← Quay lại trang sách

THƯƠNG NHỚ MƯỜI BA Trung thu của đứa bé bốn tuổi

Nó tên là thằng Hai Da vì bắp vế nó có cái bớt nâu to đùng, tên đó là bạn bè nó đặt. Bốn tuổi, nó gầy như que củi, đen thui, cái đầu thì to như quả dưa hấu, cái cổ chỉ nhỉnh hơn cổ tay người lớn, bạn nó bảo tau sợ mi gãy cổ.

Nó sợ thật, đi đứng luôn cố giữ cho cái đầu thật yên, thành thử đầu khi nào cũng cứng ngắc, mặt mày nghiêm trọng. Mạ nó nói thằng ni làm cái chi rứa hè! Nó nói con sợ gãy cổ, mạ nó cười rũ.

Bốn tuổi nó đã biết chữ, chẳng hiểu vì sao. Anh nó học bài, nó cứ chồm lên nhìn, thế là biết chữ. Một hôm ba nó ngồi viết thư, dòng đầu có câu anh chi thương nhớ. Nó hỏi răng lại anh chi, ba? Anh chị chớ.

Ba nó trố mắt nhìn nó: con đọc được chữ à. Nó nhăn răng cười nói chữ thì có chi mà không biết. Ba nó đưa tờ báo Nhân dân, chỉ cái đầu đề nói con đọc ba nghe. Nó đọc vanh vách.

Ba nó ôm nó lên chạy ba vòng quanh sân hét to: vơ làng nước ơi, con tui biết chữ đây nì. Chỉ một giờ sau cả xóm chạy tới. Người này đưa tờ báo bảo đọc, người kia đưa cuốn sách bảo đọc.

Lúc đầu nó sướng lắm, trương gân búng má đọc thật to, được người ta khen càng đọc rống lên, sau nhiều người bảo đọc quá, nó sợ, hễ có khách đến nhà là nó chui xuống gầm giường trốn.

Mạ nó không biết chữ, chỉ biết kí mỗi chữ Châu để khỏi lăn dấu tay. Từ khi biết nó biết chữ, cái gì cũng bắt nó đọc. Nỏ đang chơi hay ho cứ réo về bắt đọc, lắm khi nó tức phát điên.

Rồi các cậu, các mự, các bác ở gần nhà lúc lúc lại réo nó, bắt nó đọc cái này cái kia, hết báo chí, sách vở đến thư từ, đơn trương... kể cá hóa đơn chứng từ là thứ nó không biết gì cũng bắt đọc cho được.

Các anh chị lớn đều đi học, đi làm. Mình nó ở nhà. Thế là suốt ngày nó tất bật chạy hết nhà này sang nhà khác đọc chữ. Lắm khi nó vừa đọc vừa khóc, mọi người cũng không tha, nói thằng ni hay, đọc chữ thì có chi mà khóc.

Một hôm ba nó về, thấy nó đang tùm hum bên ang nước, nhúng đầu vào chậu nước. Ba nó hỏi con làm chi rứa. Nó nói con nhúng nước cho chữ chết hết đi, biết chữ cực lắm. Ba nó ôm nó khóc. Ba nó hay khóc lắm, chuyện gì cũng khóc.

Hôm đó đúng ngày rằm Trung thu tháng Tám. Nhà nó không có kẹo bánh, không đèn kéo quân, không có gì hết. Ba nó đưa cho nó bốn hào, nói ba thưởng Trung thu cho con.

Nó chạy ù ra hiệu sách mua cuốn Vua thủy tề, cuốn sách mà nó hàng ngày đến hiệu sách ngước nhìn thèm khát, đúng bốn hào. Đó là cuốn sách đầu đời của nó, đến chết nó cũng không quên.

Nó là thằng cu Lập và đó là Trung thu năm 1960. He he...

Năm lần trời đánh

Nghĩ vừa buồn vừa buồn cười, cái đầu mình bị năm lần trời đánh. Mỗi lần trời đánh xong thì trời lại cho một cái gì đó. Chắc ai cũng vậy, trời hành chuyện này thì trời lại cho chuyện khác, có điều người nhớ người không, người muốn kể người không muốn.

Mình nhớ rất kĩ cả năm lần trời đánh trúng đầu, định viết chuyện này lâu rồi nhưng cứ ngại, sợ có người lại nói mình khoe khéo. Miệng lưỡi thế gian mệt mỏi lắm.

Tối nay cố sửa cho xong một tập kịch bản phim ti vi, cả tuần ốm lên ốm xuống không sửa được, thật sự nóng ruột. Đến chỗ bí, ngồi đực mặt như ngỗng ỉa, tay chống cằm nghĩ, nghĩ thế nào mà bỗng sang mấy cái chuyện trời đánh trúng đầu của mình. Thôi dẹp, viết chuyện này cái đã.

Năm 1964 mình học xong lớp một, chuẩn bị lên lớp hai thì bị một trận bom kinh hồn. Lần này máy bay Mĩ đánh thẳng vào thị trấn, chỗ nào có nhà lầu đều bị bom hết.

Nhà mình ở gần trường cấp hai, gần huyện ủy, bom Mĩ cày nát hai khu này hơn tiếng đồng hồ. Bốn bề bom nổ nhà cháy, nhà mình bị bom tan ngay từ đợt bom đầu, mấy anh em mạnh ai nấy chạy.

Mọi người chạy rật rật, lội qua hói về Quảng Thuận, mình cũng chạy theo. Hói chỉ rộng hơn chục mét thôi, nhưng mà sâu. Người lớn còn bơi được, lội được, mình con nít lại không biết bơi cứ bám lấy bụi cây ở bờ hói, không biết làm sao qua được bờ bên kia.

Bỗng một quả bom nố rất gần, đẩy mình văng ra giữa hói, chẳng hiểu thế nào mình bơi ngửa được, bơi qua được hói, mừng hết lớn. Từ đó mình chỉ biết bơi ngửa cho đến lớp bốn thì mới học bơi sấp.

Vừa leo lên bờ thì mình bị một tảng đá (hay cái gì không nhớ nữa) rơi xuống đầu, ngất liền, tỉnh dậy thì thấy mình nằm trong nhà dì Thé, lúc này đã 10 giờ đêm, mình thấy mạ mình đang ngồi khóc bỗng hét lên con tui sống rồi ua làng! Ua làng con tui sống rồi. Bà chạy như người cuồng, vái bốn phương tám hướng.

Mọi người xúm lại tranh nhau nói, mình ngồi ngơ chẳng hiểu gì, chỉ hiểu đại khái mọi người tưởng mình chết, định đóng hòm thì mình tỉnh. Còn nhỏ chẳng thấy quan trọng, chỉ thấy đói, đòi ăn.

Mọi người tranh nhau cho ăn, đủ thứ, không biết cá thịt đâu mà sẵn, lần đầu được bữa cá thịt thỏa thuê. Sau này mỗi khi đói lại mơ mình được chết giả như hôm đó đế được ăn cá thịt.

Sau đó bỗng nhiên mình biết làm thơ, thích làm thơ, cũng chẳng nổi tiếng như thằng Hoàng Hiểu Nhân cùng huyện nhưng cả nhà mừng lắm, tự hào lắm.

Hồi đó hễ thấy đứa con nít nào biết làm thơ thì được coi như thần đồng, trong nhà ngoài ngõ rối rít cả lên. Chẳng phái như hây giờ thơ phú ế ẩm, con nít giỏi làm thơ cũng chẳng ai màng.

Hồi thằng cu Bi học lớp ba, đi thăm lăng Bác về hứng chí làm bài thơ, vợ mình đọc dược. Mình đi làm về, vợ mình chạy ra mặt mày tái mét nói thôi chết cha rồi anh Lập ơi, thằng Bi nó làm thơ. Cu Bi xấu hổ, tịt thơ cho đến giờ.

Anh cu Chanh nói trong đầu người ta có nhiều ô, ô toán, văn. ô thơ, v.v... Thằng Lập bị đá đập trúng đầu, ô thơ nó văng ra, rứa là làm thơ thôi. Còn nhỏ mình nghĩ anh Chanh nói trạng, hóa ra nghiệm lại thì không sai, lạ thật.

Lần thứ hai là khi mình lên lóp ba. Tối đó mình đang chơi nhà thằng Đương thì máy bay xẹt tới, thả hai quả bom. Mình chạy vào hầm, dẫm phải lưỡi cuốc dựng đầu hồi, cán cuốc độp một phát vào đầu, ngất luôn.

Tối om, mọi người lo chạy vào hầm. không ai biết. Đến khi hết máy bay, mọi người chui ra khói hầm thì ni mình cũng tỉnh, chẳng ai hỏi mà mình cũng chẳng kể, về nhà còn dấu mạ, tự nhai muối với xác chè đắp cái đầu sưng chứ không kể.

Sau vụ này chẳng có cái ô gì trong đầu lòi ra nhưng mình bắt cá, câu cá, nơm cá... làm gì cũng may. Từ chỗ lơ ngơ mình bỗng trở thành tay sát cá có tiếng, bạn bè đứa nào cũng nể.

Làm hố nhảy bắt cá, tụi bạn chỉ kiếm được mỗi hố chục con là may, mình cũng làm như chúng nó thôi nhưng hố nào chí ít cũng vài chục con. Một tối nhớ đời, mình đi xem xiếc về, ra thăm hố nhảy, cả tám hố đầy cá, bắt đầy hai gánh, không thèm nói ngoa.

Lần thứ ba là hồi lớp bảy. Giờ ra chơi mấy đứa nhặt gạch ném thi. Thằng Diệp cầm nửa viên gạch ném cái cực mạnh, vừa lúc mình không biết đi qua, gạch trúng đầu, ngất. Thằng Diệp cõng mình chưa tới trạm xá thì mình tỉnh.

Sau vụ đó mình thi học sinh giỏi huyện tỉnh gì cũng đoạt giải cả văn lẫn toán. Hồi đó ở đâu không biết chứ trường mình chẳng có chuyện luyện thi như kiểu luyện gà nòi như bây giờ đâu. Đến kì thi cử thì nhặt ra mấy đứa kha khá đi thi thôi, trường nhà quê cũng chẳng ai hi vọng gì.

Mình chẳng học hành gì, sáng đến lớp, chiều lên rừng lấy củi, ra đồng bắt cá, đến ngày thi thì xách cặp đi, bụng nghĩ làm được thì làm chẳng làm được thì thôi, thế mà được giải nhì toán, giải ba văn cấp tỉnh, sướng mê man cả năm trời.

Tất nhiên thi lên miền Bắc thì trật chỏng vó cả hai môn, nhung như thế cũng đủ cho bà con làng xóm nể phục, ba mình sướng quá còn khóc òa hôm nhận phần thưởng.

Lần thứ tư là năm 1982, khi đó mình còn ở lính, đóng quân ở Phước Tường - Đà Nẵng. Cuối năm đi xuống các tiểu đoàn kiểm tra sẵn sàng chiến đấu. Mình đứng cuối thùng xe tải cùng với anh Cường thượng úy. Xe lên dốc cầu Nguyễn Văn Trỗi thì chết máy. Mình và các sĩ quan trẻ dỏng mỏ xuống trêu mấy em xinh đẹp đi qua đi lại. Xe nổ được, thằng lái xe vào số gấp, giật mạnh một cái, mình và anh Cường rơi xuống, đập đầu đường nhựa, ngất xiu cả hai, vừa rạn hộp sọ vừa rạn xương bả vai, nằm viện 107 gần hai tháng mới ra viện.

Có điều lạ là từ 1975 đến khi đó mình chuyên làm thơ, chưa khi nào nghĩ đến chuyện viết văn xuôi. Sau khi ra viện, hình như ô thơ bị xẹp đi, ô văn xuôi nó lòi ra hay sao a, tự nhiên chán làm thơ, hí hoáy làm văn, và trúng, làm phát trúng liền.

Từ đó làm văn trúng văn, làm kịch trúng kịch, làm phim trúng phim. Chảng trúng gì nhiều, so với thiên hạ thì không bằng cái móng tay của người ta nhưng so với ước mơ đầu đời thi quá là quá to lớn, mình chưa bao giờ dám nghĩ tới.

Lần thử năm là lần tai nạn xe máy, lần này nặng nhất, chấn thương sọ não liệt nửa người, chuyện này nhiều người biết rồi, không kể nữa. Hồi mới bị cực khổ vô cùng, ăn có người đút, ỉa có người chùi, chỉ mơ làm sao mình tự đi ỉa được cũng không xong.

Buồn bực quá. Tóc bạc rất nhanh, mặt mày nhầu nhĩ, mỗi lần soi gương là một lần khóc. Điên, mình tính lết lên tầng chín rơi một phát cho xong đời. Hôm đó mất điện, mình cứ lết theo cầu thang bộ, quyết lên cho đến tầng chín. Sợ rơi tầng thấp không chết được vợ con lại khổ. May lết đến tầng tư, nghe tiếng con May ơ nó gọi ba ơi ba ơi ba đâu rồi, thương quá mình lại lết xuống.

Từ đó mình quyết định không chết nữa, quyết tâm tập đi từ một bước đến 10 bước, từ 10 mét đến 1000 mét, thế mà thành. Mình mở một cuộc rượu mời bạn bè đến nhậu, nói từ nay chúng mày đừng đến thăm tao nữa. Chúng mày đến, tao lại mặc cảm là con bệnh còn khổ hơn.

Nghĩ lại năm năm qua, xét về số lượng mình đã viết thật đáng ngạc nhiên. Chưa tính chính xác nhưng chắc chắn gấp nhiều lần số trang viết hai chục năm trước mình viết trong khỏe mạnh, sung sức.

Nếu trời không cho thì làm sao viết được như thế? Lại còn bờ lóc bờ leo he he he.

Nói thế thôi, cái sự què quặt chán lắm, nhiều chuyện cay đắng không nói ra hết được. Nếu Bụt hiện ra nói một là con được giải Nobel, hai là con lành lặn, con chọn điều gì? Lập tức mình ôm chân Bụt mà kêu lên Bụt ơi Bụt ơi cho con được lành lặn.

Tình thật là như vậy.

Hồn quê đâu rồi

Mình có mười năm sống ở làng Đông từ năm 1965 đến năm 1975 thế kỉ trước, có thể nói toàn bộ kí ức tuổi thơ của mình là ở nơi đây.

Làng Đông lạ lắm, giống như một rẻo đất Nam Bộ rơi xuống một huyện phía Bắc Quàng Bình, có mai vàng ngày tết có rặng trâm bàu phía sau làng chim chóc tha hồ, và cánh đồng ngầu bùn non sục đến tận bẹn, đầy tôm cá. Người ta nói cơm làng Xá cá làng Đông cũng vì thế.

Cá ở đây nhiều đến nỗi con nít chín mười tuổi như mình cũng bắt được cả rổ cá như thường. Nhớ mãi chiều mùa hạ năm lớp ba, mình đang đi trên bờ ruộng, nghe tiếng lóc bóc trong ruộng lúa nếp, nhảy xuống ruộng bỗng đứng ngây ra, cứ trong mỗi hố chân đọng nước là một con cá rô hoặc cá lóc. Bắt hết cá trong ruộng lúa nếp được một gánh đẩy.

Thành thử tết nhất ở đâu lo cá thịt chứ làng Đông chả lo, thiếu lúa thiếu khoai không ai thiếu cá. Ngày hăm tám hăm chín tết vác vó, đem nơm ra đồng, cất cất nơm nơm chừng hơn một tiếng là có thừa cá ăn ba ngày tết. Bây giờ kể lại cho chính con nít làng này chúng nó cũng chả tin.

Hầu như nhà nào cũng có mai vàng trồng trước sân, người ta chơi mai cây trồng, trong nhà chỉ vài bình hoa lay ơn, cúc, lan... chiếu lệ, chủ yếu vẫn đua nhau chăm chút cây mai chờ đến ngày tết.

Khách đến nhà, ai nấy đều dừng lại ngắm nghía, thế nào cũng có vài lời bình phẩm cây mai chủ nhà, coi như lời chúc tết đầu năm. Người nói chà, mai lắm lộc hè, ra năm làm ăn hanh thông đây. Người nói thế mai hay lắm. nhìn cái thế biết nhà này dứt khoát đắc tài, đắc lộc. Người nói trời gộc mai hay quá, thế chân kiềng, phúc phận nhà này vững lắm vững lắm.

Ấn tượng nhất là cây mai nhà thằng Diệp. Nó cao chừng hai mét, tán hình mâm xôi, đường kính ba mét, ngày tết hoa nở rộ, vàng tươi, nhìn xa như mâm xôi vàng vĩ đại, đẹp vô cùng. Người ta nói nhà nó giàu nhất làng vì có cái mai đẹp nhất làng.

Bọ thằng Diệp chết, cây mai cũng tàn rồi chết luôn, nhà nó từ đó cũng làm ăn sa sút.

Ngày tết cứ đi dọc làng, hễ thấy nhà nào không có cây mai hoặc mai xấu, già cỗi, tàn lụi thì biết chắc nhà đó thiếu đói, cấm có sai.

Ba mình không thích mai, ông kiên trì trồng đào, trồng cây nào chết cây đó, suốt mười năm ba mình kiên trì trồng đào chẳng cây nào chịu ra hoa, nhà mình mười năm luôn ở tình trạng nợ nần chồng chất. Nghĩ cũng lạ quá.

Ngày tết người lớn ở trong làng, trẻ con rủ nhau kéo cả ra sau làng, áo mới tung tăng đùa nghịch tha hồ dưới rặng trâm bầu, hết đánh đu kéo co lại cướp cù đá bóng, vui lắm. Mệt thì chui vào các gốc cây trâm bầu, nằm dang chân dang tay, ngửa mặt ngắm những con chim sâu bé tí hin nhảy nhót lách chách, hoặc leo trèo tìm hái những quả trâm bầu chín tím mọng, bỏ mồm nhai nhóp nhép.

Người ta nói rặng trâm bầu làng Đông là cái tổ chim của trời. Nhiều loại chim tụ cả về đây. Chim sẻ, chim chào mào năm nào cũng kéo nhau về. Có năm chúng nó về hằng hà sa số, cây trâm bầu nào cũng có vài trăm con đậu bám. Nếu có ai đó nổ vài phát súng, chim giật mình bay túa lên đen đặc cả bầu trời.

Ba ngày tết con nít tíu tít trên cát, chim chóc rối rít trên đầu, chưa thấy ai chụp ảnh vẽ tranh về cảnh ấy, tiếc vô cùng.

Nhưng nơi tụ hội vẫn là đình làng. Đình làng Đông to lắm, con nít ôm cột đình không xuể, cao bốn, năm mét, toàn gỗ lim, chạm nổi rồng bay phượng múa rất đẹp. Sân đình rộng mênh mông, hơn bốn nghìn mét, lát đá xanh đẽo phẳng lì. Nó là một ngôi đình nổi tiếng, được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp nhà nước, có cái chuông đúc từ năm 1875 to bằng cái bồ, chỉ cần chui đầu vào lòng chuông hà hơi mạnh một cái. chuông cũng rung lên.

Đình làng nằm phía sau làng, dưới rặng cây dẻ trắng. Cây dẻ trắng khác hẳn cây dẻ rừng, thân trắng như cây bạch dương, cao lớn gấp mấy cây dẻ rừng, nhiều cây cao vút mấy chục mét, thẳng từ gốc cho đến ngọn, đình làng nhờ thế mà quanh năm mát rượi.

Năm 1966 bệnh viện anh hùng huyện Quảng Trạch sơ tán lên đây, nhà văn Bùi Hiển đã sống trong rừng dẻ trắng này cả tháng trời để viết cuốn Ở một bệnh viện. Nhà thơ K. Ximonov đem đoàn làm phim Nga về đây để quay phim Nỗi khổ đau này đâu phải của riêng ai, nhiều buổi trưa hè ông đã ngủ ngon lành dưới tán cây dẻ trắng. Bây giờ đọc lịch sử đình làng chẳng thấy ai nhắc, toàn nhắc mấy chuyện họp chi bộ đầu tiên, nghị quyết đầu tiên cả mà thôi, hu hu.

Tết đến, ngày cũng như đêm đình làng không bao giờ ngớt người. Từ 23 tết chuông kêu trống đánh mõ gõ rộn ràng, ngày thì hội thi nấu cơm hội cúng thần hoàng hội vật, đêm thì hát nhà bội hát bài chòi hát đối - văn nghệ mừng Xuân mừng Đảng... Rồi thì cờ tướng chọi gà đánh đu, rồi thì vật tay kéo co múa võ... vui cực.

Trai gái chơi sân đình chán thì lén gọi nhau ra rừng dẻ trắng, từng đôi từng đôi quấn lấy nhau quanh các gốc cây, ngày thì tỉ tê khóc khóc cười cười, đêm thì âu yếm ve ve vuốt vuốt, mê li con cà cưỡng.

Ba mươi mấy năm rồi hễ nhớ tới làng Đông, thể nào kí ức về rừng dẻ trắng cũng chiếm mất một nửa. Hồi đó còn bé, chưa biết yêu đương gì, chỉ bò hết gốc cây này sang gốc cây khác nhìn trộm đã đời luôn, he he.

Tết năm ngoái cu Vinh (Nguyễn Quang Vinh) lái ô tô chở về thăm làng. Mình đem cả ba đứa con về, cho chúng nó thăm cái làng mà tết năm nào mình cũng kể cho chúng nó nghe với bao nhiêu háo hức.

Vừa tới cổng làng đã thấy lành lạnh, mới mồng hai tết đường làng đã vắng hoe. Đi dọc đường làng không thấy có ai dựng nêu trồng mai. Cây cối chết đâu cả. xưa đường rợp bóng cây giờ trơ con đường đất sét, lơ thơ vài cây phi lao.

Sau làng rừng dẻ trắng mất tăm không dấu tích, chi còn thưa thớt những khóm trâm bầu lúp xúp nằm im lìm trên cát, không một tiếng chim kêu, im lặng như một nấm mồ.

Cái đình làng vắng tanh, lạnh ngắt, bốn bức tường ngôi đình quét vôi trắng xóa, viết nguệch ngoạc dăm bảy câu khâu hiệu. Cái chuông đồng không còn. Bây giờ người ta chỉ tụ họp đình làng chào cờ sáng mồng một, xong rồi ai về nhà nấy. Chắng biết người ta cất cái chuông đồng đi hay là bị ăn cắp mất rồi.

Cây đa đầu làng đứng lặng câm giữa hoang vắng, nó đã quá già, lơ thơ vài chiếc lá vàng trên những cành khô. Ngày xưa nơi đây những trưa mùa hạ đầy trẻ con chơi, người làm đồng về dừng chân nghỉ ngơi, đứng ngồi chuyện trò rôm rả, bây giờ không một bóng người. Đường ra đồng đã đổi khác, cây đa đành phải đứng trơ.

Ba cái giếng làng cũng thế, nơi trai gái tụ họp hẹn hò những đêm trăng, nơi những buổi chiều trẻ con quây quần tắm táp, bây giờ chẳng ai vãng lai. Nên giếng lở lói, nước giếng vàng khè, có lẽ nước nhiễm bẩn không ai dám dùng nữa.

Bốn cha con đứng buồn thiu giữa sân đình đầy nắng, làng vẫn còn đó, không đói nghèo không rách rưới nhưng cây đa giếng nước sân đình thì xong om. Vẫn rất nhiều người giàu sang phú quí, nhưng hồn vía của làng thì đã mất rồi, mất từ lâu lắm rồi.

Mình vào thăm nhà anh mẹt Vân, anh dọn ra đĩa thịt kho nhắm rượu, nói tết nhất không có con cá cúng ông bà... đau lắm, muốn có cá phải xuống Ba Đồn mua mà tiền thì không có. Mình nói không lẽ đồng làng mình cá chết hết sao, anh cười buồn nói chết hết, mai chết, cá chết, chim chết, trâm bàu dé trắng chết.

Mình nói chết hết thật hả anh, anh gật đầu hậc lên một tiếng, nói ừ chết hết em ạ, chỉ còn trơ khấc một đống người với một mớ khẩu hiệu nữa thôi.

Thương nhớ vỉa hè

Thương nhớ gì lại đi thương nhớ vỉa hè, có mà dở hơi. Nhưng mà thương nhớ thật, nhiều khi tay chống cằm nhìn qua cửa sổ thấy vỉa hè nhốn nháo ngày nay bỗng nhớ thương da diết vỉa hè ngày xưa.

Nhớ thương vỉa hè là nhớ thương của những kẻ chân quê. Xứ mình là xứ nhà quê, nơi đô hội cũng chỉ rặt dân quê cả mà thôi, dù có hóa trang đến giời thì cái chất quê kiểng không sao bỏ đi được.

Hà Nội có cây xanh có ao hồ có vỉa hè, thiếu ba thứ đó không ra Hà Nội. Cái chất quê nghìn năm xứ Việt tụ cả lại nơi đây, tạo nên vẻ đẹp thuần Việt mê hồn. Phố xá bây giờ ở đâu cũng nhung nhúc đám giả cầy, nhờ có ba thứ đó Hà Nội vẫn nguyên bản sắc. Nói Hà Nội thanh lịch là nói cái vẻ dịu dàng nền nã kín đáo e ấp chân quê của nó chứ không phải thói trau tria tô lục chuốt hồng cả áo quần lẫn ngôn ngữ, kiểu như ông tiến sĩ ngôn ngữ X. từng nức nở Hà Nội thanh lịch không nói ăn mà bào là xơi, đừng có mà nhầm.

Người Việt ở xứ Tây sở dĩ được người ta quí mến vì tư chất thông minh cộng với chất quê Á Đông đổ ra cả tấn vàng cũng không sao mua được, đừng có tường bở mà giở dói thói thị dân nửa mùa ra, ăn cứt với chúng nó có ngày.

Trước đây mình ở Lò Sũ, tít ở trong ngõ sâu, nhà chật người đông, thiếu sáng thiếu khí, thành thử hai phần đời tha thẩn với vỉa hè. vốn dân quê quen sống thông thoáng rồi, ngồi ở đâu mà thấy gò bó khó chịu lắm.

Vào nhà hàng sang thấy mình bân bẩn tồ tồ thế nào a. Lại thêm nhạc nhẽo, người nói tắt nhạc đi, người nói vặn to lên, người nói cho nghe bài này, người nói ê ê đổi bài kia... Ôi thôi mệt người. Nhào vào các quán bia hơi chật ních người, vừa nói vừa hét, chẳng ai nghe ai, đinh tai nhức óc.

Hồi trẻ mình cũng thích nhào vô mấy chỗ đông đúc ồn ào, giờ già rồi không thích nữa. Giờ nhậu đâu quan tâm đến cái view nhiều hơn là đắt rẻ ngon dở, quan tâm đến cái để chuyện trò hon là cái để ăn uống. Vỉa hè tĩnh mà không vắng, thoáng mà không thưa, ngồi quán cóc vỉa hè thấy mình đúng là anh dân quê đang ngồi ở sân nhà mình, tự nhiên thấy yên tâm thoải mái hẳn.

Vỉa hè đêm thường dành cho đám cần lao. Hàng Cót chân gà, Quán Thánh bò nướng, Cát Linh chim quay. Phố Đinh Tiên Hoàng có quán chân gà nướng rượu Vân, trải chiếu cả dọc dài, ngồi xếp bằng nhai chân gà rau ráu. Có đêm mình với Bùi Thanh, Lê Đức Dục ngồi nhậu đấy đến ba, bốn giờ sáng mới chịu ra về.

Xưa hai vỉa hè phố Lò Sũ, bốn góc vỉa hè ngã tư Nguyễn Hữu Huân - Lý Thái Tổ cũng là phố ăn đêm, vui lắm. Khách chủ yếu là đám dân quê tứ phương về Hà Nội kiếm sống, kẻ xích lô người xe ôm, kẻ thợ mộc người phụ nề, kẻ tẩm quất người ăn xin, cả trộm cướp đĩ điếm nữa... chừng nửa đêm tụ về trải chiếu kê gạch lót báo, tụm năm tụm ba ăn ăn uống uống vui lắm.

Lam lũ suốt ngày, giờ là lúc thảnh thơi nói chuyện trên trời dưới biển, toàn chuyện trên trời, tuyệt không ôn nghèo kể khổ, than vắn kể dài. Người nói cụ K. về nghỉ uổng quá nhi, người nói thôi cho cụ nghỉ, cụ tẩm bổ tắc kè cá ngựa hầu vợ chút, chứ bắt cụ làm cách mạng hết dời a, mọi người nói phải phải, cứ thế mà râm ran. Người nói thằng Bin Clinton sang mình, nó đi ăn cơm bụi như tụi mình nhé, người nói phét, tổng thống mà đi ăn cơm bụi, cứ thế mà ồn ào.

Mình viết lách đến nửa đêm lại tót ra đấy ngồi chầu rìa hóng chuyện, ối chuyện hay mót được từ những đêm như thế.

Sáng ra vỉa hè hứng hết dân phố, đâu đâu cũng có quà sáng, quán nước chè. Pha chè uống ở nhà dù ngon mấy cũng không thể bằng ngồi quán cóc. Hớp chén chè nóng, ăn cái bánh rán cái kẹo lạc, hút điếu thuốc lào, vếch mày ra phố nhả khói... sao mà thấy đòi thật thong dong.

Dọc phố Bà Triệu các cụ đồ Nho ngồi bán chữ. Thỉnh thoảng mình vẫn lang thang tán chuyện các cụ chơi vui. Cụ nói 10 người đến xin chữ thì có đến tám người xin chữ nhẫn, chẳng hiểu sao. Cụ nói sao nữa, xin phúc lộc thọ làm gì, mấy thứ đó trời phân phát hết rồi còn đâu nữa mà xin. Cụ nói phải phải, xứ mình muốn yên phận thì phái biết nhẫn, không nhẫn không xong đâu.

Hàng Tre, Đường Thành xưa là nơi dân cắt tóc hành nghề. Cứ một cái gương treo, một cái ghế mộc, dăm ba cái dao kéo tông đơ là thành quán cắt tóc, cắt tóc ở đấy vừa nhanh, không phải đợi, vừa đẹp vừa rẻ. Đa số thợ cắt tóc là bộ đội phục viên, vừa cắt tóc vừa kháo chuyện văn nghệ sĩ.

Người nói ông Nguyễn Văn Thiệp tịt văn chương rồi, vừa xây cái tượng Phật to lắm. Người nói ông Ngô Bào Ninh viết Nỗi buồn chiến tranh, sao không viết Nỗi buồn hòa bình nhỉ. Người nói ngu ngu, Ngô Bào Ninh à, Phạm Bảo Ninh chứ. Người nói ngu ngu... ông này Hoàng Bảo Ninh con ông Hoàng Tuệ. Người nói tôi biết Báo Ninh nhé, ông hay ra mua rượu quán vợ tôi, vợ ông là giáo viên đẹp lắm, chân dài cực. Vui ghê, không đến đấy cát tóc thật phí cả nghề văn.

Dọc đường Hùng Vương, Lý Thái Tổ, Phan Đình Phùng... ôi, nhiều đường lắm, cứ vài trăm mét lại gặp mấy ông hưu trí ngồi đánh cờ, lúc lúc lại thấy một ông bày cờ thế ngồi chồm hổm thách khách bộ hành.

Góc phố nào cũng có tụi con nít chạy loăng quăng đá bóng, nhảy dây. Mấy thiếu phụ vắng chồng, dắt con nhó tha thẩn đứng hết góc này sang góc nọ, gió thôi tóc bay váy lộng, vào mùa lá rụng cảnh ấy đẹp lịm người.

Bây giờ thì không còn nữa, một khi hàng hóa túa ra thì vỉa hè teo lại nhường chỗ cho mưu sinh, ô tô chiếm hết lòng đường thì xe đạp xe máy nhảy lên hết vỉa hè, mỗi đường phố chỉ còn vài khúc thảnh thơi, còn thì mất sạch mai mốt có lẽ không còn cái vía hè nào cho đúng nghĩa vỉa hè Hà Nội.

Không còn vỉa hè cũng tắt luôn tiếng rao đêm. Tiếng quất ơ ông già mù tầm quất, tiếng lộn ơ chị Mến phố Hàng Than, tiếng bánh bao nóng giòn đê, bánh mì nóng giòn nào vẫn rỉ rả vang lên đêm tĩnh mịch... Khắp chốn kinh kỳ, ở đâu thị trường thời mở cửa bao vây ở đó văn hóa Việt chỉ còn ngắc ngoải sống, không phải chết tức tưởi là may, văn hóa vỉa hè thì cũng thế.

Nhớ mãi một chiều Trần Dần chống gậy đứng phố Nguyễn Du lom lom nhìn ra đường, mấy sợi râu rung rung như sợ hãi như giận dữ. Thốt nhiên ông ôm ngực ho, vừa ho vừa chỉ ngón trỏ lên trời, nói tôi muốn nuốt Hà Nội vào lòng, trớ ra đô thành dởm. Đó là câu thơ cuối cùng mình nghe Trần Dần đọc, ông bỏ Hà Nội về trời năm 1997, năm mà vìa hè chính thức bị thương trường thời mở cửa xâm lăng.

Thế nên mới nhớ. Nhớ Phùng Quán guốc mộc áo cánh lui cui đi dưới mưa phố Phan Đình Phùng. Nhớ Bùi Xuân Phái ngồi dưới cây phượng già phố Hàng Buồm gật gù chén rượu Vân. Nhớ Tào Mạt chân nam đá chân chiêu đường Hoàng Diệu, Lưu Ọuang Vũ đứng tè góc phố Yết Kiêu. Nhớ cả Trịnh Công Sơn thỉnh thoảng ra Hà Nội trắng đêm tiệc tùng lại trở về góc đường Lê Phụng Hiểu với chén rượu trắng cầm tay, rưng rưng hát một câu gì.

Ôi không còn vỉa hè, danh sĩ nước Nam ta biết ẩn nấp vào đâu...

Kỷ niệm nhỏ về Võ Đại tướng

Dân Quảng Bình ỏ' Hà Nội hầu hết đã gặp cụ Võ, dân làm báo viết văn Quảng Bình hầu hết đã đến nhà cụ chơi, thế mà mình thì không.

Bữa trước ngồi nhậu với Trần Quang Đạo, Bảo Ninh, Nguyễn Hữu Quí, chúng nó hẹn đến chơi nhà cụ, mình không đi.

Anh Mĩ rất gần gũi cụ, xưa đã từng theo cụ cả năm trời vào cái thời lấy Tây Nguyên làm thủ đô kinh tế, với cô Hà lại là chỗ thân thiết, anh bảo mình đến chơi mấy lần, nhưng mình ngại, không đến.

Chẳng phải vì sợ mang tiếng thấy người sang bắt quàng làm họ, chỉ vì mình ngưỡng mộ từ lâu rồi, ngưỡng mộ thấm tận xương tủy, bây giờ gặp chẳng may vì lí do gì đó làm mình thất vọng thì chán lắm.

Đã có đôi ba người ở xa thì yêu quí kính trọng vô cùng, khi gặp cái là chán ngoét, đôi khi vì chuyện đó mà buồn cả tháng. Thành ra mình quyết định ở xa ngưỡng mộ cụ thôi.

Dân Quàng Bình, là nói dân sở tại, ai cũng có thể chê bai, kể cả bô mẹ, nhưng cụ Võ thì không, tuyệt nhiên không. Thế gian có ba người dân Quảng Bình thờ phụng đó là Chúa, Phật và cụ Võ.

Họp hội đồng hương năm nào cụ cũng đến, hễ cụ đến trễ tí là lại xôn xao, thì thào không biết có chuyện chi mà giờ này cụ chưa đến. Cụ nói nhỏ, người nghe thì đông, hầu hết chẳng nghe gì nhưng hễ cụ nói xong ai nấy đều hân hoan như vừa nghe xong thánh chỉ.

Chẳng phải thời cụ làm quan cụ lo lót được cho dân Quảng Bình. Mình hỏi nhiều ông quan to Quảng Bình cụ Giáp có bố trí được ghế này ghế nọ không, ai cũng thở hắt ra nói có mô. Hễ có việc gì của tỉnh người ta chạy đến chỗ nọ chỗ kia chứ chẳng bao giờ chạy đến cụ.

Thì Phật, Chúa tóm lại có lo được dân chút gì đâu nhưng có đánh chết dân vẫn không thôi thờ phụng. Cụ Võ cũng thế thôi.

Quý Doãn nói cụ đánh hai đế quốc to đã trợt mặt rồi, mình còn đòi hỏi cụ cái chi nữa.

Thời xưa các ông bộ chính trị đều có ảnh phóng to, lồng khung treo tường cả. Mình còn bé chẳng biết ông nào ra ông nào, chỉ duy nhất cụ là mình biết, bởi vì cụ là Đại tướng. Con nít thì Đại tướng là ghê gớm nhất còn mấy cái chức khác thì mặc kệ, chẳng quan tâm.

Sáu, bảy tuổi ngồi há mồm nghe anh Chanh, anh Út kể chuyện cụ, sướng rêm người.

Anh Chanh kể tướng Đờ Cát gọi điện cho Cụ Hồ xin tha. Cụ Hồ hỏi Đại tướng ý kiến chú ra răng? Đại tướng nói thưa Bác thằng mô tha thì tha chứ Đờ Cát thì dứt khoát không tha. Tụi mình vỗ tay rào rào nói đúng đúng không tha không tha.

Anh Út kể đội bóng đá nước mình đá với đội Trung Quốc, bị sút quả 11 m, nếu bắt thì thủ môn sẽ vỡ ngực chết, không bắt thì thua. Trưởng đoàn gọi điện cho cụ Hồ hỏi thưa Bác có bắt không, cụ Hồ thương thủ môn chết tội, định nói thôi không bắt. Đại tướng ưỡn ngực rập chân nói thưa Bác dù chết Tổ quốc mình cũng không thể thua. Cả lũ nhảy lên reo hò đúng đúng, dù chết cũng không thua.

Rồi xúm lại hỏi anh Út cuối cùng mình có thắng không. Anh Út vênh mặt lên nói thắng chớ răng không thắng. Sướng muốn ngất luôn.

Đại khái cái gì Cụ Hồ cũng hỏi Đại tướng, cái gì Đại tướng cũng quyết định ngon lành, toàn trúng không thôi. Tâm hồn bé thơ của mình đầy ắp những chuyện như thế.

Mấy chục năm sau, hình như năm 1980, đang ăn cơm bỗng nghe tin cụ được phân làm Trưởng ban Sinh đẻ có kế hoạch, bỏ cơm nằm khóc rưng rức suốt cả buổi chiều. Tâm hồn bị tổn thương trầm trọng giống như thấy người ta đang làm nhục bố mình.

Năm sau, kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ, đài ngâm bài thơ Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, mình ngồi phục xem người ta có ngâm câu Hoan hô Đại tướng Võ Nguyên Giáp/ Sét đánh ngày đêm xuống đầu giặc Pháp hay không. Hóa ra không.

Điên tiết mình đập tan cái đài của anh Đuya, sau phải vay tiền gần chết mua cái đài mới đền anh.

Năm 1984, đoàn kịch Quân đội dựng vở Bài ca Điện Biên, hình như kịch bản của Sĩ Hanh, Doãn Hoàng Giang đạo diễn. Nghĩ bụng chắc người ta chẳng mời cụ đến dự đâu. Hóa ra cụ đến. Bụng phục thầm quân đội quá xá, chỉ có quân đội gan mới to thế chứ chẳng ai dám đâu.

Mình đứng cuối hội trường hồi hộp chờ xem cái đoạn kết. Đoạn kết có chi tiết chính ủy mặt trận báo cáo chiến dịch thắng lợi, chỉ mỗi câu báo cáo Đại tướng hay báo cáo Đại tướng Võ Nguyên Giáp mà cãi nhau ỏm tỏi.

Anh Giang thì cứ tủm tỉm cười nói rồi mày xem anh xử lí thế nào.

Vở kịch quá dài, hơn hai tiếng, xem mệt cả người, rồi cũng đến hồi kết. Khi tập thì anh Đoàn Dũng, trong vai chính ủy mặt trận, chỉ quay điện thoại về chí huy sở mặt trận báo cáo với Đại tướng. Nhưng khi đó, anh Đoàn Dũng chạy vụt xuống đứng trước mặt cụ, rập chân ưỡn ngực chào.

Cụ bị bất ngờ, lúng túng đứng lên.

Anh Đoàn Dũng nói to, dõng dạc từng tiếng một: Báo cáo Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tư lệnh mặt trận, chiến dịch Điện Biên Phủ đã hoàn toàn thắng lợi. Tướng Đờ Cát đang ở trước mặt chúng ta.

Cả ngàn người vụt đứng dậy vỗ tay như sấm rền, kéo dài hơn 10 phút, nhiều người khóc òa.

Mình bật khóc nức nở, chạy ra khỏi hội trường đứng khóc, hét to ôi sướng quá trời ơi.

Tối đó về nhà nằm lúc lúc lại bật khóc. Đang viết những dòng này cũng nước mắt như mưa.

Tết miền thơ ấu

Cứ gần đến tết mình lại ngồi nhớ con Hà, hơn bốn chục năm rồi không sao quên được nó. Con Hà cũng bốn tuổi, trăng trẻo xinh xắn, cười có lúm đồng tiền chấm phẩy. Nó ở sát ngay nhà mình, chẳng biết thân nhau từ khi nào nữa.

Tết năm 1960 mình năm tuổi, con Hà cũng năm tuổi. Nó sinh tháng Giêng, mình sinh tháng Ba, nó nói tau hơn mi hai tháng, mi phải kêu tau bằng chị chớ, mình nói ẻ vô kêu mi bằng chị, nó nhăn răng cười, lúm đồng tiền chấm phẩy hồng tươi.

Ngày 22 vẫn chưa thấy có gì, trong nhà ngoài ngõ vẫn vắng hoe. sang đến ngày 23 bỗng rộn ràng hẳn lên, nhà nào cũng dựng cây nêu, đã nghe mùi hương khói, mùi xôi, mùi thịt cá thơm lừng. Người lớn tất bật hết chạy chợ lại nháo về nhà mua mua bán bán, có khi vừa chợ về đã vội vã nháo trở ra.

Mình với con Hà cũng đi chợ tết, đứng chôn chân gian hàng đồ chơi. Hàng tò he ngày thường đã thích, ngày tết thì mê đi, bao nhiêu anh hùng hảo hán xanh xanh đỏ đỏ, đứng đứng ngồi ngồi trên tấm chiếu hoa. Con Hà nói ông Quan Công đó tề, mình nói ông Trương Phi đó tề, mình nói a a Tôn Ngộ Không, con Hà nói a a Trư Bát Giới. Hai đứa mải mê nhìn, thèm quá thích quá, nước mũi nước miếng chảy xuống tận cổ.

Ngày 23 tết hai đứa đứng ngửa cổ nhìn ba mình dựng cây nêu trước cổng. Cu kêu ba tiếng cu kêu/ Trông mau tới Tết dựng NÊU ăn chè. Cây tre tươi cao vói treo lủng lẳng cái giỏ nhỏ đựng cau trầu, buộc mảnh vải vàng tươi bay phấp phới và gắn mảnh tôn sắt màu đỏ hình mũi tên trỏ về hướng Đông, chỉ có vậy thôi mà ngây ngất.

Con Hà nói nhà tau cũng trồng cây nêu rồi, mình nói nêu nhà tau cao hơn, con Hà cong môi, nói nêu nhà tau cao hơn, mình nói nêu nhà tau, nó nói nêu nhà tau... rồi nhăn nhăn răng cười, túm tay mình nhảy chân sáo, vừa nhảy vừa hát Cành đa lá dứa treo kiêu (cao)/ Vôi bột rắc ngõ chớ trêu mọi nhà/ Qui vào thì Qui lại ra/Cành đa lá dứa thì ta cứa mồm.

Lâu lâu hai đứa lại đứng ngửa cố nhìn mãi mảnh vai vàng bay phấp phới. Mình nói áo cà sa của Phật đó, con Hà nói áo Phật mần chi, mình nói ba tau nói Phật mặc áo cà sa bay lượn trên không, xua đuổi ma quỉ. Con Hà chỉ cái mũi tên sắt, nói cái nớ mần chi, mình nói ngón tay Phật đó, con Hà tròn xoe mắt, nói rứa a, tay Phật mà rứa a.

Mình nói ừ, Phật chỉ tay hướng Đông, hét bớ ma quỉ cút đi cút đi, ma quỉ con mô liều mạng xông vô, Phật chìa ngón tay nhọn hoắt đâm phát lòi mắt, đâm phát trúng tim, ma quỉ chết luôn, a ha ha. Con Hà cười theo, đập tay mình kêu dzê-ê!

Mình nói ma quỉ chết hết rồi, ông bà tổ tiên mới từ trời sa xuống cây nêu, lấy cau trầu trong giỏ ăn, rồi bay xuống bàn thờ ăn tết với cả nhà. Con Hà nói ai nói ai nói, thiệt không thiệt không. Mình nói ba tau nói. Con Hà lại nhảy lên, nói a ha rứa là ông bà không chết ông bà chỉ đi xa thôi, đập tay mình kêu dzê-ê!

Hai đứa cùng tụi con nít kéo nhau chạy từ nhà này sang nhà khác, tranh nhau chỉ trỏ tranh nhau khoe khoang, đứa này nói nêu nhà tau cao, đứa kia nói nêu nhà tau cũng cao, nhà tau có xôi, nhà tau cũng có xôi, nhà tau có xôi gấc có thịt gà, nhà tau cũng có thịt gà có cả cái đầu heo, nhà tau cũng có đầu heo, phét phét nhà mi không có, có có không tin thì thôi... rồi nhảy cà tẩng hét vang ôi ôi tết đến rồi sướng quá sướng quá.

Nghe tiếng lợn kêu nhà nào cả lũ ba chân bốn cẳng chạy đến nhà đó, chầu chực chờ người lớn ném cho cái bong bóng lợn, thổi phồng lên làm quả bóng, cột dây kéo chạy ù ù dọc triền sông.

Mình cầm bong bóng chạy trước, con Hà chạy sau, nói cho tau chơi với cho tau chơi với. Đuổi không kịp, nó đứng dậm chân mếu máo, nói ẻ vô chơi với mi nữa. Mình đưa bong bóng cho nó, nó cầm bóng chân chạy miệng kêu a a a...vang cá triền sông.

Chiều tối mạ mình sai bê cái chậu nhỏ đựng ba con cá chép ra thả sông, con Hà chạy theo, nó con gái không được mạ nó cho đi thả cá. Hai đứa vừa đi vừa ngắm ba con cá, con Hà nói ông Thổ công cưỡi con mô, mình nói con ni nì, nó nói ông Thổ công to nhất à, mình nói ừ to nhất. Con Hà lại hỏi ông Thổ địa cưỡi con mô, bà Thổ kì cưỡi con mô, mình chí bừa con ni con ni, thế mà nó cũng tin.

Bờ sông đầy người thả cá chép. Hai đứa bắt từng con một thả sông, miệng hát Nay mừ tứ hải đồng xuân/ Tam dương khai thái, muôn dân hòa bình, mắt mơ màng ngước lên trời cao như thấy ba ông bà Thổ công, Thổ địa, Thổ kì cưỡi cá chép bay đến Thiên đình. Mình chép miệng, nói mình được cưỡi cá chép bay lên trời cái hè, con Hà gật gật, nói ừ, hai đứa ngồi một con liệng vòng vòng vèo qua nhà chào ba mạ rồi bay vút lên trời he he.

Chiều ba mươi đã háo hức áo mới, mặc vào chạy rông khắp xóm khoe, cứ đứng ngoài ngõ nhà người ta nhìn vào, muốn khoe lắm nhưng ngượng, có người khen chà, cu Lập có cái áo đẹp hè, sướng rêm, lại chạy sang nhà khác.

Tất nhiên mình chạy sang nhà con Hà đầu tiên, con Hà sờ sờ vuốt vuốt cái áo, nói áo ca rô đẹp hè đẹp hè. Mình nói anh Mĩ tau ở Liên Xô gửi về đó, nó nói Liên Xô ở mô, mình nói ở ngoài Hà Nội tề, xa lắm.

Mặc được nửa tiếng lại cởi ra cất, nói để mai mồng một mặc cho mới, nhưng đưọc nửa tiếng lại lôi ra mặc, ngắm ngắm nghía nghía, lại cất đi, lại lôi ra mặc, loay hoay với cái áo suốt chiều ba mươi.

Năm nào cũng thế, có áo thôi quần có quần thôi áo, như thế cũng đã sướng lắm rồi, ôm cái áo ngửi ngửi mùi vải mới sướng ngây ngất. Mạ nói tắm tắm rồi mạ cho mặc áo mới, thế là nhảy cẫng lên, lạnh mấy cũng tắm. Nồi nước tắm tất niên đầy lá hương nhu lá hồi lá sả lá bưởi lá chanh... thơm điếc mũi.

Mình ngồi trong chậu tắm, con Hà chạy vòng quanh lêu lêu, nói ê ê lớn rồi mà ở lỗ (cởi truồng) xấu quá xấu quá. Đến lượt nó tắm, mình chạy vòng quanh lêu lêu, nói ê ê điệu điệu, giả đò tắm cá quần, con nít tắm cả quần điệu điệu.

Đêm trừ tịch hầu như không ngủ, mọi đêm chín mười giờ đã ngủ lăn lóc thế mà đêm ấy tỉnh như sáo, mắt mũi hoánh, hết chạy ra sân xem mâm cúng ngoài trời lại chạy vào loanh quanh bên nồi bánh chưng mạ nấu, nghe ba kể ông nội làm gì, ông ngoại làm gì. Thích nhất là chuyện cụ thần hoàng làng làm quan to nhà Lê, cụ kị làm luỡng quốc lương y chữa bệnh cho cả vua ta lẫn vua Tàu, lâng lâng tự hào, túm tay ba giật giật, nói cụ kị giỏi nhất chưa ba, ba nói giỏi nhất, thích quá nhảy cà tang hét dzê-ê!

Vừa lúc nghe tiếng con Hà gọi, nó không dám vào nhà chỉ đứng ngoài ngõ gọi khẽ, sợ kiêng, con gái phải quá Ngọ mồng một tết mới được sang nhà người ta. Mình chạy ra ngõ, con Hà cũng diện áo mới, áo lụa tơ tằm màu mỡ gà láng coóng, nó cười hì hì, nói nhà mi nấu chín bánh chưng chưa, mình nói chưa, nó xòe bàn tay ra, nói nhà tau nấu chín rồi, năm cặp! Mình nói nhà tau nấu mười cặp tề, nó thè lè lưỡi nghẹo cổ cười, nói phét phét, nồi nhỏ rứa mà mười cặp. Rồi nó bốc cho mình một nắm cốm rang thơm phức, nói tau về đây không mạ tau giết.

Sáng mồng một háo hức chờ khách đến nhà cho tiền mừng tuổi, hồi đó tiền mừng tuối chỉ năm xu một hào, khách sộp mới cho đến hai hào. Khách đến thì cứ giả đò chạy vô chạy ra, đến khi khách cho tiền thì giả đò ưỡn ẹo không lấy, mồm thì cháu không cháu không, mắt thì liếc nhìn mạ đợi lệnh, mạ cười nói thôi xin bác đi con, mới cầm lấy tiền chạy ù đi. Lúc lúc lại sờ vào túi lấm nhẩm đếm tiền, thỉnh thoáng lại xổ ra cả ngồi đếm đi đếm lại, sung sướng vô cùng.

Con Hà nói mi được mấy rồi, mình nói ba đồng chín, nó nói tau được bốn đồng hai ke ke ke. Mình tức lộn ruột, nói chị Nghĩa tau còn nợ tau hai đồng, nó cười khì, nói có mốc xơ, đồ ba đồng chín xí hổ quá hi hi. Mình tức suýt khóc, nó còn lêu lêu, đá cho một phát bẹp đít, nó mếu máo khóc, chị Nghĩa chạy ra kêu ba ơi mạ ơi, mồng một tết thằng Lập đánh nhau đây này. Hai đứa ù té chạy.

Làng nào cũng thế, hễ tết đến là sân đình bày hết các trò chơi, chỗ này cờ thẻ, chỗ kia chọi gà, chỗ nọ đánh đu. Sáng mồng một đi chùa hái lộc xong mọi người tập trung về đấy cả.

Vui nhất là hội bài chòi, người xúm đen xúm đỏ, trống đánh rền vang, người la kẻ hét. Xưa nghe nói hội bài chòi có dựng chín cái chòi, người chơi ở trong chín cái chòi ấy. Bây giờ thì không, chỉ thấy anh cu Tịnh đứng trên bục cao, cầm cái lọ thẻ hát hát nhảy nhảy. Người chơi ngồi xếp vòng tròn đen đặc, mỗi người có ba thẻ, hom hóp chờ nghe xướng.

Mình với con Hà chạy tới, chầu chực mãi mới mua được ba thẻ, mình nói để tau cầm thẻ cho, con Hà vui vẻ đồng ý liền, nó sợ con gái hay xui. Anh cu Tịnh lắc lắc ống thẻ, rút cái thẻ ra, ngó liếc cái số thè, rồi hát Chồng nam chính giữa/ Hai vợ hai bên/ Lẩy chiếu đắp lên/ Gọi là ba bụng/ Ba bụng bụng ba/Là con số ba\ Con Hà nhảy lên, hét huơ đây đây. Mình với nó sướng rêm, đập tay nhau hét dzê-ê! Còn hai thẻ nữa, nếu trùng số cả ba thẻ là ăn giải. Con Hà chắp tay lạy lạy, miệng lầm bầm, còn số một số chín nữa... lạy trời lạy trời!

Anh cu Tịnh lắc lắc ống thẻ, rút cái thẻ ra, ngó liếc cái số thẻ, rồi hát Đi đâu mang sách đi hoài/ Cừ nhân không đậu, tú tài cũng không... Con nhất trò nó vừa ra xong! Con Hà nhảy ra khỏi vòng, hét huơ làng trúng rồi! Mình với nó cầm tay nhau nhảy cà tẩng! Còn một số nữa, hồi hộp đến nghẹt thở.

Anh cu Tịnh lắc lắc ống thẻ, rút cái thẻ, ngó liếc cái số thẻ rồi hát lần này đổi giọng, không biết điệu gì đó nghe thật du dương. Bà con lẳng lặng mà nghe/ Róc rách ổng tre con gì nó ra đây/ Anh trai Ba Đồn đi bán chiếu tre/ Gặp em gái bến sông Gianh/ Thương ai lòng thấy bồn chồn…Con chín nó ra rồi ơi bà con ơi... Mình và con Hà như muốn bắn tung lên trời, ôm nhau sung sướng đến tức thở. Không mấy khi hô ba con liên tiếp trúng cả ba. Tiếng trống thúc một hồi, mọi người ồ lên, nói may hè, may hè...

Phần thường chẳng có gì, chỉ có gói bánh và cái khăn mùi xoa, nhưng hai đứa sướng mê man suốt ba ngày tết. Ăn chung gói bánh, con Hà nói cái khăn để tau cất, mi cất mất liền, mình gật gật, nói ừ ừ, tụi mình là hai vợ chồng mà, nó nói đúng rồi hai vợ chồng, mình nói hai vợ chồng hay nhỉ, nó nói ừ ừ hai vợ chồng hay hè hay hè.

Tết năm 1967 con Hà chết bom. Nhà nó sơ tán lên làng Đông cùng với nhà mình, phiên chợ 20 tết trúng bom chết mấy trăm người, tất cả các cây nêu làng Đông năm đó đều treo tang trắng (Chuyện này mình đã kể trong Ký ức năm hào).

Chị gái nó tên Hân đưa lại cái khăn cho mình, nói em giữ lấy đừng có làm mất tội nghiệp con Hà. Liền mấy tết Thanh minh, năm nào mình cũng ra mộ nó, đặt lên khăn mùi xoa hai quả chuối, hai quả cam nhỏ, hai quả trứng gà hai cái kẹo, ngồi với nó cả giờ rồi lùi thủi ra về.

Đến khi vào đại học mình còn giữ được cái khăn mùi xoa tết năm 1976 chị Hân xuống nhà mình chơi, nói em còn giữ cái khăn mùi xoa không, mình nói có. Chị ứa nước mắt khóc nghẹn, nói con Hà nhiều lần hiện về hỏi chị cái khăn, hình như nó nhớ em... cho chị xin chị hóa cho nó.

Mình ngồi yên rưng rưng, không biết nói sao.

Con chó Giôn

Nó tên Giôn, tức Giôn xơn. Hồi chiến tranh, chó mèo đều lấy tên Giôn xơn, Ních xơn, Thiệu, Diệm ra đặt cả. Làm cái nhà vệ sinh công cộng, vẽ cái mặt Giôn xơn, viết câu ca nhắc nhở: "Dù ai đi đâu về đâu/ về đây mà đái lên đầu Giôn xơn/ Căm hờn lại giục căm hờn/ Về đây mà đái còn hơn đái ngoài”. Đi đái còn phải căm thù sâu sắc huống hồ là đặt tên chó mèo.

Lúc mới mang từ nhà gì Thé về, cả nhà gọi nó là Giôn xơn, sau gọi Giôn xơn khó, người gọi Giôn Giôn Giôn, người gọi Xơn Xơn Xơn, nó bé bằng bắp hoa chuối mắt tròn xoe cứ ngơ ra nhìn, một tuần rồi vẫn chẳng biết tên nó là gì, cuối cùng cả nhà nhất trí gọi nó là Giôn.

Mình yêu nó nhất nhà, mới bảy tuổi, bom đạn dầy trời quanh năm suốt tháng trẻ con bị giam trong nhà, có con chó nhỏ như bắt được vàng, mình suốt ngày quanh quẩn bên nó, có việc để làm, khỏi phải ngồi ngạch cửa ngóng ra đường nữa.

Đến lớp chỉ mong về chơi con chó Giôn. Đôi khi cắn bút ngẩn ngơ: con Giôn bây giờ làm gì nhỉ? Tối nào nó cũng nằm khoanh trong lòng mình, lâu ngày quen, vắng nó cái là không sao ngủ được. Đang ngủ quờ tay không thấy nó, giật mình chồm dậy kêu ầm Giôn mô rồi Giôn mô rồi. Nó ở đâu nhảy phốc lên giường, liếm liếm mặt mình, sướng mê man.

Hè năm lóp hai, con Giôn đã bằng bắp vế mình, biết bắt chuột, sai nó lấy cái này cái nọ, chỉ cần nói đến lần thứ hai là nó hiểu liền. Nó không ăn cứt, không phải nhờ có “giáo dục”, nhà cũng chẳng đủ cơm cho nó, nhưng nó không ăn là không ăn. Một hôm mạ mình chìa đít con Lí, cháu gái mình, cho nó liếm, nó không liếm, còn nhìn mạ mình vẻ khó chịu, ra cái vẻ ta đây có văn hóa, không thèm.

Một hôm máy bay Mĩ khui được kho dầu lớn ở làng Chánh Trực, sát ngay Ba Đồn, chúng quần đúng sáu tiếng, từ hai giờ chiều đến tám giờ đêm, bom nổ lửa cháy ngút trời, dân Ba Đồn xanh mặt kéo nhau chạy táo tác, nói chạy mau không mai nó đến càn nát Ba Đồn. Ba mình quyết định sơ tán ngay trong đêm.

Các anh chị lớn lo gánh vác vận chuyển nhà cửa. mình bé chỉ phải đưa đống sách của mình đi thôi, thế mà cũng ốm xác. Mang trên lưng gần chục cân, lội bộ 11 cây số cát trong đêm, mình cùng con Giôn bị bỏ rơi khá xa.

Mình lê lểt kéo rê chân trên cát, vừa đi vừa nghỉ, lôi sách ra ném bớt đi cho nhẹ, nhưng nhìn thấy cuốn nào cũng tiếc, lại nhét vào, nghiến răng lê lết bước. Buồn ngủ quá, đang đi bỗng rơi phịch xuống cát, cứ thế ngủ không biết gì trời đất.

May có con Giôn, nó vọt lên kéo ống quần ba mình làm hiệu, ông quay lại tìm, cõng về đến nhà mới ở làng Đông Dương.

Mình lên lớp ba, con Giôn đã lớn, ngày nào cũng theo mình đi học. Mình ngồi học, nó ngồi ở cửa lớp ngóng vào, cái mặt nó nhìn mình có vẻ ngưỡng mộ lắm.

Ra chơi là nó quấn lấy mình, chơi đã thôi. Cũng có hôm mình theo mấy thằng bạn chạy rong, ngoảnh lại thấy nó ngồi chống hai chân trước nhìn mình, mặt buồn thiu.

Nó biết bắt cá, lúc đầu chỉ bắt cá ruộng cạn, sau nó dám nhảy xuống nước ngụp lặn như người. Thỉnh thoảng nó gặm một con cá rô hay cá tràu (cá lóc) chạy về nhà, thả vào chậu, mạ mình mắt sáng như sao, nói thằng Lập làm răng phấn đấu bằng con Giôn.

Đến bữa không bao giờ nó chạy lăng xăng quanh mâm. Nó nằm dài ở sân, mặt ghếch ra ngõ, ra cái điều có mời chắc gì ta đã ăn. Hết bữa, mạ mình tùa hết đồ ăn thừa vào bát, phải gọi hai ba lần nó mới uể oài đi vào, y chang mấy ông khách làm bộ: no rồi, ăn chơi bát cho vui thôi.

Nó biết mình yêu ai ghét ai. Có anh cu Li đeo răng vàng hay đến tán chị Qui, mình ghét lắm, hồi đó cứ thấy anh nào đeo răng vàng, chải tóc bóng mượt là ghét.

Anh cu Li thỉnh thoảng đạp xe từ Ọuảng Thanh đến, giả đò tán chuyện thời sự với ba chị Qui. ta thắng chỗ này, địch thua chỗ kia nhưng thực chất mắt trước mắt sau lôi chị Qui ra khỏi nhà.

Anh cu Li đèo chị Qui bằng cái xe đạp Phượng hoàng mới cứng, tụi mình chạy đuổi theo hét vang: Có tiền mua lúa mua khoai/ Đừng mua xe đạp mà lai đàn bà!

Con Giôn hưởng ứng liền, nó chạy loăng quăng trước mũi xe anh cu Li, anh tránh không được, ngã oạch. Tụi mình sướng rêm, nhảy cà tang dzê-ê dzê-ê.

Nhà mình hồi đó nghèo lắm. Tám đứa con, chi trông vào đồng lương của ba mình, không nghèo mới chuyện lạ. Có chục đồng mượn mự Thơm hôm đi sơ tán mà mự cho người nhắn năm lần bảy lượt vẫn không trả được.

Mình nhớ trưa hôm đó mình ngoài đồng về thì thấy mạ đang ngồi ròng xích cổ con Giôn. Nó nằm im nhưng toàn thân rung bần bật. đôi mắt ngước lên nhìn mình cầu khẩn.

Mình hỏi mạ làm chi rứa. Mạ mình nói bán đi trả nợ cho mự Thơm. Mình vừa hét vừa nhảy, khóc lóc ầm ĩ, nói không không không. Mạ mình khóc, rất hiếm khi mạ mình khóc, nói mi không biết mô, mự Thom ra giữa chợ chửi mạ.

Mình tịt câm, cầm dây kéo con Giôn đi về nhà anh Dậu đúc soong nồi cuối làng, anh đã trả tiền cho mạ rồi.

Mình và con Giôn đi đường cát sau làng. Nó chỉ chạy chừng mươi bước rồi trì lại, mắt ngước nhìn mình van lơn. Mình cứ cúi mặt kéo di, nó lại chạy mươi bước lại trì lại hai mắt dàn dụa nước. Lần đầu tiên cũng là lần duy nhất mình nhìn thấy chó khóc.

Mình ngồi ôm nó khóc theo. Ngồi ước sao bỗng nhiên được mười đồng.

Mình ngồi ôm con Giôn ngồi giữa cát nắng chang chang, khóc mãi khóc khan cả cổ, nói đi nói lại ui trời ơi răng nhà tôi nghèo ri hè. Con Giôn bỗng rùng mình một cái, vụt chạy. Tưởng nó chạy đi đâu, được mươi bước nó dừng lại ngoảnh mặt nhìn mình chờ đợi.

Mình biết nó đã đồng ý đi, không chống đối nữa nên không cần dắt dây, cứ để nó chạy theo mình. Từ đó đến nhà anh Dậu mặt nó cứ cúi gầm. Đến nhà anh Dậu nó mới dừng lại run lẩy bẩy. Nhưng nó không khóc, mình cũng thế, cũng run lên nhưng không khóc.

Cho đến khi anh Dậu tuồn nó vào bao bố, nó còn kịp nhìn mình trân trố, cái nhìn vừa trách móc vừa thương yêu bất tận, kêu ẳng một tiếng đau nhói tim.

Anh Dậu ném cái bao bố xuống ao. Mình đứng im, chết giấc. Khi thấy hồ nước sủi bọt, mình bỗng xâm mắt, nghiến răng nhảy bùm xuống ao. Anh Dậu lôi lên cho một tát, nói ngu, điên, rồi đuổi về.

Đến chiều thì mình lên cơn cảm hàn, sốt li bì, sốt quá phát cuồng vùng té chạy, ai đuổi theo cũng không kịp. Mình vừa chạy vừa hét lên ôi Giôn ơi Giôn ơi!

Viết đến đây thì ngồi khóc, bây giờ đã hai giờ sáng.

Một mình làm cả đình làng

Mình về quê, bố vợ nói thằng Đức (Nguyễn Xuân Đức) bỏ ra 17 tỉ xây dựng lại cái đình làng Phan Long, ngạc nhiên và cảm động quá. Biết nó làm ăn được, nhưng 17 tỉ là một triệu đô la, đến tỉ phú đô la cũng không dám bỏ ra nhẹ nhàng như nó. Anh Huy nói thằng Đức muốn làm một cái đình thuộc hàng nhất nhì Đông Nam Á, phục nó quá chừng.

Thằng Đức đi bộ đội về, trong khi anh em giải ngũ đang say sưa nhậu nhẹt thăm hỏi bạn bè thì nó làm một phát vào công ty du lịch, kiếm được bà vợ đẹp, giỏi giang. Vợ chồng Đức lập công ty du lịch tư nhân đầu tiên của Quảng Bình, từ thời dân Quảng Bình còn chưa hiểu công ty tư nhân thì là cái gi. Từ đó nó đi lên, kinh doanh khách sạn, làm đâu trúng đấy.

Người ta giàu có thì tậu nhà, mua xe, du lịch Tây Tàu cho nó đã, nó không, năm nào cũng đem vợ về quê, có năm ba bốn lần. Nó bảo quê như cái tổ chim, mình bay nhảy chín phương trời cuối cùng cũng phải về tổ, hưởng lấy cái hồn làng rồi lại bay đi, ít ai còn trẻ nghĩ được như nó.

Thị trấn Ba Đồn có gốc gác là làng Phan Long, cụ tổ là Nguyễn Đức Tuân, một trung thần thời Hậu Lê, làm đến chức Tả Quận công từng đứng đầu cai quản Bắc Bố Chính.

Ngài có người cháu là lương y rất tài giỏi, từng chữa lành bệnh cho vua Lê, được phong là Lang y, sau đi sứ sang Tàu chữa lành bệnh cho vua gì đó đời Thanh, được phong Lưỡng quốc Lang y. Chỉ nghe các cụ nói vậy thôi, không biết người này là ai, tên gì, một lương y tài giỏi thế sao sử sách không thấy ghi, hoặc giả có ghi nhưng thất tán đâu rồi.

Làng Phan Long toàn họ Nguyễn, bây giờ dân gốc Phan Long trong thị trấn chỉ còn hơn trăm nóc nhà, nhà mình là một nóc, nhà thằng Đức cũng một nóc, nhà nó còn có họ gần với nhà mình.

Trong kí ức xa vời của mình về ngôi làng xưa là ngôi dinh thờ thần hoàng Nguyễn Đức Tuân.

Nhũng năm 1960 - 1964 tụi mình còn quá bé, không ngày nào là không đến chơi ở sân đình. Sân đình rộng mênh mông, bốn góc sân là bốn cây đa lớn tỏa bóng mát tràn trề, sân đình không khi nào ngớt tiếng trẻ con. Đêm trăng, trẻ con bày trò đánh du kích quanh hai nhà tả vụ, hữu vụ la hét om sòm. Có đứa còn ngủ quên ở đấy.

Mỗi bận đi qua cửa tam quan với hai cây cột xây to cao, chạm trổ tinh vi, ngước nhìn hai con nghê đá oai phong trên đỉnh hai cột, ngước nhìn đôi con rồng chầu nguyệt trên nóc đình, ngợp lên trong lòng một nỗi linh thiêng.

Ngày đó lũ con nít vẫn rón rén vào đình, đi vào hậu cung nơi thờ đức thần hoàng, đứng ngắm ngẩn ngơ cung cấm, nơi an phụng thần vị, ngước nhìn long ngai, long khảm, ngắm say sưa bàn thờ có ngũ sự bằng đồng, đài rượu, quả trầu... Hai bên bàn thờ, hương án có hai hàng tự khí uy phong.

Chẳng ai cấm vào xem cung cấm nhưng con nít ít đứa dám bạ men, phải hai ba đứa mới đủ gan mò vào, chứ một mình thì sợ lắm.

Thằng Đức hồi dó mới hai ba tuổi gì đó, khi nào cũng mũi chảy lòng thòng, quệt một phát nước mũi dính tận mang tai. Hai thằng anh nó là thằng Bình, thằng Phúc thay nhau cõng nó vào dinh. Cả ba gần như nín thở khi vào hậu cung. Bỗng thằng Đức khóc ré. Cả bọn ù té chạy, cứ tường thần hoàng đang đuổi chạy sau lưng, sợ hết hồn.

Nhưng ra khỏi đình làng thì thằng Đức nhất định đòi quay trờ lại, mồm mếu tay chỉ nói choi choi. Thằng Đức thích nhất hai con voi đá trấn giữ hai bên sân đình, hễ cứ đặt nó lên ngồi trên lưng voi là nó cười toe toét, cái mặt cười nhoè nhoẹt nước mũi trông rất buồn cười.

Trận bom đầu tiên máy bay Mĩ dội xuống Ba Đồn là một ngày tháng Tám năm 1964. Mình nhớ như in ha