← Quay lại trang sách

Chương Hai ĐỒNG XU CHÌ BÍ MẬT

Chiều hôm ấy sau khi ngủ khoèo một giấc để lấy lại sức khỏe, đúng 6 giờ Sơn trở lại quán Ba Sinh. Chị Thu Dung đã chờ nó sẵn ở đó với chiếc xe hai ngựa của chị. Thấy Sơn, chị vui mừng như gặp bạn thân thiết. Sơn vội vàng hỏi:

– Thế nào? Công tác điều tra của chị tại chỗ làm biên bản vụ xẩy tai nạn hồi sáng có kết quả gì không hả chị?

Chị kéo nó lại gần rồi ghé vào tai nó thì thào:

– Bí mật lắm. Sơn về ăn cơm chiều ở nhà chị rồi ta bàn tính luôn cho kín đáo. Chịu không?

Sơn vui vẻ:

– Em ký cả hai tay.

Nói rồi nó mở cửa xe lên ngồi ở băng trước ngay cạnh chị. Vừa lái xe, chị vừa hỏi:

– Công việc của chú thế nào?

Sơn tường thuật cặn kẽ từng chi tiết xảy ra gần chỗ tai nạn hồi sáng. Chị Thu Dung cười rũ rượi về tài láu cá vặt của thằng bé. Lúc tới nhà, chị trịnh trọng kéo ghế ngồi với Sơn tại bàn viết của chị rồi nói:

– Sáng nay chị cũng được việc lắm. Sau khi chia công tác với Sơn, chị tới ngay chỗ ông già bị ám hại. Khi đó mọi người đã đổ xô lại phía đó rồi. Có cả Cảnh sát tới nữa.

Sơn ngắt lời:

– Chị còn trông thấy cây gậy trúc của lão không?

Chị Thu Dung lắc đầu:

– Không thấy đâu nữa. Nhưng cách xác chết độ ba thước, sát ngay bờ tường chị nhận thấy vật quí giá này.

Vừa nói chị vừa đặt lên bàn một đồng xu chì dính theo một sợi chỉ bện cáu ghét và mồ hôi. Chị nói tiếp:

– Phải cố tình quan sát thì mới có thể nhận thấy vì nó kẹt ở đằng sau một mô đất lớn. Chị chắc trước khi chết ông lão đã giật nó ở cổ ra và quăng vào đó.

Sơn vồ lấy đồng xu và đưa lên ngắm nghĩa. Nó là một vật bằng chì nói cho đúng ra chỉ trông giống đồng xu mà không phải đồng xu chính hiệu, vì hai mặt của nó nhẵn thín, và chung quanh không có những răng cưa như các đồng xu thường. Sơn vội cúi xuống cho nó nẩy lên nhè nhẹ và lắng tai nghe tiếng kêu của nó. Một lát nó kết luận:

– Đồng xu rỗng chị ạ!

Chị Thu Dung khen:

– Đúng lắm. Chị đã nghĩ ngay đến điều đó và suốt buổi chiều hôm nay, chị ngồi tìm cách nậy nó ra. Quả nhiên nó gồm hai mảnh ghép lại với nhau rất khéo léo, chị tìm thấy miếng giấy này để ở giữa hai mảnh của đồng xu.

Nói rồi, chị lật cuốn sổ tay lấy ra một tờ giấy to bằng nửa bàn tay trao cho Sơn. Sơn vội vã đón lấy, lật đi lật lại, ngắm nghía kỹ càng và chỉ thấy nội dung của tờ giấy gồm những chữ và số bí hiểm như sau:

Thím ba: 6. 11. 4. 16-10-5-10. 4. 26 – Chị bảy: 12. 27. 21. 20. 14-10. 15. 16. 19.-9.8.20-186. 19-12.21.20.14.20.8.9. – Cậu hai……….lại một dãy số đi theo…………

Sơn ngơ ngác:

– Chị có hiểu gì không?

Chị Thu Dung lắc đầu:

– Nát óc từ trưa tới giờ mà không ra một chút tia sáng nào cả. Mới đầu, chị nghĩ rằng mỗi con số biểu hiện cho một chữ cái…

– Nhưng chỉ có 25 chữ cái, mà đây lại có tới số 27…

Chị Thu Dung khen ngợi:

– Đúng lắm! Chính vì thế mà chị bác bỏ lối giải đoán này. Lại còn thím Ba, chị Bảy, cậu Hai nữa là cái cóc gì?

Sơn thừ người:

– Hừ… thím Ba, chị Bảy, cậu Hai… Họ là ai? Họ dính líu gì đến ông già mù không? Em đâu có thấy ông già có họ hàng thân thích gì đâu?

– Thế mới rắc rối. Thế mới điên cái đầu. Nhưng thôi, theo nguyên tắc của chị, khi nào gặp điều gì bất khả giải quyết thì hãy dẹp nó qua một bên làm việc khác cho đầu óc nghỉ ngơi. Lúc nào đầu óc minh mẫn sẽ quay trở lại nghĩ tiếp, như vậy sẽ được sáng suốt hơn.

Nói rồi chị Thu Dung tiến lại góc tường nhấn một cái nút trên chiếc máy ghi âm Akai của chị. Cuộn băng từ từ chuyển động và một giọng hát êm đềm phát ra theo tiếng nhạc thánh thót. Chị Thu Dung cất tiếng nho nhỏ hát theo. Giọng chị ấm và trong veo. Giá phải những lúc khác thì thằng Sơn đã ngồi ngẩn người ra nghe và để hồn lắng chìm trong tiếng hát của chị. Nhưng lúc này, bụng dạ của Sơn không còn chú ý được điều gì khác ngoài những con số nhằng nhịt trên mảnh giấy và ba nhân vật quái gở kèm theo. Thím Ba, chị Bảy, cậu Hai.

Chị Thu Dung liếc thấy thái độ băn khoăn bực dọc của nó, nhưng chị không nói gì cả, chỉ mỉm cười quay đi, cất tiếng hát to hơn như ngụ ý giễu cợt:

– Đừng tưởng bở. Phen này chú mày cứ là toát sê cấu cũng chẳng ăn thua gì đâu.

Mà quả thật vậy, thời gian qua đi rất mau trong bầu không gian tràn ngập tiếng đàn thánh thót và tiếng hát dịu dàng, và rút cục Sơn cũng cảm thấy muốn điên cái đầu về bức màn bí mật dầy đặc bao quanh tờ giấy, như không thể nào vượt qua. Chị Thu Dung nhìn nó mỉm cười:

– Thế nào nhà thám tử búp bê. Thám tử khám phá ra rồi chớ?

Sơn chán nản lắc đầu:

– Chưa chị ạ. Rắc rối quá.

– Chú cố nhớ thử xem ông già có quen ai là Thím Ba, chị Bảy, cậu Hai không? Có lần nào ông ta tiếp xúc với một người nào đó không?

– Chắc chắn là không. Ông ta là một người hoàn toàn cô độc, suốt ngày chỉ ngồi đúng ở một vị trí xế cửa tòa báo của mình thôi…

– Vậy thím Ba là cái gì? Chị Bẩy là cái gì? Cậu Hai là cái gì chớ?…

Sơn mỉm cười giọng nửa tuyệt vọng nửa khôi hài:

– Chỉ còn một cách trả lời thím Ba, chị Bẩy là đàn bà, cậu Hai là đàn ông, vậy thôi. Và như thế chẳng lẽ mình đành bỏ giáo qui hàng ở đây sao hả chị…

Chị Thu Dung chợt khựng người lại, ngón tay búp măng trắng muốt của chị đặt ngay lên vành môi và chị hỏi lại:

– Chú vừa nói gì? Thím Ba, chị Bẩy là cái gì?

Sơn ngơ ngác nhìn chị một giây, nhưng rồi nó cũng nhắc lại:

– Em chỉ nói thím Ba, thím Bẩy là đàn bà, cậu Hai là đàn ông. Điều đó có gì lạ đâu.

Chị Thu Dung gật đầu:

– Phải rồi, không có gì lạ cả. Nhưng đàn ông là dương, đàn bà là âm. Dương là cộng âm là trừ. Có thể hiểu là trừ ba, trừ bẩy, cộng hai lắm chứ!

Nói rồi chị reo lên mừng rỡ như kẻ đang mò mẫm trong đêm tối bỗng nhận được ánh chớp lòe lên soi sáng con đường của mình. Chị chạy bổ lại phía bàn giấy, cầm cây bút rồi vừa nhìn tấm mật thư vừa hí hoáy trừ, cộng. Sơn tiến lại bên cạnh chị hồi hộp theo dõi. Một lát chị kêu to:

– Đúng rồi!

Sơn mừng tíu tít:

– Sao? Thế nào hả chị?

Chị say mê giảng giải, đôi mắt long lanh như hai vì sao rực sáng:

– Này nhé, chú vừa thắc mắc sao chỉ có 25 chữ cái mà đây có tới số 27 phải không?

– Đúng thế.

– Vậy trừ 7 đi còn 20 thì có hợp lí không?

Sơn reo to:

– Đúng rồi. Phải rồi. Trời ơi có thế mà nghĩ không ra. Nghĩa là trước khi đối chiếu các con số trong tấm giấy này với A là một, B là hai, C là ba thì ta phải tùy theo lời chỉ dẫn ở đầu hàng là hoặc trừ ba, trừ bảy hay cộng thêm hai phải không chị?

Chị Thu Dung gật đầu lia lịa:

– Chính vậy đó. Và chị đã thử với mấy số đầu là 6, 11, 4, 16 đem lần lượt trừ 3 còn 3, 8, 1, 13 rồi đối chiếu với A là 1, B là 2, C là 3… chị đọc được chữ đầu là chữ CHÂN.

– Hay quá… Mình tiếp tục đi chị.

Chị Thu Dung lại cúi xuống hí hoáy cộng trừ và không đầy mười phút sau chị phăng ra được toàn bộ tấm mật thư nằm giữa lớp vỏ của đồng xu chì rỗng ruột:

CHÂN GÀ-GÁY-ĐƯỜNG CHIM BAY 186 M-ĐÔNG NAM MỘ CHÍ VINCENT

Đến đây hai chị em lại ngẩn người ra nhìn nhau. Sơn ngơ ngác:

– Thế nghĩa là cái gì hả chị?

Chị Thu Dung cũng lắc đầu:

– Chịu! Chân gà gáy! Gay gà chấn! Gân gà cháy!… Chẳng câu nào có cái nghĩa lý cóc khô gì hết cả.

Sơn chép miệng:

– Cái ông già này thật là rắc rối. Đã toát sê cấu từ chập tối đến giờ mới nghĩ được ra thím Ba, cậu Tư, bác Năm dì Bẩy rối xòe, đã tưởng nuốt trôi rồi, ai ngờ bây giờ lại còn cái vụ chân gà gáy này nữa mới lắm chuyện chớ.

Trong khi Sơn cứ lải nhải như vậy, chị Thu Dung cũng đi tới, đi lui lên tấm thảm lót trong phòng của chị và miệng không ngớt lẩm nhẩm như người cầu kinh.

Gà gáy… gáy gà…Ừ, gà nó gáy… Vậy nó gáy thế nào? Nó gáy ở đâu? Tại sao nó gáy để làm gì? Gáy cho ai? Gáy làm sao?

Rồi bỗng chị ngừng lại quay hỏi Sơn:

– Này chú Sơn đã được trông thấy gà gáy bao giờ chưa?

Sơn gật đầu:

– Rồi chị ạ.

– Nó gáy thế nào?

Sơn toe miệng ra cười nhưng cũng phải bắt chước tiếng gà mà trả lời chị:

– Cù cú cu cu…u…u.

Chị lại hỏi:

– Khi nó gáy thì chân của nó để ở đâu?

Sơn nhíu mày trước câu hỏi bất ngờ về một nhận xét rất thông thường mà chẳng mấy khi nó để ý.

– Hình như… hình như nó vẫn để chân xuống đất mà…

– Không được. Phải có tài liệu dứt khoát thì mới hiểu được. Để chị hỏi cái ông bạn dạy môn Vạn Vật này, chắc ông ấy rõ.

Nói rồi chị nhấc máy điện thoại lên quay số và hỏi:

– A lô!… Tôi muốn gặp ông Nam, không biết ông có nhà không ạ?

Bên kia đầy dây có tiếng trả lời:

– A lô! Tôi là Nam đây… Xin lỗi tôi được tiếp chuyện với ai đấy ạ?

– Thu Dung đây anh Nam ơi.

– À! Chị Thu Dung! Trời ơi! Lâu quá không được gặp chị. Chị vẫn làm phóng viên đấy có phải không?

– Vâng… cảm ơn anh, tôi vẫn theo đuổi cái nghề vất vả ấy như thường. Còn anh, anh vẫn đi dạy học đấy phải không?

– Vâng, cảm ơn chị, tôi vẫn thế.

– Anh Nam ạ, tôi có chút một chi tiết cần viết trong bài, phải hỏi đến anh. Anh vui lòng cho biết nhé.

– Xin sẵn sàng nếu điều chị hỏi nằm trong phạm vi hiểu biết của tôi.

– Thì dĩ nhiên rồi. Anh dạy Vạn Vật phải không? Tôi xin nhờ anh mách giùm, khi gà nó gáy thì chân nó để ở đâu, theo cái thế nào?

– Chị không giỡn đấy chứ? Ai lại hỏi cái gì lẩn thẩn như vậy.

– Thì anh cứ trả lời tôi đi. Tôi cần tài liệu đấy mà.

Đằng kia đầu dây im lặng một chút rồi lại có tiếng trả lời:

– Thưa chị có gì lạ đâu. Khi gáy, gà vẫn để hai chân xuống đất, thường thì một chân ở trước một chân ở sau, nhưng cũng có khi hai chân nó để song hàng. Đoạn nó ngửa cổ lên cao, và rồi nó gáy: “cú cù cu cu”.

Chị Thu Dung cố bấm bụng nhịn cười hỏi tiếp:

– Có thế thôi à?

– Dạ chỉ có thế thôi. Khi gáy xong, thường đưa cổ lên rũ mạnh cho lông xù lên một cái, rồi sau đó mới tiếp tục kiếm mồi ăn.

– Vâng… vâng xin cám ơn anh rất nhiều. Thôi chào anh nhé.

Ở đầu dây đằng kia giọng nói có vẻ trở nên ngơ ngác:

– Chỉ có thế thôi à?

– Vâng! Tôi chỉ cần hỏi anh có thế.

– Không! Ấy là tôi nói chị chỉ cám ơn xuông vậy thôi à?

Chị Thu Dung mỉm cười:

– Chớ anh còn mè nheo gì nữa đây?

– Ôi cha! Luật sư chỉ dẫn luật pháp cũng phải có thù lao cho người ta. Tôi đây, giáo sư chỉ dẫn bài giáo khoa, chị cũng phải có cái gì tạ ơn thầy chớ.

– Anh muốn tạ ơn cái gì nào? Bún ốc chợ Bến Thành nhé, chịu không?

– Dạ thôi, cái khoản ấy thì em chịu. Bà chị cho một chầu bánh tôm ở Casino thì quí hóa hơn.

– Được rồi. Sáng Chủ nhật này anh ghé tôi rồi mời anh đi ăn sáng luôn…

– Cù cú cu cu… u… Xin hoan nghênh và ký kết cả hai tay…

Chị Thu Dung đặt điện thoại xuống bàn vẻ thất vọng hiện rõ trên khuôn mặt bầu bĩnh đẫm mồ hôi của chị:

– Mất không thêm một chầu bánh tôm oan uổng nữa cơ chứ!…

– Chị thấy không. Những điều ông ấy mách đâu có khác gì hơn là những điều mà em nói với chị. Em đã bảo lúc gà nó gáy thì hai chân nó để xuống… đất mà!… Còn em cam đoan với chị gà nó không gáy cù cú cu đâu. Nó gáy cú cù cu cơ!

Chị Thu Dung bật cười:

– Tốt hơn hết là ngày mai ra chợ bệ một con gà trống về coi nó gáy là xong hết. Tuy vậy, chị cũng không quên chầu bánh tôm của chú đâu. Chủ nhật này ghé chị, ta cùng đi ăn luôn!

– Hoan hô chị!

– Nhưng mà chết chưa, cứ lo tính toán vụ ăn hoài, còn lá thư bí mật này thì làm sao đây. Chú có thêm ý kiến gì không?

– Đầu óc em nó mụ lên mất rồi không nghĩ ngợi được gì hết cả.

Chị Thu Dung đồng ý ngay:

– Ừ! Chị cũng vậy nữa. Thôi, hãy dẹp nó qua một bên, chị em mình ra phố kiếm cái gì uống cho mát cái đã đi.

– Phải đấy. Mình đi ăn kem rồi ra ngồi hóng mát ở nhà thờ Đức Bà biết đâu chả sáng suốt hơn.

– Không biết bây giờ mấy giờ rồi.

– Đồng hồ của chị đâu?

Chị Thu Dung lại bàn cầm chiếc đồng hồ lên tay, coi giờ rồi phàn nàn:

– Bực quá! Lại quên cái vụ lên dây cứ để nó chết hoài. Có lẽ phải đổi đồng hồ automatique mới được.

– Thôi để lát nữa coi đồng hồ ngoài nhà thờ rồi chị lấy lại cũng được…

– Hừ! Chưa chắc đâu. Lâu lâu đồng hồ ở đấy cũng chết hoài.

– Nói chuyện đúng giờ thì chỉ có đồng hồ ở nhà thờ Dòng Tên là đúng thôi… cái đồng hồ ở dưới chân con gà đó…

Vừa nói đến đây thì hai chị em chợt sững người lại. Mắt chị Thu Dung tròn lên, vành môi mở rộng. Mắt thằng Sơn cũng trợn tròn, miệng há hốc. Hai chị em nhìn sững sờ và lặng đi một giây lâu. Mãi Sơn mới thốt lên được hai tiếng: đúng rồi!…

Chị Thu Dung nắm lấy hai vai của nó lắc mạnh:

– Trời ơi! Có thế mà nghĩ không ra. Con gà ở dưới cái đồng hồ nhà thờ Dòng Tên là gà ở tư thế đang gáy đúng không?

– Vâng! Đúng vậy!…

Thế là hai chị em múa lên mừng rỡ như mới bắt được vàng, và họ quên ngay câu chuyện đi ăn kem rồi hóng mát. Chị Thu Dung nhẩy chân sáo lại bàn viết, cầm mảnh giấy lên nói to:

– Như vậy là “chân gà gáy” tức là ở cửa nhà thờ Dòng Tên…

Sơn tiếp ngay:

– Rồi chiếu theo “đường chim bay 186 mét về phía “đông nam”…

– Ta sẽ gặp “mộ chí” của ông Vincent phải rồi… bên cạnh nhà thờ Dòng Tên là một nghĩa địa. Trong nghĩa địa này có một khu dành cho người Pháp. Bây giờ đa số người Pháp đã về nước rồi, nên có nhiều ngôi mộ không có ai thân thuộc đến thăm viếng cả. Chắc ông già mù đã chọn chỗ này để giấu diếm một sự bí mật nào đó, phải không?

Sơn tiếp:

– Chắc chắn là như vậy rồi.

– Vậy ta chỉ cần tìm được mộ chí của một ông Tây nào đó tên Vincent là có thể tìm ra được sự bí mật ấy…

– Mình đi ngay bây giờ không?

– Vội gì. Để sáng sớm mai. Sáng mai chú không bận gì cả chứ?

– Không việc gì bận và quan trọng hơn việc này. Em sẽ đi với chị.

– Vậy sáng sớm mai, ta sẽ đi mua một bó hoa giả làm người đến thăm mộ. Rồi cứ chiểu theo kích thước có sẵn trong mật thư mà tìm đến, phải không?

– Vâng, chắc là như thế. Nhưng rồi còn vụ anh Tư Bạch Đằng và cây gậy trúc mất tích sau khi xẩy ra tai nạn?…

– Hãy để vụ đó xét sau. Biết đâu ông Vincent chẳng mách cho ta một vài điều hay ho mới lạ để có thể giúp ta phăng lần ra tấm màn bí mật.

Sơn hoan hỉ:

– Trời ơi! Chắc chắn là ông ấy tốt bụng với mình rồi. Chị cứ tin đi, mọi đầu mối sẽ nằm ở dưới mộ chí của ông ta hết. Thôi nhé, em hẹn đến mai…

Chị Thu Dung cản lại:

– Ấy, về ngay sao được. Chúng mình còn một công tác vừa mới đề ra mà chưa thực hiện. Đó là đi ăn kem này, rồi ra ngồi hóng mát ở nhà thờ Đức Bà…

Sơn vui vẻ:

– Ừ nhỉ, suýt nữa thì em quên mất cái công tác quan trọng và dễ thương ấy.

Chị Thu Dung tiếp theo:

– Mà lần này thì đi hóng mát thực sự chứ không phải cho đầu óc bớt căng thẳng để suy nghĩ về cái sự gáy của con gà. Ôi!… vấn đề chỉ có thế mà cũng phải lôi cả một ông giáo sư Vạn Vật nhào vô, làm mình phải khao thêm một chầu ăn sáng nữa…