hắn lại xếp nó lần nữa, để khi hắn cảm thấy ham muốn với Susan, hắn không còn phải rơi vào nỗi sợ hãi tê buốt rằng hắn sẽ không bao giờ được thỏa mãn nữa. Rồi xếp đôi lần nữa, để cảm giác ham muốn ấy không đòi hỏi phải hành động ngay. Rồi xếp đôi lần nữa, để hắn hiếm khi phải thấy cảm giác đó. Cuối cùng ham muốn của hắn nhỏ tới nỗi hắn có thể bỏ nó vào trong hộc bàn hoặc túi quần rồi quên bẵng luôn, và điều này mang lại cho hắn cảm giác an toàn và thành công, của việc hoàn tất tháo dỡ một công trình nguy hiểm có thể sụp đổ nghiền nát họ. Thoạt đầu Susan phản đối, rồi sôi sục tức giận; cô tát vào mặt hắn hai lần; cô điên cuồng chạy ra khỏi nhà và ngủ khách sạn một đêm; cô vật Ted ra sàn nhà tắm trong chiếc quần lót đen không viền. Nhưng cuối cùng một dạng đãng trí đã chế ngự Susan; sự tổn thương và nổi loạn của cô tan ra, chảy thành sự vui vẻ ngọt ngào bất tận, một điều đáng sợ - Ted nghĩ - chẳng khác gì sự sống mà không có cái chết để tạo trọng lượng và hình hài cho nó. Đầu tiên hắn đã nghĩ sự vui vẻ không mệt mỏi của cô là để châm chọc, một chương nữa trong cuộc nổi loạn của cô, nhưng rồi về sau hắn hiểu ra rằng Susan đã quên mất mọi chuyện giữa họ ra sao trước khi Ted bắt đầu xếp ham muốn lại; cô đã quên và đang hạnh phúc - trước đó chưa từng hạnh phúc - và dù tất cả chuyện này củng cố nỗi kinh sợ của hắn trước khả năng thích ứng dẻo dai của trí óc con người, nó cũng khiến hắn cảm thấy rằng vợ hắn đã bị tẩy não. Bởi chính hắn.

“Anh yêu” - Susan nói. - “Alfred muốn nói chuyện với anh.”

Ted cố trấn tĩnh trước cậu con trai thất thường, khó đoán. “Ôi chào con, Alf!”

“Bố, đừng dùng cái giọng đó.”

“Giọng gì cơ?”

“Cái giọng ‘Bố yêu’ dởm ấy.”

“Con muốn gì từ bố, Alfred? Chúng ta có thể nói chuyện với nhau không?”

“Bọn con thua.”

“Thế tỉ số thế nào, năm và tám?”

“Bốn và chín.”

“À. Vẫn còn thời gian.”

“Chẳng còn thời gian nào nữa” - Alfred nói. - “Hết thời gian rồi.”

“Mẹ con còn ở đấy không?” - Ted hỏi, hơi tuyệt vọng. - “Con chuyển máy lại cho mẹ được chứ?”

“Miles muốn nói chuyện với bố.”

Ted nói chuyện với hai đứa con trai khác của hắn ta, chúng đã có thêm nhiều kết quả trận đấu để báo cáo. Hắn cảm thấy mình giống một tay đầu nậu cá cược. Chúng chơi mọi môn thể thao có thể tưởng tượng ra và cả một số môn (với Ted) chẳng phải thể thao: bóng đá, hockey, bóng chày, bóng vợt, bóng rổ, bóng bầu dục, đấu kiếm, vật, tennis, trượt ván (không phải thể thao!), golf, bóng bàn, Video Voodoo (hoàn toàn không phải thể thao, và Ted không đồng ý cho chơi), leo vách đá, trượt patin, nhảy bungee (Miles, con cả, Ted cảm giác thằng bé thích thú việc hủy hoại bản thân), cờ tào cáo (không phải thể thao!), bóng chuyền, bóng Wiffle, bóng bầu dục, cricket (đây là đất nước nào vậy?), bóng quần, bóng nước, ba-lê (Alfred, tất nhiên), và gần đây nhất, Tae Kwon Do. Nhiều khi, Ted cảm thấy rằng các con trai của hắn chơi thể thao chỉ để đảm bảo sự có mặt của hắn bên một số lượng sân chơi lớn nhất có thể, và hắn có mặt, gào lạc giọng giữa những đống lá rụng và mùi khói củi của mùa thu, giữa bãi cỏ bốn lá đọng sương long lanh ngũ sắc của mùa xuân, và giữa không gian ẩm ướt, muỗi bay la đà của những mùa hè phía bắc bang New York.

Sau khi nói chuyện với vợ và các con trai, Ted thấy say, lo lắng khi phải rời khỏi khách sạn. Hắn hiếm khi say; cơn say buông một tấm mành bạc nhược xuống đầu hắn, đánh cắp mất hai, ba tiếng quý giá hắn có mỗi đêm - sau khi ăn tối với Susan và bọn trẻ - dành để nghĩ và viết về nghệ thuật. Đúng ra, hắn phải nghĩ và viết về nghệ thuật thường xuyên, nhưng nhiều yếu tố làm cho việc suy nghĩ và viết lách vừa không cần thiết (hắn làm việc ở một trường cao đẳng hạng ba, chẳng có nhiều áp lực phải xuất bản) vừa không khả dĩ (hắn dạy ba khóa lịch sử nghệ thuật một học kỳ và làm hàng đống công việc hành chính - hắn cần tiền). Không gian để suy nghĩ và viết của hắn là gian làm việc nhỏ xíu trong một góc của căn nhà bừa bộn, ở cửa hắn lắp khóa để tránh không cho bọn trẻ vào. Đám con trai của hắn khẩn khoản tụ tập bên ngoài cửa với vẻ mặt bần thần đến nhói lòng. Chúng không được phép gõ cửa căn phòng nơi hắn suy nghĩ và viết về nghệ thuật, nhưng hắn không tài nào cấm được chúng lảng vảng bên ngoài, những sinh vật hoang dã ma quái đang uống ánh trăng trong hồ nước, đôi chân trần của chúng cào bới tấm thảm, để lại những vết dầu mà mỗi tuần hắn lại chỉ ra cho Elsa, người dọn nhà. Hắn thường ngồi trong phòng làm việc, lắng tai nghe cử động của đám con trai, tưởng tượng mình cảm thấy hơi thở nóng hổi kỳ dị của chúng. Mình sẽ không cho chúng vào, hắn tự nhủ. Mình sẽ ngồi đây mà nghĩ về nghệ thuật. Nhưng hắn nhận ra trong tuyệt vọng rằng thường thì hắn chẳng nghĩ được gì về nghệ thuật. Hắn chẳng nghĩ cái gì cả.

Hoàng hôn, Ted tản bộ dọc Via Partenope tới quảng trường Piazza Vittoria. Ở đó các gia đình tụ tập đông nghịt, trẻ con tâng bổng những quả bóng đá hàng chợ, chuyện trò râm ran bằng thứ tiếng Ý nheo nhéo. Nhưng cũng có một sự hiện diện khác, trong ánh sáng nhạt nhòa: Những thanh niên lang bạt, bẩn thỉu, lơ mơ sợ hãi, những kẻ biến thành phố này thành nơi có tỉ lệ thất nghiệp ba mươi ba phần trăm, những thành viên của một thế hệ từ bỏ quyền công dân để du thủ du thực quanh những công trình đổ nát này của nước Ý nơi tiền nhân thế kỷ mười lăm của chúng đã sống huy hoàng, những kẻ hít ma túy trên bậc tam cấp của những nhà thờ có hầm mộ là nơi mà chính những tiền nhân kia giờ đây đang nằm, quan tài nhỏ bé của họ chất lên nhau như đống củi. Ted lảng tránh khỏi đám thanh niên đó, dù hắn cao một mét tám lăm và nặng một tạ, với khuôn mặt trông qua gương nhà tắm thì khá vô hại nhưng thường khiến đồng nghiệp phải hỏi xem có chuyện gì hay sao. Hắn sợ Sasha ở trong đám trẻ đó - sợ rằng con bé đang nhìn hắn qua ánh đèn đường vàng vọt tỏa khắp Naples mỗi khi trời ngả tối. Hắn đã cất hết đồ khỏi ví, chỉ để lại một thẻ tín dụng và chút tiền mặt. Hắn mau chóng rời khỏi quảng trường ấy để đi tìm quán ăn.

Sasha biến mất hai năm trước, khi mười bảy tuổi. Biến mất y như cha nó, Andy Grady, một chuyên gia tài chính tính tình hung dữ, đôi mắt màu tím, bỏ đi sau một thương vụ tồi tệ diễn ra một năm sau cuộc ly hôn với Beth, và từ đó không ai hay tin anh ta nữa. Sasha thì thỉnh thoảng lại tái xuất, đánh điện về xin tiền từ nhiều vùng xa lắc xa lơ, và hai lần Beth và Hammer đã lao tới đó với nỗ lực tuyệt vọng ngăn chặn con bé. Sasha đã trải qua tuổi teen với một danh mục những trò tai quái gồm dùng ma túy, vô số lần bị bắt vì tội ăn cắp, ưa thích kết bạn với dân nhạc rock (Beth kể lại điều này với cảm giác vô vọng), bốn bác sĩ tâm thần, trị liệu gia đình, trị liệu nhóm, ba lần cố gắng tự tử, cả ba lần Ted đều chứng kiến từ xa với một nỗi kinh sợ dần dần gắn liền với chính con người Sasha. Khi còn nhỏ, con bé đáng yêu - thậm chí là rất lôi cuốn - hắn nhớ điều này từ mùa hè hắn sống cùng Beth và Andy trong ngôi nhà của họ ở Lake Michigan. Nhưng bộ dạng con bé ngày càng cau có trong những dịp Giáng sinh và Lễ Tạ ơn mà Ted gặp nó, thế nên hắn giữ mấy thằng con tránh xa, sợ rằng xu hướng tự hủy hoại của con bé sẽ làm hỏng chúng. Giờ hắn chẳng muốn đả động gì tới con bé. Nó đã mất tích.

Sáng hôm sau Ted dậy sớm và đón taxi tới bảo tàng Museo Nazionale, lạnh, vọng âm, vắng hoe khách du lịch dù lúc này đang là mùa xuân. Hắn lướt đi giữa những bức tượng bán thân bụi bặm của Hadrian và nhiều biến thể của Caesar, cảm giác cơn kích thích thể xác khi nhìn thấy nhiều tới vậy các tượng cẩm thạch gần như khiêu dâm. Hắn đã có cảm giác mình sắp tới công trình tượng Orpheus và Eurydice từ trước khi hắn nhìn thấy nó, cảm nhận được sức nặng uy nghi của nó phía cuối căn phòng nhưng lại kéo dài thời gian trước lúc trực diện với nó, nhắc nhở trong đầu về những sự kiện dẫn tới khoảnh khắc mà nó khắc họa: Orpheus và Eurydice yêu nhau và mới kết hôn; Eurydice chết vì bị rắn cắn trong khi chạy trốn sự theo đuổi của một người chăn cừu; Orpheus xuống địa ngục, chan vào những hành lang đầy âm khí nơi ấy tiếng đàn lia cùng tiếng hát nhớ thương vợ của chàng; Pluto ban cho Eurydice thoát chết với điều kiện duy nhất là Orpheus không được nhìn lại nàng trong suốt hành trình trở lên dương thế. Rồi tới khoảnh khắc bất hạnh ấy, vì quá lo sợ cho người vợ trẻ khi nàng trượt chân ở hành lang, Orpheus đã quên mất và quay lại.

Ted đi về phía công trình tượng đó. Hắn cảm thấy như thể hắn vừa bước vào trong lòng nó, rồi nó bao quanh hắn, khiến hắn bồi hồi. Trước giờ khắc Eurydice phải xuống âm ti lần thứ hai, nàng và Orpheus chào vĩnh biệt. Điều làm hắn cảm động, như mài nát một tấm thủy tinh mỏng tang vào lồng ngực, là sự tương tác trong im lặng của họ, sự vắng mặt của kịch thoại và nước mắt khi họ đắm đuối nhìn nhau, chạm vào nhau rất khẽ. Hắn cảm nhận được giữa họ là một sự thấu hiểu quá sâu sắc đến độ chẳng cần ngôn ngữ: một nhận thức không lời rằng tất cả đã hết rồi.

Ted nhìn chằm chằm công trình tượng, chết lặng, suốt ba mươi phút. Rồi hắn trở bước, quay người. Hắn rời khỏi gian phòng đó và trở ra. Chốc chốc, cảm nhận ấy lại chờ sẵn hắn: một nỗi phấn khích rối beng mà đã suốt bao nhiêu năm hắn không cảm thấy khi đứng trước một tác phẩm nghệ thuật, đi kèm với một sự phấn khích còn nao nức hơn nữa là nỗi phấn khích kia vẫn còn có thể xuất hiện.

Từ đó tới chiều, hắn lang thang trên gác giữa các bức khảm Pompeii, nhưng tâm trí hắn không hề rời công trình tượng Orpheus và Eurydice. Hắn thăm lại nó một lần nữa trước khi rời bảo tàng.

Lúc này trời đã chiều, Ted bắt đầu rảo bước, vẫn mụ mị, cho tới khi hắn thấy mình giữa một mê lộ những con hẻm quá nhỏ hẹp nên mang cảm giác tối tăm. Hắn đi qua những nhà thờ để lộ ra những công trình tàn tạ nhem nhuốc, từ trong lồng nhà bẩn thỉu của chúng vọng ra tiếng mèo gào và tiếng trẻ con ỉ ôi. Những huy hiệu bết đất, bị quên lãng, đã được tạc trước khoảng cổng khổng lồ của chúng từ xưa, và những thứ này khiến Ted bồn chồn: Những biểu tượng quan trọng, phổ biến này đã trở nên vô nghĩa chẳng bởi điều gì khác ngoài thời gian. Hắn hình dung Susan phiên bản hơi khác kia bên cạnh mình, chia sẻ nỗi kinh ngạc này.

Khi Orpheus và Eurydice buông lỏng tay siết, Ted nhận ra một âm thanh ào ào vây kín quanh hắn, mớ hỗn hợp những cái liếc nhìn, huýt sáo, và làm hiệu dường như hòa trộn từ hầu hết mọi người, từ bà già hom hem quấn đồ đen bên ngoài nhà thờ cho tới thằng nhóc con mặc áo phông xanh cứ phóng Vespa vù vù qua hắn, gần sát sạt. Mọi người trừ hắn. Từ một cửa sổ, một bà lão đang dùng dây thừng thả xuống đường một giỏ đầy bao thuốc Marlboro. Chợ đen - Ted nghĩ, bồn chồn quan sát khi một con bé tóc tai bù xù và cánh tay cháy nắng lấy một bao thuốc rồi bỏ mấy đồng xu vào cái giỏ. Khi cái giỏ lại tròng trành lướt lên cửa sổ, hắn nhận ra người mua thuốc lá đó chính là cô cháu gái của hắn.

Hắn vốn đã lo sợ về cuộc chạm trán này khủng khiếp tới nỗi giờ đây hắn cảm thấy không bất ngờ trước sự trùng hợp điếng người này khi nó xảy ra thực sự. Sasha châm một điếu Marlboro, cau mày, và Ted chậm bước lại, vờ như đang mải ngắm bức tường hoen ố của một lâu đài. Khi con bé bắt đầu bước tiếp, hắn đi theo. Nó mặc cái quần jean đen bạc thếch và áo phông xám cáu bẩn. Nó bước loạng choạng, hơi cà nhắc, chậm, rồi nhanh lên, thế nên Ted phải tập trung để không vượt qua hoặc tụt lại phía sau con bé.

Hắn đang lướt vào khu nội thành lắt léo quanh co, một khu vực nghèo nàn, không có khách du lịch, nơi tiếng quần áo phơi bay phần phật hòa với tiếng chim bồ câu đập cánh phành phạch. Bất ngờ, Sasha quay lại đối diện với hắn. Con bé nhìn trân trân vào mặt hắn với vẻ bối rối. “Gì đó?” - Con bé lắp bắp. - “Cậu...”

“Chúa ơi! Sasha!” - Ted kêu lên, ngạc nhiên một cách hết sức ngớ ngẩn. Hắn là một kẻ giả mạo bần tiện.

“Cậu làm cháu sợ đấy” - Sasha nói, vẫn không tin nổi. - “Cháu có cảm giác ai đó...”

“Cháu cũng làm cậu sợ” - Ted đáp lại, rồi hai người cười gượng. Đáng lẽ hắn đã phải ôm con bé ngay. Giờ thì có vẻ quá muộn rồi. Để tránh né câu hỏi rõ ràng đó (Hắn đang làm gì ở Naples vậy?), Ted hỏi luôn mồm: Thế con bé đi đâu?

“Đi... đi thăm bạn” - Sasha nói. - “Cậu thì sao?”

“Chỉ... đi dạo thôi!” - Hắn đáp, quá to. Họ vừa bước lên bậc tam cấp. - “Chân bị cà nhắc à?”

“Cháu bị vỡ mắt cá chân ở Tangiers” - con bé đáp. - “Cháu ngã xuống một cầu thang dài.”

“Cậu mong là cháu đã đi khám bác sĩ.”

Sasha nhìn hắn với vẻ mặt khổ sở. “Cháu đã bó bột mất ba tháng rưỡi.”

“Thế sao còn cà nhắc?”

“Cháu không rõ nữa.”

Con bé đã lớn lên. Và sự trưởng thành này quá cương quyết, bản danh mục của nó quá dồi dào với ngực, mông và đường eo cong cong, với lối búng tàn thuốc điệu nghệ, thế nên Ted nhận thấy sự thay đổi này ngay lập tức. Một phép màu. Mái tóc của con bé không đỏ bằng thời xưa nữa. Gương mặt nó mong manh mà tinh quái, sắc da xam xám thu hút bao nhiêu màu từ thế giới xung quanh nó - tím, xanh, hồng - tựa hồ một khuôn mặt dưới nét vẽ của Lucian Freud[13]. Con bé trông giống như một cô gái của trăm năm trước, không thể sống lâu mà sẽ chết trong khi sinh nở. Một cô gái có những cái xương yếu ớt chưa lành hẳn.

“Cháu sống ở đây à?” -Hắn hỏi. - “Naples?”

“Ở một khu đẹp hơn” - Sasha đáp, với điệu bộ màu mè. - “Cậu thì sao, cậu Teddy? Cậu vẫn sống ở Mount Gray, New York?”

“Vẫn thế” - hắn đáp, giật mình trước sự nhắc nhở của con bé.

“Có phải nhà cậu rất to? Ở đó vẫn có nhiều cây chứ? Cậu có xích đu lốp xe không?”

“Bạt ngàn cây. Một cái võng chả ai dùng.”

Sasha ngừng lại, nhắm mắt lại như thể đang hình dung. “Cậu có ba con trai” - nó nói. - “Miles, Ames, và Alfred.”

Con bé đúng; ngay cả thứ tự cũng đúng. “Cậu ngạc nhiên khi cháu vẫn nhớ” - Ted nói.

“Cháu nhớ mọi thứ” - Sasha nói.

Con bé vừa dừng lại trước một trong những lâu đài ảm đạm, huy hiệu trước cổng vẽ một bộ mặt cười màu vàng ruộm khiến Ted rợn người. “Bạn cháu sống ở đây” - nó nói. - “Tạm biệt, cậu Teddy. Rất vui vì tình cờ gặp lại cậu.” Con bé đưa bàn tay ẩm ướt khẳng khiu bắt tay hắn.

Ted, chưa chuẩn bị cho sự chia tay đột ngột này, nói hơi lắp bắp: “Khoan đã, nhưng cậu không thể đưa cháu đi ăn tối à?”

Sasha nghiêng đầu, săm soi ánh mắt hắn. “Cháu bận kinh khủng” - con bé đáp với vẻ có lỗi. Sau đó, như thể mềm lòng bởi một phẩm chất lịch sự sâu xa bất tận nào đó - “nhưng được, tối nay cháu rảnh.”

Chỉ tới khi Ted đẩy cánh cửa phòng khách sạn của mình, hỗn hợp những phiến đá màu be thập niên 1950 chào đón hắn sau mỗi ngày không tìm kiếm Sasha, hắn mới bàng hoàng trước sự tuyệt nhiên kỳ dị của những gì vừa mới xảy ra. Đã tới lúc thực hiện cuộc gọi hàng ngày cho Beth, và hắn tưởng tượng em gái hắn vui sướng lặng người trước thông tin tốt lành chấn động khác hẳn hôm qua đó: Hắn không chỉ tìm thấy con gái cô, mà Sasha còn trông sạch sẽ, khỏe khoắn, đầu óc minh mẫn, và có bạn bè; nói tóm lại, tốt hơn họ mong đợi. Thế nhưng Ted chẳng cảm thấy vui vẻ như thế? Tại sao? Hắn tự hỏi, nằm bẹp trên giường, hai tay khoanh trước ngực, mắt nhắm nghiền. Tại sao lại có nỗi tiếc nuối này với ngày hôm qua, thậm chí sáng nay - với cảm giác khá thanh bình khi biết mình nên đi tìm Sasha nhưng vẫn chưa làm như thế? Hắn không biết. Hắn không biết nữa.

Cuộc hôn nhân của Beth và Andy đã tan tành ngoạn mục vào mùa hè Ted sống cùng họ ở Lake Michigan trong khi giám sát một công trình xây dựng cách đó hai dặm về phía đầu nguồn hồ. Ngoài bản thân cuộc hôn nhân ấy, những thứ đổ vỡ vào cuối mùa hè đó còn bao gồm chiếc đĩa sứ majolica hắn tặng Beth nhân dịp sinh nhật; những món đồ dùng tạp nham hư hỏng; Andy làm trật khớp vai trái của Beth hai lần; và làm gãy xương đòn của cô. Khi họ đánh nhau, Ted đưa Sasha ra ngoài, qua bãi cỏ sắc lẹm, tới bãi biển. Con bé có mái tóc dài đỏ rực và làn da trắng xanh mà Beth luôn cố tránh không để rám nắng. Ted quan tâm sâu sắc những lo lắng của em gái nên hắn luôn mang theo kem chống nắng khi ra bãi biển, những buổi chiều muộn ấy bãi biển quá nóng để Sasha có thể đi dạo mà không thoa kem. Hắn sẽ ôm con bé trong tay, nhẹ như một con mèo trong bộ đồ tắm hai mảnh trắng-đỏ, đặt nó lên khăn tắm, thoa kem lên đôi vai, lưng và mặt nó, cái mũi nhỏ xíu của nó - lúc ấy con bé lên năm - và tự hỏi rồi nó sẽ thành người ra sao khi lớn lên giữa bạo lực kinh khủng như thế. Hắn khăng khăng bảo con bé đội chiếc mũ thủy thủ màu trắng dưới trời nắng, dù con bé không muốn. Lúc đó hắn học sau đại học ngành lịch sử nghệ thuật, làm giám sát xây dựng để lấy tiền trả học phí.

“Giám-sát-xây-dựng” - Sasha khó nhọc lặp lại. - “Là gì vậy?”

“À, đó là người phân chia việc cho các công nhân xây dựng.”

“Có máy chà nhám không ạ?”

“Có chứ. Cháu có biết thợ chà nhám nào không?”

“Có một người” - nó nói. - “Chú ấy đã chà nhám sàn nhà cháu. Chú ấy tên là Mark Avery.”

Ted thoáng nghi ngờ về sự tồn tại của Mark Avery.

“Chú ấy cho cháu một con cá” - Sasha nói thêm.

“Cá vàng à?”

“Không” - con bé nói, cười giòn, đập vào cánh tay hắn. - “Một con cá thả vào bồn tắm.”

“Nó có kêu không?”

“Có, nhưng cháu không thích tiếng đó.”

Những cuộc trò chuyện như thế cứ kéo dài hàng giờ. Ted có cảm giác day dứt rằng đứa trẻ này đang dẫn lái hai cậu cháu như một cách khỏa lấp thời gian, để tâm trí cả hai thoát khỏi những gì đang diễn ra bên trong ngôi nhà đó. Và điều này khiến nó có vẻ già dặn hơn nhiều so với tuổi thực, một phụ nữ nhỏ xíu, hiểu biết, chán đời, chịu chấp nhận gánh nặng cuộc sống đến mức chẳng buồn nói tới. Nó chưa một lần gợi chuyện về cha mẹ nó, hay về nguyên nhân nó và Ted trốn ra ngoài bãi biển này.

“Cậu đưa cháu đi bơi nhé?”

“Được thôi” - hắn luôn đồng ý.

Chỉ tới lúc đó hắn mới cho phép con bé cởi mũ che nắng ra. Mái tóc con bé dài mượt mà; tóc nó xòa vào mặt hắn khi hắn bế nó (lúc nào nó cũng muốn vậy) ra hồ Michigan. Nó sẽ bám lấy hắn với đôi tay và đôi chân gầy nhỏ, ấm nóng do ánh nắng, và ngả đầu lên vai hắn. Ted cảm nhận thấy nỗi sợ hãi của con bé tăng dần khi họ ra hồ, nhưng nó không cho hắn quay lại. “Không. Không sao. Đi” - nó thì thào cả quyết vào cổ hắn, như thể việc chìm xuống mặt nước hồ Michigan là một thử thách nó buộc phải làm để duy trì được một điều tốt đẹp lớn lao hơn nào đó. Ted thử nhiều cách khác nhau để mọi chuyện dễ dàng hơn với con bé - lặn vào nước từng chút từng chút một, lao thẳng xuống - nhưng lần nào Sasha cũng thở gấp gáp đau đớn và xiết chặt tay chân quanh hắn. Khi cảm giác đó qua đi, khi con bé đã ở dưới nước, nó lại là chính mình, cứ bơi chó dù hắn ra sức dạy nó bơi sải. (“Cháu biết cách bơi!” - Con bé cáu kỉnh đáp. - “Chỉ là cháu không thích bơi thôi.”) Nó khoát nước vào hắn, răng va lách cách. Nhưng toàn bộ diễn biến này khiến Ted day dứt, như thể hắn đang làm tổn thương con bé, ép đứa cháu gái phải chìm xuống nước, trong khi điều hắn mong muốn làm, mơ ước được làm, là cứu con bé: Bọc nó trong chăn rồi giấu nó khỏi ngôi nhà đó cho tới khi trời sáng; chèo đi trên một con thuyền cũ kỹ mà hắn tìm thấy; đưa nó về phía cuối bãi biển và không quay trở lại. Năm đó hắn hai lăm tuổi. Hắn chẳng tin vào ai khác. Nhưng hắn chẳng thể làm gì, thực thế, để bảo vệ cháu gái hắn, và khi những tuần đó dần trôi qua, hắn bắt đầu nghĩ về cuối mùa hè ấy như một sự hiện diện đen tối, đầy điềm gở. Thế nhưng lúc thời khắc đến, mọi chuyện đơn giản lạ thường. Sasha bám lấy mẹ nó, chẳng buồn liếc nhìn Ted khi hắn chất đồ lên xe và tạm biệt, lòng hắn dấy lên nỗi giận hờn con bé, cảm thấy tổn thương theo một lối mà hắn biết là rất trẻ con nhưng dường như không ngăn được, và lúc cảm giác đó qua đi hắn thấy kiệt sức, quá mệt mỏi để lái xe. Hắn đỗ lại bên ngoài cửa hàng Dairy Queen và ngủ.

“Làm sao cậu biết được là cháu biết bơi nếu cháu không bơi cho cậu xem?” - Có lần hắn hỏi Sasha, khi họ ngồi trên bãi cát.

“Cháu đã học cùng với Rachel Costanza.”

“Cháu trả lời không đúng câu hỏi của cậu đấy.”

Con bé mỉm cười hơi mệt mỏi với hắn, như thể nó mong được ẩn nấp sau sự trẻ con của mình nhưng cảm thấy vì lý do gì đó, điều ấy giờ đã trở nên quá muộn. “Nó có một con mèo Xiêm tên là Feather.”

“Tại sao cháu lại không bơi?”

“Ôi, cậu Teddy” - con bé nói, nhại giọng mẹ nó rất kỳ khôi. - “Cậu làm cháu phát mệt.”

Sasha tới khách sạn của hắn lúc tám giờ, mặc một chiếc váy ngắn màu đỏ, đi bốt da bóng màu đen, và trang điểm kỹ càng khiến khuôn mặt nó đanh lại như một cái mặt nạ nhỏ chát chúa. Đôi mắt hẹp của con bé cong vút như móc câu. Ted thoáng nhìn thấy nó đi qua hành lang và có cảm giác gần như tê liệt. Hắn đã hy vọng một cách tàn nhẫn rằng con bé sẽ không tới.

Tuy nhiên, hắn vẫn ép mình đi qua hành lang và nắm cánh tay con bé. “Có một nhà hàng ngon ở trên phố kia” - hắn nói - “trừ khi cháu có ý tưởng khác.”

Nó có. Nhả khói thuốc qua cửa sổ taxi, Sasha hô to với tài xế bằng thứ tiếng Ý ngắc ngứ khi chiếc xe rầm rầm lao xuống những con hẻm và đi ngược chiều tới Vomero, một trong những khu giàu có Ted chưa từng tới. Nơi ấy ở trên một quả đồi cao. Đầu óc quay cuồng, hắn trả tiền cho tài xế rồi đứng với Sasha ở khoảng giữa hai tòa nhà. Thành phố lấp lánh, toàn khu căn hộ này trải mình trước mặt họ, trễ nải nhìn xuống biển. Hockney, Ted nghĩ. Diebenkorn. John Moore[14]. Nhìn từ khoảng cách đó, núi Vesuvius như ngủ im lìm. Ted mường tượng Susan phiên bản hơi khác kia đang đứng bên hắn, ngắm nhìn say sưa.

“Đây là view đẹp nhất ở Naples” - Sasha nói giọng thách thức, nhưng Ted cảm thấy con bé đang chờ đợi, đo đếm mức tán thưởng của hắn.

“Đây là một view tuyệt vời” - hắn trấn an con bé, rồi nói thêm khi họ thả bước trên những con phố đầy lá giữa khu dân cư - “đây là khu đẹp nhất mà cậu từng thấy ở Naples.”

“Cháu sống ở đây” - nó nói. - “Cách vài con phố.”

Ted ngờ vực. “Thế thì đáng lẽ cậu nên tới đây gặp cháu. Tiết kiệm cho cháu một cuốc xe.”

“Cháu e là cậu không thể tìm ra nó” - Sasha nói. - “Người ngoại quốc thường bó tay với Naples. Hầu như ai cũng bị ăn trộm.”

“Cháu không phải người ngoại quốc à?”

“Về mặt ngữ nghĩa thì phải” - Sasha nói. - “Nhưng cháu biết đường đi lối lại.”

Họ tới một ngã tư đông nghịt những người hẳn là sinh viên đại học (lạ một điều là ở đâu trông chúng cũng giống nhau): Đám con trai và con gái mặc áo khoác da đen cưỡi Vespa, nằm ườn trên Vespa, ngồi hờ và thậm chí đứng trên Vespa. Mật độ dày đặc Vespa khiến cả quảng trường dường như rung chuyển, và hơi khói xe tác động lên Ted như chất gây mê dạng nhẹ. Trong hoàng hôn, một hàng cọ rải đều in trên nền trời Bellini. Sasha len lỏi giữa đám sinh viên với sự dè dặt lạnh lùng, mắt nhìn thẳng phía trước.

Trong một quán ăn ở quảng trường, nó yêu cầu bàn bên cửa sổ và gọi món: bông bí chiên kèm theo pizza. Chốc chốc nó lại lén nhìn ra ngoài đám thanh niên đi Vespa. Rõ ràng đến chua xót là nó khao khát được như bọn chúng.

“Cháu có biết đứa nào trong đám trẻ đó không?” - Ted hỏi.

“Họ là sinh viên” - con bé đáp giọng khinh bỉ, như thể từ đó đồng nghĩa với từ “chẳng là gì”.

“Có vẻ chúng tầm tuổi cháu.”

Sasha nhún vai. “Đa số bọn chúng vẫn sống ở nhà” - nó đáp. - “Cháu muốn nghe về cậu, cậu Teddy. Cậu vẫn là một giáo sư lịch sử nghệ thuật chứ? Giờ chắc cậu là chuyên gia rồi nhỉ.”

Một lần nữa choáng váng trước ký ức của con bé, Ted lại cảm thấy cái áp lực thường dâng lên trong mình khi hắn cố gắng nói về công việc - một nỗi ngượng ngùng về những điều đã khiến bố mẹ hắn thất vọng và tạo ra một khoản nợ ngất ngưởng để hắn có thể viết một luận án tuyên bố (bằng luận điệu yếu ớt mà giờ đây khiến hắn phải xấu hổ) rằng nét cọ riêng biệt của Cézanne là một nỗ lực để thể hiện âm thanh - cụ thể là, trong những cảnh mùa hè ông vẽ, bản đồng ca như thôi miên của châu chấu.

“Cậu đang viết về ảnh hưởng của nghệ thuật điêu khắc Hy Lạp lên các họa sĩ trường phái ấn tượng Pháp” - hắn đáp, cố gắng tỏ ra sôi nổi, nhưng lời nói rơi phịch xuống như một viên gạch.

“Mợ Susan vợ cậu” - Sasha nói. - “Tóc mợ màu vàng nhỉ?”

“Ừ, Susan tóc vàng...”

“Hồi xưa tóc cháu màu đỏ.”

“Giờ vẫn đỏ” - hắn đáp. - “Đỏ hung.”

“Nhưng chẳng giống như cũ.” - Con bé nhìn hắn, chờ đợi một sự xác nhận.

“Ừ.”

Im lặng một hồi. “Cậu yêu người phụ nữ ấy chứ? Susan?”

Câu chất vấn lạnh lùng này rơi xuống đâu đó gần huyệt đan điền của Ted. “Mợ Susan” - hắn chỉnh lời con bé.

Sasha tỏ vẻ kiềm chế. “Mợ.”

“Tất nhiên là cậu yêu mợ” - Ted đáp lặng lẽ.

Bữa tối đến: pizza phủ pho mát buffalo mozzarella, ngậy và ấm trong cổ họng Ted. Sau ly vang thứ hai, Sasha bắt đầu nói. Con bé đã bỏ nhà đi với Wade, tay trống của ban Pinheads (chắc không cần phải giới thiệu), thời điểm đó đang chơi ở Tokyo. “Bọn cháu đã ở Okura Hotel, có nghĩa là vui vẻ” - nó nói. - “Khi ấy là tháng tư, đó là mùa hoa anh đào ở Nhật Bản, và cây nào cũng phủ kín những bông hoa màu hồng, và thương nhân đội mũ giấy hát hò nhảy múa dưới cây!” Ted chưa từng với Viễn Đông hay thậm chí Cận Đông, nhói lên cảm giác ghen tị.

Sau Tokyo, ban nhạc tới Hồng Kông. “Bọn cháu ở trong một tòa nhà chọc trời màu trắng trên đồi, có view vô cùng tuyệt diệu” - con bé nói. - “Các hòn đảo rồi biển rồi thuyền rồi cây cối...”

“Thế, giờ Wade có ở với cháu không? Ở Naples này?”

Con bé chớp mắt. “Wade? Không.”

Anh ta đã bỏ rơi con bé ở đó, ở Hồng Kông, trong tòa nhà màu trắng cao vút ấy; con bé đã lưu lại trong phòng cho tới khi người chủ đuổi đi. Rồi nó chuyển tới ký túc xá trong một tòa nhà toàn các xưởng may nhân công rẻ mạt, mọi người ngủ ngay dưới máy khâu trên những đống vải vụn. Sasha nhắc lại những chi tiết đó nhẹ bẫng, như thể toàn bộ chuyện ấy là một trò đùa. “Rồi cháu có mấy đứa bạn” - nó nói - “và bọn cháu sang Trung Quốc.”

“Là những người bạn cháu tới gặp hôm qua hả?”

Sasha cười to. “Đi tới đâu cháu gặp người mới ở đó” - nó nói. - “Khi đi chu du thì phải như thế, cậu Teddy ạ.”

Sasha đỏ mặt - vì rượu, mà cũng có thể vì vui thích khi nhớ lại. Ted gọi hóa đơn rồi thanh toán. Hắn cảm thấy nặng nề, tuyệt vọng.

Đám choai choai kia giải tán khi màn đêm lạnh lẽo buông. Sasha không có áo khoác. “Mặc áo của cậu đi” - Ted nói, cởi chiếc áo vest dạ sờn nặng nề ra, nhưng con bé không nghe thấy. Hắn có cảm giác con bé muốn tiếp tục hiện diện đầy đủ trong chiếc váy đỏ đó. Đôi bốt cao khiến bên chân cà nhắc càng lộ rõ.

Sau khi đi qua nhiều dãy nhà, họ tới một nightclub có vẻ ngoài phổ biến, ở đó người gác cửa thờ ơ khoát họ vào trong. Lúc này đã là nửa đêm.

“Bạn cháu là chủ chỗ này” - Sasha nói, dẫn đường vào một nơi hỗn độn những thân người, ánh đèn huỳnh quang màu tím, và tiếng nện ầm ầm của đủ thể loại máy khoan. Ngay cả Ted, vốn không sành về nightclub, cũng cảm nhận thấy sự xoàng xĩnh đến mệt mỏi của cảnh tượng này, nhưng Sasha có vẻ thích thú.

“Mua cho cháu một ly được không cậu Teddy?” - Con bé nói, chỉ vào một ly đồ uống pha chế trông ghê rợn ở bàn bên cạnh. - “Giống thế kia, có một cái ô nhỏ.”

Ted chen lấn đi tới quầy bar. Tránh được cô cháu gái có cảm giác như tung được cánh cửa ra, nới lỏng sự ngột ngạt thiếu không khí. Nhưng chính xác thì vấn đề là gì? Sasha đã có khoảng thời gian vui vẻ, nhìn ngắm thế giới; ồ, chỉ trong hai năm mà con bé đã làm được nhiều hơn những gì Ted làm trong hai mươi năm. Thế thì tại sao hắn lại háo hức muốn thoát khỏi con bé như thế?

Sasha đã chiếm hai chỗ ngồi ở một cái bàn thấp, kiểu ngồi khiến Ted thấy mình giống như một con khỉ, đầu gối mắc kẹt dưới cằm. Khi con bé nâng cái ly nước có gắn ô lên môi, ánh đèn tím rọi vào những vệt sẹo mảnh xám mét ở mặt trong cổ tay nó. Khi Sasha đặt ly đồ uống xuống, Ted cầm cánh tay con bé trong đôi tay mình và lật ra; Sasha để mặc hành động này cho tới khi nó nhận ra hắn đang nhìn gì, rồi giật tay đi.

“Đó là từ hồi trước” - con bé nói. - “Ở Los Angeles.”

“Để cậu xem.”

Con bé không chịu. Và trước sự ngạc nhiên của chính mình, Ted với tay qua bàn chộp lấy hai cổ tay nó, cảm nhận một chút vui thú giận dữ làm đau đứa cháu gái trong khi ra sức siết chặt cổ tay nó. Hắn để ý thấy móng tay con bé màu đỏ; nó vừa sơn chiều nay. Sasha dịu lại, quay mắt đi khi hắn quan sát hai cánh tay của con bé trong ánh sáng lạnh lẽo kỳ quái. Chúng đầy sẹo và chằng chịt vết xước như đồ gỗ.

“Rất nhiều vết là do tai nạn” - Sasha nói. - “Cháu thật sự mất khả năng thăng bằng rồi.”

“Cháu đã có những năm tồi tệ.” - Hắn muốn con bé thừa nhận điều đó.

Cả hai cùng im lặng. Cuối cùng Sasha nói: “Cháu đã nghĩ mãi chuyện sẽ gặp lại cha cháu. Như thế không phải là điên rồ sao?”

“Cậu không biết.”

“Ở Trung Quốc, Morocco. Cháu thường nhìn quanh phòng - ồ - cháu thấy mái tóc của cha. Hoặc đôi chân của cha, cháu vẫn nhớ như in hình dáng đôi chân ông. Nhớ ông thường ngả đầu ra sau khi cười - nhớ không, cậu Teddy? Có nhớ tiếng cười của ông rất giống tiếng hét?”

“Giờ nghe cháu nhắc thì cậu cũng nhớ.”

“Cháu đã nghĩ chắc ông ấy sẽ theo cháu” - Sasha nói - “đảm bảo cháu bình an. Thế rồi khi thấy dường như ông ấy chẳng làm vậy, cháu đã rất sợ hãi.”

Ted thả tay con bé ra, nó khoanh tay lại trong lòng. “Cháu đã nghĩ ông sẽ lần ra cháu nhờ mái tóc của cháu. Nhưng giờ thì tóc cũng không còn đỏ nữa.”

“Cậu đã nhận ra cháu.”

“Đúng thế.” - Con bé ngả về phía hắn, gương mặt xanh xao ghé sát mặt hắn, đanh lại với vẻ mong đợi. - “Cậu Teddy, cậu đang làm gì ở đây vậy?”

Đó là câu hỏi mà hắn đang rất sợ, nhưng câu trả lời buông ra từ Ted giống như thịt lóc khỏi xương. “Cậu tới đây để xem nghệ thuật” - hắn nói. - “Để ngắm nhìn nghệ thuật và nghĩ về nghệ thuật.”

Đó: một cảm giác thanh bình nhẹ nhõm bất ngờ. Giải thoát. Hắn chẳng tới vì Sasha, sự thật là vậy.

“Nghệ thuật?”

“Đó là điều cậu muốn làm” - hắn nói, mỉm cười, nhớ về công trình tượng Orpheus và Eurydice ban chiều. - “Đó là điều cậu luôn cố gắng làm. Đó là điều cậu quan tâm.”

Mặt Sasha giãn ra, như thể một sức nặng nào đó mà nó đang ra sức chống đỡ đã biến mất. “Cháu tưởng cậu tới tìm cháu” - nó nói.

Ted quan sát con bé từ xa một khoảng. Một khoảng cách thanh bình.

Sasha châm một điếu Marlboro. Sau khi rít hai hơi, nó nhả khói ra. “Chúng ta nhảy đi” - nó nói, một cảm giác nặng nề bao quanh con bé khi nó đứng lên khỏi ghế. - “Đi nào, cậu Teddy”. Nó nắm lấy tay hắn, dồn hắn ra sàn nhảy, một loạt tấm thân bóng nhẫy gợi lên trong Ted một cảm giác ngượng ngùng đáng sợ. Hắn ngập ngừng, kháng cự, nhưng Sasha kéo hắn ra giữa những người nhảy khác và hắn lập tức cảm thấy phấn chấn, vững vàng. Đã bao lâu rồi hắn không nhảy trong nightclub? Mười lăm năm? Hơn? Ngập ngừng, Ted bắt đầu lắc lư, cảm thấy mình vụng về thô kệch trong chiếc áo vest dạ giáo sư, di chuyển trên đôi chân với những bước tới lui gần giống bước nhảy, cho tới khi hắn nhận ra Sasha không hề nhúc nhích. Con bé đứng im, quan sát hắn. Rồi nó tới cạnh hắn, vòng đôi cánh tay dài quanh người hắn và bám vào hắn, thế nên hắn cảm nhận được trọng lượng khiêm tốn của con bé, chiều cao và cân nặng của Sasha mới này, đứa cháu gái trưởng thành mà trước đây từng rất bé nhỏ, và sự biến chuyển không thể vãn hồi ấy dội vào trong Ted một nỗi buồn tan nát, khiến cổ họng hắn nghẹn lại và sống mũi xộc lên cảm giác râm ran đau nhức. Hắn ôm chặt lấy Sasha. Nhưng nó đã biến mất, cô bé nhỏ xíu ấy. Biến mất cùng với thằng con trai sôi nổi đã từng yêu nó.

Cuối cùng Sasha lùi ra. “Đợi đây nhé” - nó nói, không nhìn mắt hắn. - “Cháu sẽ quay lại ngay.” Mất phương hướng, Ted lởn vởn giữa đám người Ý nhảy nhót cho tới khi một cảm giác ngượng ngịu dâng cao xua hắn ra khỏi sàn nhảy. Hắn nán lại gần đó. Cuối cùng, hắn đi vòng vòng trong câu lạc bộ. Con bé đã bảo nó có bạn bè ở đây - có thể nào nó đang nói chuyện với chúng ở đâu đó? Hay nó đã đi ra ngoài? Lo lắng, mụ mẫm vì ly đồ uống của chính hắn, hắn gọi một chai nước suối San Pellegrino ở quầy. Chỉ tới lúc đó, khi thò tay lấy ví và thấy đã mất, hắn mới nhận ra rằng con bé đã ăn trộm của hắn.

Ánh nắng tách mở hai mí mắt, bắt hắn phải tỉnh dậy. Hắn đã quên hạ cửa chớp. Năm giờ sáng hắn mới được lên giường, sau mấy tiếng đồng hồ lang thang vô vọng và hàng loạt lần đi sai hướng tới đồn cảnh sát; sau khi tìm ra chỗ đó và trình bày lại câu chuyện buồn của mình (trừ danh tính của kẻ ăn trộm) với một viên cảnh sát có mái tóc bóng dầu và thái độ thờ ơ xưa cũ; sau khi lời đề nghị giúp cho một cuốc xe về khách sạn (vốn là tất cả những gì hắn đã thực sự tìm kiếm) từ đôi vợ chồng già hắn đã gặp ở đồn, những người đã bị trộm mất hộ chiếu trên tàu cánh ngầm ở Amalfi.

Lúc này Ted ra khỏi giường, đầu bập bùng và tim thùm thụp. Giấy nhắn ghi các cuộc điện thoại để bừa bộn trên bàn: năm tin từ Beth, ba của Susan, và hai của Alfred (Tôi không nghe được, một tờ viết, bằng thứ tiếng Anh sai bét của tay lễ tân khách sạn). Ted bỏ mặc đám giấy tại nơi hắn ta đã quẳng. Hắn tắm, không cạo râu, mặc quần áo vào, nốc một ly vodka ở quầy bar nhỏ, rồi lấy tiền mặt và một thẻ tín dụng khác từ két sắt trong phòng. Hắn phải tìm Sasha bây giờ - hôm nay - và điều bắt buộc này, vốn đã siết chặt lấy hắn chẳng biết từ lúc nào, mang một vẻ khẩn thiết đảo ngược hoàn toàn với cảnh trốn việc lúc trước của hắn. Có mấy chuyện khác nữa hắn cần làm - gọi cho Beth, gọi cho Susan, ăn - nhưng làm những việc ấy lúc này là không thể. Hắn phải tìm con bé.

Nhưng ở đâu? Ted ngẫm nghĩ câu hỏi này trong khi uống ba cốc espresso trong sảnh khách sạn, để caffeine và vodka đụng nhau trong não hắn như cá chọi. Biết tìm Sasha ở đâu trong cái thành phố ù lì, hôi hám này? Hắn lật lại những kế hoạch mà hắn đã bỏ qua không thực hiện: đến chỗ bọn trẻ phóng túng ở trên sân ga tàu và các khu nhà trọ rẻ tiền, nhưng không, không. Hắn sẽ phải chờ đợi quá lâu cho bất cứ nơi nào trong số đó.

Chẳng có kế hoạch cụ thể nào, hắn đón taxi tới bảo tàng Museo Nazionale và tản bộ theo hướng mà dường như hôm qua hắn đã đi, sau khi xem tượng Orpheus và Eurydice. Chẳng có gì trông như cũ, nhưng tất nhiên có thể trạng thái đầu óc của hắn là nguyên nhân của sự khác biệt đó, một cái máy đánh nhịp hoảng sợ nhỏ xíu đang tíc tắc bên trong hắn. Chẳng có gì trông như cũ, nhưng mọi thứ trông rất quen: những ngôi nhà thờ nhem nhuốc và những bức tường gồ ghề xiêu vẹo, những thanh rào chắn xơ xác như vết xước. Sau khi đi dọc một con đường hẹp tới điểm kết ngoắt ngoéo của nó, hắn ra một con đường lớn trải dài một dãy những tòa nhà rầu rĩ, các tầng trệt đều đập ra để biến thành những cửa hàng quần áo và giày dép rẻ tiền. Một thoáng nhận biết vụt qua Ted. Hắn chậm rãi đi theo con phố đó, hết nhìn trái lại nhìn phải, cho tới khi hắn thấy cái mặt cười vàng ruộm đặt trên một palimxet[15] toàn hình gươm và thập tự.

Hắn đẩy cánh cửa nhỏ hình chữ nhật mở ra một lối vào rộng, có mái vòm, nguyên thủy được xây để đón ngựa kéo, rồi hắn đi theo một hành lang vào một cái sân lát đá vẫn còn hơi ấm từ ánh nắng vừa tàn. Nơi này mang mùi dưa ủng. Một bà già chân vòng kiềng đi tất xanh dài tới đầu gối phía dưới váy tập tễnh đi về phía hắn, đầu bà quấn khăn.

“Sasha” - Ted nói với đôi mắt mờ nhòe nhoẹt của hắn. - “Người Mỹ. Capelli rossi.” Hắn vấp ở chữ r nên thử lại. “Rossi” - hắn nói, lần này uốn lưỡi. - “Capelli rossi.” Và hắn hận ra ngay khi nói thành lời đặc điểm đó là nó không còn đúng nữa.

“Không, không” - bà già lẩm bẩm. Khi bà ta bắt đầu loạng choạng quay người, Ted đi theo, dúi tờ hai mươi đô vào bàn tay nhão của bà ta rồi hỏi lại, lần này uốn chữ r trơn tru. Bà già tặc lưỡi, giật giật cằm, rồi tỏ vẻ như buồn bã, ra hiệu cho Ted đi theo bà. Hắn đi theo, lòng đầy khinh bỉ khi bà ta dễ mua như thế, khi giá đút lót cho bà ta rẻ mạt như thế. Dẫn tới một bên của cửa trước là một dãy cầu thang rộng, những phiến đá cẩm thạch Naples sang trọng vẫn còn lấp lánh qua lớp bụi bám dơ dáy. Bà già chầm chậm cất bước trèo lên, tay nắm chặt lan can. Ted đi theo.

Tầng hai, như hắn đã dạy sinh viên đại học bao năm nay, là piano nobile, nơi chủ nhân dinh thự khoe sự giàu sang của họ với khách khứa. Ngay cả bây giờ, la liệt chim bồ câu trụi lông và bê bết bừa mứa phân chim, những mái vòm cong cong ở nơi này soi mình xuống sân vẫn rất lộng lẫy. Thấy hắn để ý, bà già nói. “Bellissima, eh? Ecco, guardate![16] Và với niềm tự hào khi thấy Ted say mê, bà ta mở bung cánh cửa vào một căn phòng rộng lờ mờ, các bức tường đều lem nhem những vệt trông như nấm mốc. Bà già kéo công tắc, và cái bóng đèn lủng lẳng rủ xuống từ một sợi dây làm nổi những hình thù rêu phong đó lên thành những bức tranh tường mang phong cách của Titian và Giorgione[17]: những phụ nữ trần truồng phốp pháp cầm trái cây; từng đống lá rụng. Tiếng xôn xao của bầy chim lông ánh bạc. Đây hẳn đã từng là phòng khiêu vũ.

Ở tầng ba, Ted để ý thấy hai cậu con trai đang hút chung một điếu thuốc ở bậu cửa. Một thằng khác nằm ngủ dưới một dãy đồ phơi để rải rác: tất và đồ lót ướt kẹp cẩn thận vào một dây treo. Ted ngửi thấy mùi ma túy và dầu ô liu hỏng, nghe thấy tiếng rì rào của những hoạt động ẩn khuất, và nhận ra rằng lâu đài này đã trở thành nhà trọ. Điều mai mỉa trong chuyện thấy mình nhập vào giữa đám đầu đường xó chợ này là hắn đã cố gắng loại bỏ đi gã Ted vui thú. Thế là chúng ta ở đây, hắn nghĩ. Cuối cùng.

Ở tầng năm và tầng thượng, nơi xưa kia là chỗ ở của người hầu, các cánh cửa nhỏ hơn, trải dọc theo một hành lang hẹp. Người dẫn đường già nua của Ted dừng lại dựa vào tường để nghỉ. Sự khinh thường của hắn với bà nhường chỗ cho lòng biết ơn: nỗ lực mà bà phải trả cho hai mươi đô đó thật to lớn! Chắc hẳn bà phải cần chỗ tiền ấy kinh khủng lắm. “Tôi xin lỗi” - hắn nói - “tôi xin lỗi đã để bà phải đi xa như thế.” Nhưng bà già lắc đầu, không hiểu. Bà loạng choạng đi tới khoảng giữa hành lang rồi gõ mạnh lên một trong các cánh cửa hẹp đó. Cửa mở và Ted thấy Sasha, vẫn ngái ngủ, mặc quần pyjamas của đàn ông. Thấy Ted mắt con bé mở to, nhưng khuôn mặt vẫn hững hờ. “Chào cậu Teddy” - nó nói khẽ.

“Sasha” - hắn nói, tới lúc đó mới nhận ra hắn cũng hết hơi vì leo tầng. - “Cậu muốn... nói chuyện với cháu.”

Ánh mắt của bà già đảo qua đảo lại giữa họ; rồi bà ta quay người bỏ đi. Ngay khi bà ta rẽ ở góc nhà, Sasha đóng sầm cửa trước mặt hắn. “Đi đi” - con bé nói. - “Cháu bận.”

Ted tới gần cửa hơn, áp bàn tay lên tấm gỗ nứt nẻ. Qua đó, hắn cảm thấy sự hiện diện giận dữ, sợ hãi của đứa cháu gái. “Thế đây là nơi cháu sống đấy” - hắn nói.

“Cháu sắp chuyển tới nơi tốt hơn.”

“Khi cháu ăn trộm đủ ví à?”

Im lặng một lát. “Không phải cháu làm” - nó nói. - “Đó là một đứa bạn của cháu.”

“Cháu có bạn ở khắp nơi này, nhưng cậu chưa từng tận mắt thấy họ.”

“Đi! Đi đi, cậu Teddy.”

“Cậu muốn thế lắm” - Ted nói. - “Tin cậu đi.”

Nhưng hắn không thể bỏ đi được, hay thậm chí chỉ là nhúc nhích. Hắn đứng cho tới khi chân đau nhức, rồi khụy gối trượt xuống sàn. Lúc này đã sang chiều, và một vầng hào quang của ánh sáng mốc meo lọt vào từ ô cửa sổ ở một đầu sảnh. Ted dụi mắt, cảm thấy như hắn có thể ngủ.

“Cậu vẫn ở đó à?” - Sasha gắt từ bên kia cánh cửa.

“Vẫn đây.”

Cánh cửa hé mở, cái ví của Ted rớt bụp vào đầu hắn rồi rơi xuống sàn.

“Cút đi” - Sasha nói, rồi đóng cửa lại.

Ted mở ví, thấy mọi thứ bên trong còn nguyên, rồi bỏ lại vào túi quần. Hắn ngồi. Suốt một lúc rất lâu - nhiều giờ, chừng như thế (hắn quên đồng hồ) - tất cả yên lặng. Thỉnh thoảng hắn nghe thấy những người thuê nhà dật dờ khác đi vào phòng của họ. Hắn hình dung mình là một thành tố của tòa lâu đài này, một miếng nẹp hay bậc tam cấp có tri giác mà số phận của nó đã chứng kiến thăng trầm của bao thế hệ, cảm nhận nơi đây thả khối đặc tính trung cổ của nó sâu hơn vào lòng đất. Thêm một năm, thêm năm mươi năm nữa. Hắn đứng dậy hai lần để người thuê nhà đi qua, mấy đứa con gái có bàn tay run rẩy và mang ví da rạn. Chúng chẳng hề liếc nhìn hắn.

“Cậu vẫn ở đó à?” - Sasha hỏi, từ sau cánh cửa.

“Vẫn đây.”

Con bé ra khỏi phòng và khóa ngay cửa lại sau lưng. Nó mặc quần jean xanh, áo phông, đi dép tông nhựa, cầm một cái khăn tắm hồng bạc phếch và một cái túi nhỏ. “Cháu đi đâu?” - Hắn hỏi, nhưng con bé cứ lừng lững đi xuôi hành lang mà không đáp. Hai mươi phút sau nó quay lại, tóc còn ướt, mang theo mùi xà phòng hương hoa. Con bé lấy khóa mở cửa, rồi chần chừ. “Cháu quét các hành lang để trả tiền phòng, được chứ? Cháu quét cái sân khốn kiếp kia. Điều đó khiến cậu hạnh phúc chứ?”

“Nó có khiến cháu hạnh phúc không?” - Hắn bật lại.

Cánh cửa rung bật trên bản lề.

Khi Ted ngồi đó, cảm nhận buổi chiều dần trôi, hắn nhận thấy mình nghĩ về Susan. Không phải Susan phiên bản hơi khác kia, mà là Susan thực - vợ hắn - vào một ngày nhiều năm trước, trước khi hắn bắt đầu gấp ham muốn lại thành hình dạng bé xíu như lúc này. Trong một chuyến đi New York, đi phà Staten Island Ferry cho vui vì cả hai người đều chưa từng đi như thế, Susan bỗng nhiên quay sang hắn và bảo: “Anh hãy hứa sẽ luôn thế này nhé.” Lúc ấy tâm trí của họ vô cùng hỗn độn nên Ted hiểu chính xác vì sao cô nói thế: không phải vì họ đã làm tình sáng nay hay vì họ uống chai rượu Pouilly-Fuissé trong bữa trưa - mà vì cô cảm thấy thời gian đã trôi qua. Và rồi Ted cũng cảm thấy điều đó, trên mặt nước màu nâu tung bắn - và hắn nắm tay Susan và nói: “Luôn luôn. Sẽ luôn như thế này.”

Gần đây, hắn đã nhắc lại chuyến đi ấy trong một bối cảnh khác, và Susan đã nhìn bao quát cả khuôn mặt hắn và líu lo bằng giọng nói mới như nắng tỏa của cô: “Anh có chắc đó là em không? Em chẳng nhớ chút nào về chuyện đó cả!” và đặt một nụ hôn phơn phớt lên đỉnh đầu hắn. Chứng quên, hắn đã nghĩ. Tẩy não. Nhưng lúc này đây hắn chợt hiểu rằng Susan đã nói dối. Hắn đã để cô đi, giữ gìn mình cho cái gì? Ted sợ hãi khi không có câu trả lời. Nhưng hắn đã để cô đi, và cô đã biến mất.

“Cậu vẫn ở đó à?” - Sasha gọi, nhưng hắn không trả lời.

Con bé mở tung cửa dòm ra. “Cậu vẫn đây” - nó nói, nhẹ nhõm. Ted ngước từ sàn lên nhìn nó mà không nói gì. Nó nói: “Cậu có thể vào trong, cháu nghĩ thế.”

Hắn nhấc mình đứng lên rồi bước vào phòng con bé. Căn phòng nhỏ xíu: giường chật, bàn, một nhánh bạc hà để trong cốc thủy tinh tỏa hương khắp phòng. Chiếc váy đỏ, rủ xuống từ móc treo. Ánh mặt trời sắp lặn, trượt qua các mái nhà, gác chuông nhà thờ và lọt vào trong phòng qua ô cửa sổ duy nhất ở bên giường. Bậu cửa đầy những thứ mà có lẽ là đồ lưu niệm của Sasha từ các chuyến đi: một ngôi chùa nhỏ xíu màu vàng, một cái móng gảy guitar, một vỏ ốc dài màu trắng. Ở giữa ô cửa sổ, lủng lẳng từ một sợi dây rủ xuống một vòng tròn gồ ghề làm bằng cái móc áo uốn cong. Sasha ngồi xuống giường, quan sát Ted ngắm nhìn đồ đạc nghèo nàn của nó. Hắn nhận ra, rõ ràng đến tàn nhẫn, điều mà vô tình hắn đã hiểu lầm hôm qua:

Cháu gái hắn đơn độc biết bao giữa nơi đất khách này. Tay trắng hoàn toàn.

Như thể hiểu được dòng suy nghĩ của hắn, Sasha nói, “Cháu đã quen biết rất nhiều người. Nhưng chẳng bao giờ bền lâu cả.”

Trên bàn có một chồng nhỏ sách tiếng Anh: Lịch sử thế giới qua 24 bài giảng. Báu vật huy hoàng của Naples. Trên cùng, một tập sách cũ mèm có tên Học đánh máy.

Ted ngồi xuống bên cạnh cháu gái và quàng tay quanh vai nó. Đôi vai nó như tổ chim non dưới áo khoác của hắn.

Cảm giác nhức nhối cay xè sống mũi hắn.

“Nghe cậu này, Sasha” - hắn nói. - “Cháu có thể làm thế này một mình. Nhưng như thế sẽ khó khăn hơn rất nhiều.”

Nó không trả lời. Nó đang nhìn ánh nắng. Ted cũng nhìn trân trân qua cửa sổ vào vùng xám nhạt rối beng. Turner, hắn nghĩ. O’Keeffe. Paul Klee[18].

Vào một ngày khác của hai mươi năm sau ngày này, sau khi Sasha đã đi học đại học và tới sống ở New York; sau khi qua Facebook cô kết nối lại với bạn trai thời đại học và kết hôn muộn (khi Beth đã gần từ bỏ hy vọng) và có hai đứa con, một đứa bị tự kỷ nhẹ; khi cô cũng giống bao người khác, có một cuộc sống khiến cô hồi hộp lo âu và luôn tay luôn chân; Ted, ly dị từ lâu - một người ông - sẽ tới thăm Sasha trong ngôi nhà nhỏ của cô ở sa mạc California. Ông sẽ bước qua phòng khách ngổn ngang đồ đạc của bọn nhỏ nhà cô và ngắm ánh nắng xuyên qua cửa kính trượt. Và trong một thoáng ông sẽ về Nap