- 2 - CHIẾN TRANH
Trường lớp đã bắt đầu thưa thớt học sinh. Những gia đình khá giả, buôn bán hoặc ít ruộng vườn, đóng cửa nhà, dắc díu nhau ra ngoài soi Mỹ Lệ, hoặc lên quãng trên tránh bom rơi đạn lạc. Vài gia đình có bà con ở Thị xã thì thuê xe lam chuyển đồ về dưới đó. Chiến tranh đã mom mem tới gần. Lính đi “càn” dày hơn, ruộng đồng bị xe tăng xéo nát chưa kịp trở mình lại bị bom đạn cày xới. Nhóm bạn chúng tôi gia đình đứa nào cũng nghèo, cũng bám víu vào mảnh ruộng nên chưa dám đi đâu. Nhà thằng Phú là dễ đi xuống Thị xã nhất nhưng cha nó… lại không chịu đi. Cha nó nói: - “Càng chiến tranh càng dễ buôn bán!” Thế là nhà nó chuyển lên Thạch Thành. Ở đó tương đối yên tĩnh.
Phú Thứ là vùng giáp ranh. Đôi khi năm ngày nữa tháng, lính Cộng Hòa “càn” lên đóng quân vài ngày, Cách mạng rút lui vào bí mật. Khi lính rút thì đâu lại vào đấy. Cuộc sống của người dân cũng thế mà thích nghi. Bọn trẻ con chúng tôi là thuận lợi nhất. Ngày nào cũng đến lớp, học thì ít mà đi lang thang tắm mương, đánh giặc giả, hái trộm ổi thì nhiều. Chơi riết trò chơi trẻ con cũng chán. Tôi muốn mình lớn nhanh để đi uýnh giặc như các chú bộ đội, như anh Sơn của tôi. Đánh nhau bằng súng thật thì thích hơn nhiều, “đùng” một cú là ngã quay lơ, chẳng bù với giàn ná thun: “bịch” một phát, “bọn địch” phủi đít nhe răng cười hì hì!
Phú “thầy Tàu” mấy hôm nay không đi học,Thằng Phú học lớp ba cùng tôi, nhưng nó trắng trẻo phốp pháp, lại cao nên nổi bật lên trong nhóm bạn đen cháy và còm nhom. Nhà nó giàu nhất làng. Cha nó là “Thầy Tàu” chính gốc. Anh Hà bảo “ ông Thầy Tàu giống y chang Tôn Sĩ Nghị”. Anh đưa cả hình Tôn Sĩ Nghị ở trong sách truyện tranh lịch sử cho tôi xem nữa, giống thật!
- Tôn Sĩ Nghị là giặc Tàu, còn cha thằng Phú là ông Thầy Tàu bán muối với lại nước mắm mà sao hai người giống nhau ghê anh hén, trong làng này đâu ai giống thế!
Anh Hà giảng giải một hồi nhưng tôi chả hiểu gì, chỉ láng máng biết rằng ông ta ở xa tít tắp tận đẩu tận đâu.
Trước đây trong nhóm bạn không có Phú, mà bọn tôi cũng chẳng thích chơi với nó, con trai gì mà y cục bột. Quần áo tươm tất, đi đứng như con gái nhưng đổi lại, tính Phú hiền lành, nhút nhác và, đặc biệt vườn nhà Phú rất rộng, trồng nhiều cây ăn trái. Cứ mổi tháng đôi lần, cha Phú xuống thị xã Tuy Hoà chở hàng, nguyên hai xe lam đầy ắp muối và nước mắm. Cứ mỗi lần thế là bọn trẻ chúng tôi lại kéo đủ bộ đến nhà Phú, trèo tót lên cây. Nào xoài, ổi, mận, đứa nào đứa nấy ăn cành hông, tuơ cả miệng, ních thêm mỗi đứa gáo nước trong ảng, bụng phành lặc lè, kéo cả lũ ra đường cái quan, đu xe ngựa xuống ga Gò Mầm chơi trò đánh giặc giả với bọn xóm dưới. Bọn chúng tôi dân xóm trên nên tụi Gò Mầm gọi là “Việt Cộng” còn chúng xưng là “Quốc Gia”, nhưng chúng đích thị là bọn “Nguỵ”. Các chú ở xã thường bảo thế, chắc ba nó sắp đưa cả nhà lên Thạch Thành. Nhóm thiếu một đứa tự nhiên buồn ghê. Cha tôi cho người chở cát, sạn, sắt, xi măng về chất đống trước sân. Không phải cha xây nhà đâu, làm hầm tránh đạn, tránh “canh nông”. Hầm được đúc bê tông cốt thép chìm dưới mặt đất. Cả Phú Thứ, hầm tránh đạn của nhà tôi là kiên cố nhất. Tôi hỏi cha:
- Thế làm hầm là nhà mình không đi đâu nữa hả ba? Lỡ lính Cộng hòa lên ở luôn đây thì sao!
Cha ngồi xuống ôm tôi vào lòng:
- Ba làm hầm cho nhà ta tránh đạn, hầm cũ không an toàn con ạ. Khi cần, ba sẽ chuyển cả nhà đi.
Căn hầm vừa xong, cha cùng anh Sơn vội từ biệt gia đình để lên núi. Ngày ấy tôi còn bé quá, nào biết được gì đâu, cứ ngỡ đi đâu đó rồi lại trở về. Căn hầm cha làm mà chưa một lần chui vào tránh đạn. Chị Hai, anh Hà và tôi cũng buồn, nhưng buồn trong sự chia ly, buồn trong nỗi thiếu vắng. Mẹ như linh cảm điều gì, xin cha với anh Sơn chậm lại dẫu chỉ một ngày: - “Một ngày thì có mấy tí hở mẹ?” - Tôi nói. Mẹ không nói gì, thẩn thờ hết lấy đồ cha đơm lại cúc áo, vá chỗ sờn trên vai anh Sơn, mẹ không khóc nhưng nước mắt cứ lăn dài trên má. Cha cũng buồn vì phải xa vợ và các con. Suốt buổi chiều hôm ấy, tôi cùng anh Hà đều ở nhà, chị Hai nghỉ một ngày đi bán. Chẳng ai thấy anh Sơn buồn cả, vì lâu nay anh rất ít khi ở nhà, đi liên miên có khi năm ngày, nữa tháng mới ở nhà một đôi ngày nên có thể anh quen. Nhưng không phải thế, tôi biết anh rất buồn, anh dặn tôi đủ điều, dặn cả anh Hà, chị Hai, cả mẹ nữa.
Từ đó, nhà tôi không còn những bữa cơm đầy đủ người. Tôi đã bắt đầu thấy nhớ cha, nhớ anh. Đã bắt đầu biết nếu không có cha sẽ như thế nào – mọi chuyện trong nhà đều một tay mẹ, từ việc đồng áng đến heo gà bếp núc. Anh Hà chính thức làm “chủ” tiệm sửa xe. Công việc thấy tưởng như vẫn thế, tưởng như thiếu cha, thiếu anh mỗi người chỉ làm thêm tí chút là xong, nhưng tôi thấy chẳng xong chút nào. Mẹ làm mà hồn vía cứ để đâu đâu, cứ giật thót mình khi nghe tiếng bom ì ầm phía núi. Riêng tôi sẽ không còn bị cha rầy, anh mắng, được “tự do” hơn, nhưng sao khi thiếu vắng tôi lại thấy thèm mỗi lần chạy chơi về được nhìn cha, được thấy anh dựng xe ngoài ngõ, chạy vào nhà uống vội gáo nước rồi đi ngay, nhưng vẫn yên lòng vì có anh. Giờ thì có vẻ như trầm trọng hơn, xa hơn và… tôi không biết nữa! Nhưng thấy mẹ hay lo lắng, u buồn, chị Hai thỉnh thoảng đi bán về ngồi kể chuyện chiến sự ở đâu đó mà chị nghe được làm cho mẹ càng thêm hoang mang. Tôi thương mẹ, thương anh, nhớ cha đâm ra ghét đánh nhau. Tôi thề là sẽ không thèm đánh giặc giả nữa!
Chiến tranh, súng đạn đã thật sự đến với làng quê. Xe bọc thép cày nát ruộng đồng, lính Đại Hàn, linh Cộng Hòa mặt mày sát khí, lăm lăm súng trong tay, lùng sục từng ngóc ngách, xới tung, đốt sạch những đống rơm, ủi bật từng bụi tre. Con mương dẫn thủy hiền hòa, tắm mát bọn chúng tôi trong những trưa hè, nuôi sống cả cánh đồng phì nhiêu Tuy Hòa bỗng chốc trở thành người chuyên chở những xác chết. Ban đầu thì đôi ba ngày, từ đâu trôi ngang Phú Thứ một vài thây người trương phình, căng cứng. Bọn trẻ con chúng tôi chẳng bao giờ dám nhìn. Bất kể vào lúc nào, cứ mỗi lần có xác người trôi về mẹ đều tất tã chạy đến xem và người im lặng gạt nước mắt quay đi. Những người nhà ở gần đó chung tiền hoặc công sức, kéo người chết lên, khâm liệm tử tế và chôn bên vệ đường. Sau, người chết trôi về thường xuyên và nhiều nên dân làng không làm xuể. Hơn nữa, trong làng bây giờ hầu như không còn đàn ông, trai tráng. Thanh niên số thì đi lính Cộng Hòa, số thì như anh Sơn tôi, lên núi theo Cách mạng, phần còn lại là những người bệnh tật, ốm yếu, phụ nữ và trẻ con. Lúc ấy quả thật tôi không hiểu tại sao người lớn lại “chia phe” đánh giết nhau, thả trôi sông, trôi mương như vậy, lại có cả những người lính tận đẩu tận đâu cũng đến đây bắn giết.
Đúng là thời kỳ khủng khiếp, xác chết không người chôn trôi xuống ga Gò Mầm bị ga cản lại nên lớp cũ lớp mới lèn chặt, ngày nối ngày xếp kín cả đoạn mương. Súng cứ nổ, bom cứ thả người chết ngày cứ nhiều thêm. Những con chó chạy qua chạy lại hai bên bờ, chúng rượt đuổi nhau trên những xác người. Đến lúc chúng cũng không còn sức để chạy nữa, chúng no lặc lè, căng phành bụng. Có lẽ từ dạo ấy, chiến tranh đã dạy chúng tôi không biết sợ, quên đến chai lỳ của sự chết chóc. Bọn tôi không dám lên đường cái quan, chẳng phải vì sợ những thây người rệu rã thịt xương, cũng không phải sợ gặp ma – chuyện nhỏ! Chúng tôi sợ mùi xác người!
Con người không thể hít thở liên tục cái mùi xú uế đặc quánh của xác người chết ngày này qua tháng nọ, và thế là xóm làng hè nhau gỡ những tấm chắn của ga. Dẫu ai gan dạ cỡ nào khi nhìn tấm chắn được gỡ cũng đều nhắm mắt. Một cảnh tượng hãi hùng, xác người nằm đã lâu ngày, được ép chặt như nêm cối giờ được dịp di chuyển, lại xô đẩy nhau lao xuống ga, nước đổ như thác, chẳng còn gì nguyên vẹn. Không hình hài, một mớ hổn độn, nhầy nhụa. Những thân thể ấy sẽ đi về đâu? Những hình hài ấy rồi được ráp nối ra sao trong thế giới bên kia? Có lẽ lúc ấy chẳng ai đủ tâm trí mà nghĩ ngợi. Dòng mương lại trở về với dáng vẻ tươi mát, hiền hòa như nó vốn có. Nhưng có ai biết rằng chính con mương thân yêu ấy đã ôm trong lòng biết bao thân xác con người, đã hòa tan ngàn vạn thịt xương của bao linh hồn, ngày ngày tưới xanh ruộng đồng. Lính Cộng hòa, Đại Hàn cùng xe tăng, súng ống lần lượt kéo xuống hướng Phú Lâm. Làng quê cũng dần im tiếng súng, trả lại sự bình yên cho thôn xóm. Sự yên bình trong hiu hắt. Nhà cửa toang hoác những dấu vết đạn bom, ruộng vườn xe tăng bánh xích vằm nát, cây cối bật gốc, trụi ngọn đứng chơ vơ. Nhà tôi bị sạc một góc phía bếp do quả “đại bác” cắt đứt cây keo đập xuống. Căn hầm cha tôi làm là nơi trú ẩn gần năm gia đình, “kiên cố không chê vào đâu được” – ai cũng bảo vậy. Con tự hào về cha lắm, cha ạ!
Quãng trên cầu Phú Thứ dưới - một đoạn, gần nhà tôi có lùm keo chừng ba mươi cây. mọc bao quanh khu đất trống, nơi bọn tôi thường tập trung chơi chẳng cây nào còn nguyên vẹn. Duy có một điều kỳ lạ là: Cây Da to lớn, gốc bằng mười đứa tôi ôm vòng không xuể thế mà chẳng hề hấn gì, không một nhánh gãy, không một dấu vết đạn bom. Đức lì lên tiếng:
- Đích thị là cây Da thiêng rồi.
Đức "lì" hồi đầu năm nó chỉ là Đức không thôi, chỉ tội ít nói, còn tính nó hiền như củ khoai. Dạo đầu năm nó đi học,cha mẹ đi làm đồng bồng theo đứa em kề nó, lên ba tuổi vì để ở nhà không ai trông. Gặp buổi lính đi càn, cha mẹ nó sợ quá bồng luôn đứa em chui vô hầm "ếch" đào để tránh máy bay núp. Xe tăng giặc chạy băng qua ruộng, chạy băng qua chỗ hầm cha mẹ và đứa em đang núp. Thế là chẳng người nào còn sống, và cũng không ai biết cả. Chỉ thấy tối không về. Tưởng là bị giặc bắt đem xuống quận. Mọi người xuống quận dò hỏi khắp nơi nhưng không ai biết. Năm ngày sau, những người làm đồng gần ruộng của nó nghe mùi xú uế gần bụi tre, tìm và phát hiện ba, mẹ và em nó trương phình nằm lẫn trong đất. Thế đấy! Từ đó, nó đã ít nói càng ít nói hơn. Nó không còn ai người thân. Trước kia nhà nó ở trong Phú Nhiêu, chuyển ra Phú Thứ chừng hai năm nay. Giờ thì trơ trọi chỉ mình nó trên đời, ba mẹ tôi thương hoàn cảnh nên đem Đức về nuôi.
- Ma ở đây là rất lớn, thiêng lắm!
- Chẳng phải ma, ma không giỏi vậy! Nó chỉ chuyên môn nhác người.
Thằng Ngọng đứng cà cả buổi được mỗi một câu:
- Nó… nó… nó tu lu… luyện… lâu… lâu năm…
Nhỏ Vân góp thêm:
- Không phải ma, là cây Da thần!
Từ dạo bọn tôi đến bên gốc Da núp máy bay, cây Da ít nhiều không còn bí hiểm nữa. Tất nhiên ai chẳng sợ ma! Cây giờ đã được bọn tôi phong thành thần. Thần khác ma nhiều lắm. Luôn cứu giúp con người và nơi nào có thần thì ở đó chẳng bao giờ có ma quỉ! Với suy nghĩ ấy, cây Da trở thành điểm hẹn của chúng tôi.
Anh Hà nghỉ ở tiệm sửa xe mấy ngày, rủ tôi ra ngoài đường cái, cách nhà không xa đào hầm bí mật! Mẹ cũng đồng ý. Từ dạo lính rút, máy bay “bà già” hay lượn lờ trên trời lắm. Thỉnh thoảng phát hiện được điều gì, chúng gọi “canh nông” từ Hòa Phong “câu” tới hoặc kêu máy bay chuồn chuồn bắn “rốc ket” xèo xèo. Mẹ nói: “Đào hầm ngoài đường để các con có cái mà núp nếu lỡ chạy về nhà không kịp”. Gọi là hầm bí mật cho oai chứ thật ra chỉ là cái hàm ếch nhưng với óc “sáng tạo”, anh Hà chọn một lùm cây dại mọc ven triền đường, đào cái lổ như miệng cống xiên xiên. Anh dùng cái cuốc bé tí lượm được của lính Cộng Hòa, cởi trần ngồi cuốc từng lát mỏng, tôi phụ trách việc cào đất bưng đổ xuống hố bom gần đó. Trông anh ngồi làm giống y con chuột chũi đào hang. Đường hầm dài chừng hơn hai sải tay, vừa đủ một người bò lom khom. Áng chừng hang đã ăn sâu trong đường cái quan, anh bắt đầu moi hầm rộng ra chừng bằng chiếc chiếu, đủ cho hai anh em chúng tôi và còn có thể thêm được độ ba người nữa, anh động viên:
- Ráng chút xíu em, chừng đến trưa là xong. Mình có chỗ núp lỡ còn người đi trên đường…Tội họ! Với lại rộng rãi thế này ngồi thích hơn.
Đến trưa trật mới xong. Quả là một công trình “vĩ đại” mà lần đầu tiên tôi được tham gia, khác xa căn hầm bé tẹo mà bọn tôi hay đào đánh giặc giả. Hai anh em đang định dọn cuốc, mủng ra về chợt nghe tiếng gì đục đục, rền rền làm những cục đất trên vách hầm rơi xuống, anh Hà bò ra chưa tới cửa đã vội thụt vào, thở hổn hển:
- “Canh nông” bắn dữ lắm!
- Dễ chừng chúng lại đi càn…
- Ừ!
Tôi định bò ra coi, anh Hà kéo chân lại:
- Mầy đừng, để anh ra cho.
Nói xong anh trườn ra cửa hầm, cửa quá bé, tôi nom mãi mà chẳng nhìn được gì. Anh nói vọng vào:
- Xóm sau có nhà đang cháy. Hình như gần ao rau muống chỗ bụi tre bật gốc nhà mình bị một quả, đất tươi roi rói…
Ngồi tận trong hầm, nghe anh Hà nói lao thao không chịu được, tôi cố ép người sát đất trườn dưới bụng anh, nhoi đầu nhìn ra ngoài trời. Tôi cố rướn mạnh nhìn ra lổ ánh sáng ít ỏi ngoài miệng hầm, nhìn về hướng nhà mình. Như chú nhái bén mang trên lưng con ếch, hai anh em lấp ló ở miệng hang. Xóm làng vắng ngắt, không một tiếng chó sủa, đây đó vài cột khói đang bốc cao. Bỗng như có ai kéo những tấm tôn chạy trên đường cái “sàn sạt” tiếng rít rợn người. Anh Hà chỉ kịp hét: “canh nông!” Cả người anh trùm kín lấy tôi, miệng hầm sụt một mảng lớn, đất cát rơi tứ tung, những tiếng nổ nối tiếp nhau “ùng ùng” căn hầm như rung lên. Qua cơn khiếp đảm chúng tôi thụt vô lại trong hầm, nhìn anh đầu tóc, mặt mũi, áo quần dính đầy đất. Tôi vẫn còn run:
- Anh có bị gì không? Khiếp thật!
- May mà không có quả nào rớt trúng hầm!
- Khi nãy anh sụm xuống tui cứ tưởng…
- Tại mầy chen phía dưới chứ không anh đã “phóc”vô hầm rồi.
Chợt nhiên anh im lặng, vểnh tai ra ngoài nghe ngóng. Như có tiếng “phạch phạch” giống ai đó đang giặt chiếu ngoài mương. Tiếng “phạch phạch” nhiều lắm, to dần. Tôi cũng căng tai lên nghe nhưng chẳng đoán được gì:
- Thôi về anh! Đạn hết nổ rồi, về nằm hầm nhà sướng hơn.
Tôi lui cui xách cái mủng chui ra cửa, anh Hà ngăn lại:
- Khoan, để anh xem đã.
Anh bò từ từ ra cửa, núp bên bụi cây dại nhìn dáo dác, bỗng anh tụt nhanh vô hầm, thở như bị ai rượt. Tôi tò mò, sè sẹ ra xem, anh chụp chân kéo lại, tôi quẫy mạnh bò nhanh. Núp bên bụi cây nhìn quanh, chẳng thấy gì. Chợt từ đâu đó có ai đang nói chuyện, hình như mọi người đã đi ra đường, đông và nhộn nhịp. Tôi đứng thẳng người lên cho dễ chịu:
- Về thôi anh ơi…!
Chưa nói hết câu, nhìn sang bên kia mương, cơ man nào là lính Cộng Hòa đứng từng dãy dài. Tiếng thét của anh Hà chìm trong tiếng hô đứng lại, tiếng súng nổ. Không phân biệt được gì, như bản năng, tôi chỉ nghĩ đến mẹ, đến ngôi nhà cần phải về, và sau lưng sự nguy hiểm phải tráng xa. Thế là tôi chạy, chạy bất kể đất trời. Súng nổ như rang bắp, đạn cày “chíu chíu” trên đường. Tôi chạy như bay nhưng sao đoạn đường dường như cứ xa thêm. Ở trong nhà, mẹ cùng rất đông người hàng xóm cũng chạy ra, vừa chạy vừa khóc, toàn phụ nữ và trẻ con. Tôi đang chạy tự nhiên cảm thấy như nhẹ tênh, như bay bổng. Chơi vơi chân không chạm tới đất, sau lưng, anh Hà đã ra khỏi hầm, đứng giữa đường cái quan hai tay đưa lên trời, khóc như mưa: “Em của con… Đừng bắn em con…!”
Sau đợt chết hụt (mọi người đều gọi như vậy) chứ thật ra tôi vấp phải hòn đá toét ngón chân. Nếu lính Cộng hòa bắn vào tôi thì đã tan xác pháo rồi. Mà “Việt Cộng” gì bé tí tẹo, chạy tụt cả quần!
Cái xóm đông vui ngày nào giờ còn lại ba gia đình. Nhà bác Hai Trong, nhà nhỏ Vân và nhà tôi. Bác Hai Trong còn một mẹ già gần chín mươi tuổi, lụm cụm, mù lòa. Vợ bác với hai anh con trai bị một quả canh nông rơi lạc trong vườn làm cả ba chết không toàn vẹn. Giờ bác chẳng muốn đi đâu nữa.Cũng như nhà tôi, dì Liên đợi tin chú Dũng (ba Vân). Tình hình này dì dễ đem nhỏ Vân về ngoại trên mạn sông Đồng Bò.
Sáng nay mẹ lên Thạch Thành thật sớm, dường như là có tin tức gì đó trên chỗ ba, còn anh Hà xuống Phú Lâm mua thêm phụ tùng xe đạp, chị Hai gánh hàng đi từ hồi gà gáy. Nhà vắng hoe, tôi rủ nhỏ Vân lấy cù quéo ra mé đường hái keo:
- Không biết tụi thằng Ngọng, thằng Khôi ở đâu Vân nhỉ?
Vân im lặng, vê vê ngọn lá trong tay nhìn tôi:
- Vân nhớ ba quá Hà em ơi!
- Mình cũng nhớ ba, nhớ anh Sơn nữa.
Vân rơm rớm nước mắt:
- Đêm nào nằm mơ cũng thấy ba về…
- Vân thấy được ba là thích rồi!
- Nhưng khắp người ba đầy máu…
Tôi đến bên cầm tay Vân nói như để an ủi chính mình:
- Đừng nghĩ bậy Vân nhá. Mẹ bảo chiêm bao là không thật đâu.
Hai đứa đi lững thững ra đường cái quan. Tôi chỉ tay về hướng ngọn núi xa mờ trong sớm mai:
- Những người làm cách mạng đều ở trên đó cả, an toàn lắm, chú Ngọc chủ tịch vẫn nói thế mà!
Vân kéo tay tôi nép vào thân keo:
- Máy bay “bà già”kìa!
Tôi lắng tai, mắt nhìn qua kẽ lá. Tiếng u u lớn dần. Chiếc “bà già” ánh bạc lấp lánh, đủng đỉnh như một kẻ rảnh rang đi dạo. Mà không phải đi dạo, nó như kẻ cắp gian manh, rình rập. Đang bay, nó như muốn dừng lại, liếc xéo, nhìn ngang, vòng lui, hạ thấp. Mấy chú du kích mỗi lần nhìn thấy nó tức muốn lộn ruột. Cỡ nó “cắc bùm” là tiêu tùng liền. Tôi quay sang Vân:
- À! Trưa nay nếu mẹ chưa về, Vân qua nhà ăn cơm nghe.
- Mẹ nấu cơm sáng để phần trưa rồi.
- Chị Hai nói dạo này mắm, muối bán được lắm!
- Mẹ Vân bảo ráng đi vài chuyến nữa rồi dọn nhà về ngoại.
Tôi đá mạnh cục đất nằm bên vệ đường:
- Chán quá!
Vân tròn mắt nhìn tôi:
- Chán gì cơ?
- Không biết!
- …?
- Mình ghét đánh nhau. Chiến tranh là cái gì mình không biết, nhưng mình ghét nó, mình căm thù nó. Mình thề sẽ…
- Sao Hà em… hôm nay hung thế?
Một tốp máy bay ném bom giàn hàng ngang từ hướng Phú Lâm bay lên cắt đứt câu chuyện bọn tôi. Tôi cầm tay Vân chạy men theo hàng keo về nhà. Chiếc “Bà già” bay dọc theo đường cái quan, thấp lắm, tưởng chừng như cầm cù quéo đập cũng trúng. Bay lên đâu quãng Thạch Thành rồi quẹo lại, vòng vài lần biến mất. Hai đứa ngồi trước miệng hầm:
- Sao kỳ thế Vân nhỉ? Hình như nó đang tìm cái gì đó…
- Ừ! Chưa bao giờ mình thấy nó bay thấp như thế.
“Ùng! Ùng! Ùng!” Những tiếng nổ liên tiếp hất bọn tôi ngã nhào. Hai đứa hốt hoảng chui vô hầm, khiếp đảm nép thật sâu bên trong góc. “Ùng! Ùng…!” Căn hầm đặc quánh mùi bụi đất, tranh rơi. Bỗng cửa hầm tối sầm lại. Tôi kinh hoàng:
- Nhà sập rồi!
Chưa nói hết câu, một ngọn lửa đỏ ối phủ kín miệng hầm. Khó thở quá tôi há miệng thật to vẫn thấy ngạt thở, quần áo như đang bốc cháy. Thèm thở quá! Muốn hít thật mạnh nhưng không được nữa rồi ngực tôi căng cứng. Lửa lại tràn vào, căn hầm rực sáng, Vân nằm mềm nhũn bên cạnh và rồi tôi ngất đi.
Khi tỉnh lại, căn hầm ướt sũng nước. Không biết bọn tôi ngất bao lâu và chẳng nhớ được chuyện gì vừa xảy ra. Ngồi trong bóng tối lòa nhòa, mùi tro than ngai ngái, nồng nồng phả vào mặt, nước lạnh thấm vào người khiến tôi tỉnh hẳn. tôi hốt hoảng quay sang bên cạnh, Vân nằm lấp sấp trong nước cũng đang lồm cồm ngồi dậy. Chúng tôi bò ra miệng hầm, một cảnh tượng tan hoang đang hiện ra trước mặt. Ngôi nhà thân yêu giờ còn lại đống tro than. Những thân gỗ cháy đen được nước mưa dập tắt nằm chỏng chơ, đồ đạc ngổn ngang, vụn nát. Mưa vẫn đang to, tôi đưa mắt nhìn sang nhà bác Trong, thảng thốt:
- Cháy rồi! Cả nhà Vân… trời ơi! Cả xóm cháy trụi trơn…
Tôi dẫm bừa lên than gỗ, mảnh sành chum vại. Tôi chạy bất kể trong màn mưa trắng đục, Vân liu xiu, ngã nghiêng theo sau. Tôi lao qua vườn nhà bác Trong:
- Bà ơi! Bác ơi…!
Tôi bỗng khựng lại, ngôi nhà đã ba lần cháy sập vì bom đạn, cứ mỗi lần làm lại ngôi nhà nhỏ đi một ít, đến lần thứ ba nó như một cái chòi giữ vịt. Trên thềm nhà trống hươ trống hoát được nước mưa giội sạch, lổm nhổm giữa đồ đạc vỡ vụn là hai xác người cháy đen, co quắp trong tư thế cõng nhau. Tôi như chết điếng, đứng sững. Bỗng như có ai đó xô vào người, tôi thẩn thờ quay lại, Vân tái méc, ướt sủng nước ngả oằn vào tôi. Thời chiến tranh, xác người chết là không hiếm, tôi đã gặp đã thấy nhiều vô kể những thây người chết, kinh khủng có, bình thường có nhưng cảnh bác Trong cõng mẹ già không kịp chạy thoát, chết ngay trên hiên nhà. Tay bà vẫn còn đang ôm chặt cổ bác. những người đã gắn liền với tôi thời thơ ấu, đã bồng bế, yêu thương tôi giờ không còn nữa. Trời đang mưa, người tôi ướt sũng nước, có vị gì đó mặn mặn trên môi, tôi dụi dụi mắt. Súng nổ đì đùng khắp nơi, tôi nhìn Vân:
- Chẳng biết mẹ với chị Hai có gì không?
- Hà em ơi!… Vân sợ lắm, mẹ ơi!