← Quay lại trang sách

Chương Ba TRĂM NĂM BIA ĐÁ VẪN… CÒN !

Sáng sớm hôm sau, chị Thu Dung lái xe đến đón Sơn từ lúc sáu giờ. Hôm nay chị bận một chiếc áo dài trắng thướt tha như cánh bướm đầu hạ. Mái tóc mềm mại vẫn buông xõa bờ vai thường ngày bây giờ được bới lên để lộ những ngấn cổ cao và trắng như những đốt ngọc. Dưới ánh sáng tươi mát của ngày đẹp trời, trông chị rực rỡ như một nhân vật trong những phim huyền thoại của thiên tài Walt Disney. Chị đón Sơn bằng một nụ cười hồn nhiên. Đôi mắt to và đen của chị long lanh sáng.

Trong lúc ngồi chờ Sơn sửa soạn, chị cất tiếng hát nho nhỏ. Giọng hát trong veo tràn ngập căn buồng tối tăm và ẩm thấp. Lúc hai chị em ra xe, chị bàn với Sơn:

– Bây giờ mình đi kiếm một tô cháo nóng cho cái bụng đỡ biểu tình. Rồi sau đó mình ra chợ hoa mua một bó hoa thật đẹp. Đi thăm cụ Vincent thì cũng phải có quà cho cụ chớ.

Sơn lo lắng:

– Nhưng ngộ lỡ những điều giải đoán của mình ở bức mật thư đều sai lầm cả thì sao?

Chị Thu Dung mỉm cười:

– Thì coi như buổi sáng hôm nay chị em mình đi thăm những linh hồn không quen ở nghĩa trang. Chú không thấy thích thú khi vào nghĩa trang một buổi sáng sớm hay sao? Không gian tịch mịch. Bầu không khí tươi mát tràn đầy hơi thở êm dịu muôn ngàn loài hoa. Rồi tiếng chim hót trong những lùm cây còn ẩm ướt sương đêm, tiếng gió xào xạc vi vu trên những rặng thông cao chót vót… Mình có thể ngồi hàng giờ trên nệm cỏ để xem nắng sớm lên dần trên những chòm cây xanh…

Sơn nhắc nhở:

– Nhưng nhà thi sĩ ơi, xin đừng có quên cái địa bàn tìm phương hướng đấy nhé…

Chị Thu Dung cười ròn rã:

– Yên chí đi. Chị lo đầy đủ cả rồi. Chân gà gáy-Đường chim bay-186 mét Đông Nam Mộ chí ông Vincent. Tối hôm qua khi đưa Sơn về, chị chạy muốn hụt hơi mới kiếm được một cái địa bàn đó.

– Theo ý chị thì chị đoán mộ chí ông Vincent nó là cái gì?

– Là một tấm bia đá. Trên tấm bia có khắc những hàng chữ “Ci-git, Mr Vincent…” có nghĩa “đây là nơi yên nghỉ của ông Vincent”…

– Chỉ có vậy thôi sao?

– Chắc chắn là không chỉ có vậy. Nó phải bao hàm một ý nghĩa bí mật nào đó. Có thể quanh đấy lại có tài liệu nào đó soi sáng con đường mù mịt mà ta đang theo đuổi.

Sơn thở dài:

– Quả là con đường mù mịt. Mới trong vòng hai ngày mà bao nhiêu sự kiện xẩy ra. Ông già mù không mù, không phải bị tai nạn mà bị ám sát. Cây gậy trúc biến mất một cách bí mật. Đồng xu chì rỗng ruột dẫn tới mộ chí ông Vincent. Rồi còn ông chủ garage, anh Tư Bạch Đằng và gã đàn ông đạp xe gắn máy.

Chị Thu Dung an ủi:

– Đừng có lo. Bài toán càng cho nhiều giả thuyết, ta càng dễ tìm ra đáp số. Hơn nữa có khó khăn thì mới càng nhiều hứng thú. Chị có linh cảm cái vụ mà chúng ta theo đuổi hứa hẹn thật nhiều pha gay cấn.

– Và chắc chắn sẽ đụng phải một tổ chức tàn bạo giết người không gớm tay.

– Điều đó không thể tránh được.

– Chính vì thế mà em sợ… em sợ cho chị.

Chị Thu Dung hỏi lại:

– Tại sao lại chỉ sợ cho chị mà không sợ cho Sơn?

Sơn mỉm cười:

– Ồ!… Chị đẹp như tiên nga, còn em một thằng bé bán báo nghĩa lý gì.

– Này, chú mà còn giữ ý nghĩ bán báo không nghĩa lý gì thì chị không thèm chơi với chú nữa đâu. Con người ta quí nhất là ở tư cách và tâm hồn. Giầu sang, có địa vị mà tâm hồn tối tăm, tư cách hèn kém thì chẳng đáng hãnh diện với ai hết.

Sơn ấp úng:

– Không… ấy là em nói thế.

– Vậy thì đừng nói thế với chị và cũng không nên nói thế với ai. Với tư cách và lòng tự trọng, mình có niềm kiêu hãnh của riêng mình. Và với niềm kiêu hãnh ấy, mình chỉ biết nhìn lên chứ không thèm nhìn xuống. Con người chỉ biết cúi xuống trước mọi người thì không bao giờ tiến bộ cả. Chú hiểu không?

Sơn rối rít:

– Em hiểu… em hiểu…

Chị Thu Dung mỉm cười:

– Ngày xưa chị cũng đã nhiều lần được nghe mẹ của chị răn bảo như thế. Hồi còn đi học, có lần chị tham dự một cuộc thi tuyển học sinh xuất sắc nhất trường. Đối thủ mà chị sợ hãi nhất là một cô gái nhà giầu. Chị nhìn thấy cái gì ở cô ta cũng đều tốt đẹp hơn chị cả. Từ cái cặp da, đến cây viết máy, đến cả những tờ giấy bao tập, cuốn nào cũng phẳng phiu, sang trọng, quí phái cả. Trong khi ấy, nhà chị thật nghèo, chị ước mơ mà chẳng bao giờ có được cái cặp da như thế cả. Riết rồi chị sinh mặc cảm sợ sệt, thua kém và có ấn tượng chắc chắn là mình thất bại trong cuộc so tài ấy rồi.

– Rồi chị có thua thật không?

– Để chị nói từ từ. Trước hôm thi thấy mẹ tin tưởng ở mình quá, chị càng sợ, chị thổ lộ với mẹ rằng chắc chắn chị thua cuộc. Mẹ hỏi lý do tại sao chị biết trước vậy. Chị trả lời rằng đối thủ của chị, cô bé nhà giầu, nó hơn chị đủ mọi đường về hình thức. Trong óc chị, chị có mặc cảm thua kém rồi.

Mẹ chị phá lên cười bảo, nếu nó hơn về khả năng, về kiến thức, về căn bản học vấn thì không nói làm gì, chớ hình thức bề ngoài làm sao mà quyết định được kết quả cuộc thi. Không bao giờ nên cúi xuống trước mọi người. Những kẻ cúi xuống chỉ là những kẻ chấp nhận mình ở vị trí thất bại trước khi tham dự rồi. Những lời khuyên ấy đem lại cho chị thêm rất nhiều tin tưởng, vào phòng thi, chị bình tĩnh hơn, yên ổn hơn và quả nhiên chị làm bài một cách dễ dàng…

– Và chị thắng cuộc chứ?

– Dĩ nhiên. Bởi vì chính cô bé kia mất bình tĩnh. Cứ kể nếu cả hai cùng có ý chí mạnh mẽ, thắng được những tình cảm hồi hộp lo lắng thì chưa chắc chị đã thắng cuộc… Thôi! Tới quán Bà Nam rồi. Mình ăn cái đã. Rồi còn phải đi mua hoa chứ.

Nửa giờ sau hai chị em bắt đầu bước lên những bậc đá đầu tiên ở cửa nhà thờ Dòng Tên.

Họ kiếm được tới chân con gà gáy ở dưới chiếc đồng hồ không mấy lâu la gì. Đó là một chiếc đồng hồ cũ kỹ, mặt tròn đặt ở mặt trước một cái tháp chuông ở khu vực hữu diện ngôi nhà thờ. Phía dưới mặt đồng hồ có một cái kệ xây bằng đá chĩa ra mé ngoài. Ở trên mặt kệ là một con gà cao tới một thước bằng đồng đen, đứng ở vị trí đang ngửa cổ lên gáy. Chị Thu Dung tiến tới ngay ở chỗ chân gà chiếu xuống rồi mở sắc lấy ra một cái địa bàn. Chị căn thật kỹ lưỡng để tìm hướng Đông Nam rồi lấy phấn vạch một mũi tên dài. Mũi tên hướng về phía có những rặng phi lao cao sừng sững in lên nền trời. Chị buông một tiếng thở phào:

– Nghĩa địa!…

Hai chị em tìm một nhánh cây ở xa làm mốc rồi cứ theo hướng đó mà tiến tới.

Chỉ trong giây lát, họ đứng trước một ngôi mộ cổ phủ đầy rêu xanh và có cỏ mọc um tùm. Sơn nhanh nhẹn gạt đám cỏ lau để tìm chiếc mộ chí. Nó vui sướng chỉ vào những dòng chữ khắc sâu trên nền đá rồi nhìn chị Thu Dung như chờ đợi. Chị đọc nhanh rồi dịch ra cho Sơn nghe:

–“Đây là nơi yên giấc nghìn thu của ông THOMAS-VINCENT, nhà Địa Chất học, Giáo sư trường Viễn Đông Bác Cổ, sinh ngày 15-2-1887 mất ngày 19-11-1942. Ước vọng cuối cùng của ông là được yên nghỉ mãi dưới chân núi Thiên Mã để ngắm đom đóm trời, nhưng vì hoàn cảnh chiến tranh nên không thực hiện được”.

Sơn nghe xong nét mặt đầy vẻ ngơ ngác. Còn chị Thu Dung thì thở dài ngồi xuống bậc xi măng tam cấp cũng không giấu được vẻ thất vọng. Một lúc lâu chị chép miệng:

– Vấn đề cứ mỗi ngày một thêm rối mù. Giáo sư Thomas-Vincent thì chị có được biết qua, vì ông ta viết nhiều cuốn sách biên khảo giá trị về lãnh vực địa chất. Nhưng tại sao ước vọng của ông lại chỉ là mong được chôn ở chân núi Thiên Mã. Mà núi Thiên Mã nằm tại vị trí nào trên cái “Thế giới Tự do” này cơ chứ?

Sơn bàn góp:

– Hay là chị thử hỏi mấy ông nhà báo.

Chị Thu Dung mỉm cười:

– Bộ chú tưởng nhà báo cái gì cũng biết hả.

– Ôi! Em thấy các ông ấy như ma xó. Chuyện gì cũng biết thật đấy. Mà lại còn biết cặn kẽ có thêm cả đầu cua tai nheo vào nữa ấy chứ.

– Ờ… cứ kể ra chuyện gì họ đã muốn biết thì họ sẽ tìm mọi cách để biết được. Nhưng cái núi Thiên Mã này thì chắc không đâu. Chị nghi nó có điều gì bí ẩn bên trong. Bởi vì không lẽ ông già đã mất công viết cả một mật thư mà lại chỉ có dẫn người ta đến đọc tấm mộ bia này.

Sơn ngờ ngợ:

– Hay là dưới tấm bia còn có cái gì khác.

Chị Thu Dung gật đầu:

– Chú thử xem xét lại kỹ coi.

Sơn vâng lời, hăm hở lại gần tấm mộ bia mím môi lay thật mạnh. Nhưng phiến đá vẫn vững như thành đồng không lay chuyển và không có một dấu hiệu nào, chứng tỏ nó che giấu ở dưới một vật gì bí mật.

Chị Thu Dung cũng xáp lại lay giúp Sơn một tay, và lần này dưới sức mạnh của hai người tấm bia đã bị vỡ ra một mảnh to bằng nửa bàn tay. Sơn lo lắng:

– Chết chửa. Mình sẽ phải tội chết. Loay hoay thế nào đến vỡ cả mộ bia của người ta.

Nhưng mắt chị Thu Dung không rời mẩu đá vỡ và chị kêu lên:

– Lạ lắm! Lạ lắm!

Sơn vội đổ dồn đôi mắt vào mẩu đá trên tay chị và lần này nó cũng lẩm bẩm:

– Ờ! Chị tinh quá! Dấu vết này không phải là dấu vết của mảnh đá vỡ. Nó chỉ là một mẩu đá rời ra và được gắn vào một cách khéo léo bằng một thứ keo không lấy gì làm chắc lắm.

– Đúng vậy. Chớ sức lực của chị em mình là bao mà có thể làm vỡ cả đá được.

– Vậy theo ý chị thì mẩu đá được gắn vào đấy có dụng ý gì?

– Đó là điều mà ta phải khám phá cho ra. Nhưng trước hết phải xem xét kỹ mảnh đá này mới được.

Hai chị em ngồi xuống bực tam cấp, và chị Thu Dung đổ cái sắc của mình ra để lục tìm chiếc kính lúp. Qua miếng kính phóng đại, mẩu đá hiện ra rõ ràng hơn với màu đen xám kết hợp bởi những vân mầu xanh sáu cạnh xen lẫn với những vẩy trắng óng ánh. Một điểm đặc biệt nữa là chiếc địa bàn của chị Thu Dung mới đổ ra nằm lăn lóc ở bên cạnh hòn đá đã bị ảnh hưởng làm cho chỉ sai hẳn hướng Nam Bắc. Như thế nghĩa là hòn đá còn có cả tính chất nam châm nữa.

Ngoài những chi tiết ấy ra, chị Thu Dung và Sơn không còn tìm thêm được một dấu vết nào khác. Rút cuộc, cả hai đành rủ nhau trở về với một mớ câu hỏi hóc hiểm nữa ở trong đầu:

1/. Ông Thomas Vincent có liên hệ gì đến vụ ông già mù bị sát hại không?

2/. Nghề giáo sư khảo cổ của ông ta có liên lạc gì đến nội vụ không?

3/. Tại sao mộ chí của ông lại gắn hờ vào một mẩu đá có nam châm.

4/. Mẩu đá này biểu hiện cho cái gì?

5/. Núi Thiên Mã ở đâu? Tại sao lúc chết ông Vincent lại chỉ muốn được chôn cất ở dưới chân núi Thiên Mã.

6/. Đom đóm trời là một vật có thực hay chỉ là một mật hiệu?

Để có thể lần mò ra được con đường phải đi tới chị Thu Dung bàn với Sơn trước tiên phải làm hai việc:

– Thứ nhất là phải liên lạc với Sở Địa Dư Quốc Gia để tìm hiểu vị trí đích thực của ngọn núi Thiên Mã.

– Thứ nhì là gửi hòn đá đến Viện Nghiên Cứu Địa Chất Quốc Gia để nhờ phân tích lai lịch của hòn đá. Xem nó thuộc đá gì? Tính chất ra sao? Nó xuất hiện ở những nơi nào trong nước.

– Và sau hết, phải tìm ra tung tích của anh Tư Bạch Đằng để may ra có thể rút ngắn được con đường điều tra.

Hai chị em đã phân công rõ rệt: Chị Thu Dung nhận nhiệm vụ liên lạc với Sở Địa Dư và Viện Nghiên Cứu Địa Chất. Còn Sơn thì sẽ la cà ở ngoài bến Bạch Đằng để tìm ra bằng được anh Tư.

Cuối cùng hai chị em hẹn gặp lại nhau vào sáng ngày hôm sau tại quán nước Ba Sinh.

Ngày hôm sau kết quả cuộc điều tra của hai người có vẻ tiến triển khả quan. Trước hết vì quen thân với một giảng nghiệm viên ở Viện Nghiên Cứu Địa Chất, chị Thu Dung đã nhận được bản trả lời về việc quan sát hòn đá dưới cặp mắt của các chuyên viên. Họ cho chị Thu Dung biết rằng:

“Mẫu đá mà chị gửi đến phân tích thuộc về loại đá được phun từ núi lửa rồi đông đặc lại người ta vẫn thường gọi chung là Phún xuất thạch. Phún xuất thạch có nhiều loại, nhưng mẫu đá của chị thuộc về loại nhẹ chỉ bằng non một nửa chất thép, kết hợp bởi bốn loại tinh thể: tinh thể sáu mặt màu xanh gọi là Lãm Thạch, tinh thể sáu mặt màu đen gọi là Huy Thạch, tinh thể hình đũa óng ánh như thủy tinh gọi là Tràng Thạch, và những vi tinh thể hình khối tám mặt có Oxyt sắt Fe3O4 mang tính chất của nam châm thiên nhiên gọi là Oxyt Từ thiết có thể làm lệch hướng của một kim chỉ nam. Ở Việt nam loại đá này thường được thấy ở những nơi cao nguyên đất đỏ nhất là ở Kontum, Darlac, và cao nguyên Mọi…”

Nhưng cả phần phân tích dài dòng chiếm non nửa trang giấy đánh máy đó không khiến chị Thu Dung quan tâm bằng một đoạn ghi chú về những nhận xét đặc điểm của người nghiên cứu. Đoạn ấy viết:

– Riêng có một điểm đặc sắc là ở các loại đá Huyền vũ thông thường, nhiều khi người ta tìm thấy dấu vết của Lân tinh dưới dạng Phốt-phát như Phốt-phát Calci tạo thành những hạt nhỏ rải rác cạnh những tinh thể khác. Còn ở miếng đá của chị thì mảnh lân tinh lại đứng độc lập là một điều hiếm thấy. Chính vì vậy mà ở trong bóng tối, nó tỏa được ánh sáng mầu xanh dịu như dạ quang rất kỳ lạ và hiếm có.

Điểm nhận xét này làm chị Thu Dung thốt nhớ đến những lời khắc trên tấm mộ bia của ông Thomas-Vincent: “ước vọng của ông là được yên nghỉ dưới chân núi Thiên Mã để ngắm đom đóm trời…” Phải chăng những con đom đóm trời đó chính là do những mẫu đá kỳ lạ này phát ra Lân tinh hay là một sự ám chỉ gì khác.

Tối hôm ấy, chị Thu Dung đem thử lại bằng cách tắt hết đèn và để hòn đá trên mặt bàn, thì quả nhiên nó phát ra từng đốm sáng rực như những con đom đóm ngày xưa ở quê nhà.

Công việc nhờ vả Viện Nghiên Cứu Địa Chất để phân tích về hòn đá coi như hoàn tất mỹ mãn. Nhưng đến công việc ở Sở Địa Dư thì lại không có cái suông sẻ ấy. Bởi vì chị Thu Dung đã nhận được sự trả lời:

– Sở tôi rất tiếc là vì tình hình an ninh không cho phép chúng tôi có thể nghiên cứu một cách tường tận về tất cả những địa danh do dân chúng địa phương tự ý đặt ra. Muốn có tài liệu đầy đủ xin liên lạc với phòng Bản đồ thuộc Bộ Tổng Chỉ Huy Quân Lực.

Công việc điều tra về núi Thiên Mã đến đây tắc lại vì không một nhà báo nào có thể được Bộ Tổng Chỉ Huy Quân Lực dễ dàng cho vào nghiên cứu những hầm chứa bản đồ chỉ liên hệ đến các vị chỉ huy hành quân.

Rút cuộc chị Thu Dung chỉ còn trông cậy vào sự giúp đỡ của Giáo sư Trần Vũ, thạc sĩ Sử học, Tiến sĩ Địa Chất học, một nhà khảo cổ lừng danh hiện giữ nhiệm vụ cố vấn cho Viện Quốc Gia Nghiên cứu và Sưu tầm Cổ tích Lịch sử.

Giáo sư Trần Vũ tiếp chị Thu Dung với tư cách một thầy học cũ. Người ông nhỏ thó nhưng bộ óc của ông thật vĩ đại với một cái đầu thật lớn, vầng trán thật rộng tương xứng với cặp kính dầy cộm gọng đồi mồi gắn trên chiếc mũi to và đỏ ửng như mũi Sư tử.

Tuy tuổi đã ngoài năm mươi, nhưng dáng dấp của ông còn nhanh nhẹn đầy nghị lực.

Nhất là giọng nói của ông lúc nào cũng hăng hái, nhiệt thành như sẵn sàng tranh luận với bất cứ ai. Gặp những câu chuyện liên hệ tới các cổ tích lịch sử, những vấn đề liên quan tới những hiện tượng địa chất đã xẩy ra từ thời Tiền cam, thời đệ Nhất, đệ Nhị Nguyên đại v.v… ông sẽ nói say mê hàng giờ không mỏi. Ông lại có tật hay đãng trí. Nhiều khi quá say mê với câu chuyện, ông quên bẵng rằng người đối diện với ông có khi tới gặp ông không phải về vấn đề địa chất hay sử liệu, mà có thể chỉ là một ông cảnh sát tới biên phạt vì ông quên treo cờ ngày kỷ niệm, hay một người thợ điện ghi số chữ tiêu thụ trên đồng hồ đo điện năng.

Khi chị Thu Dung vừa tự giới thiệu với ông xong, không hiểu ông còn nhớ cô nữ sinh viên trẻ tuổi nhất thuộc ban chuyên khoa Sử Địa tại trường Đại học Văn Hóa Đông Phương hay không, nhưng ông đã tiếp đón một cách nồng nhiệt, và ông đề cập ngay đến vấn đề mỏ dầu ở Việt Nam là vấn đề đang gây sôi nổi trong dư luận quốc nội. Theo ông trong tương lai thì vùng sình lầy bao la bát ngát ở Đồng Tháp Mười sẽ là nguồn gốc của một kho nhiên liệu vĩ đại của nước nhà. Nước biển ở phía Nam mỗi ngày một lùi ra xa hơn và để lại những vùng sình lầy chứa đựng những tàn tích hữu cơ phong phú. Chị Thu Dung không dám để cho ông dẫn dắt mình đi xa quá tới một tương lai mù mịt một vài trăm năm (một vài trăm năm đối với một nhà khảo cổ nào có nghĩa lý gì) cho nên chị vội cắt ngang ngay câu chuyện bỏ giở của ông bằng cách mở sắc lấy ra viên phún xuất thạch ở mộ bia ông Vincent đặt lên bàn.

Đang say sưa nói, bỗng ông Trần Vũ ngưng ngay lại. Cặp mắt của ông gắn ngay lấy hòn đá như người vừa gặp bạn cố tri. Rồi ông cầm lên tay ngắm nghía trong im lặng. Nét mặt của ông bỗng trầm tĩnh hẳn đi. Những ngón tay ngắn ngủn nhưng mềm mại của ông gõ đều đặn từng nhịp trên hòn đá vô tri. Điều đó chứng tỏ ông đang vận dụng trí óc để suy nghĩ một điều gì làm ông bận tâm.

Rồi bỗng ông tiến lại bàn làm việc lấy ra một chiếc kính lúp soi lên hòn đá ở đủ mọi góc cạnh. Chị Thu Dung theo dõi cử chỉ của ông một cách hồi hộp. Trong căn phòng bừa bộn sách vở và dụng cụ khảo cứu, chị cảm thấy bầu không khí trở nên nghiêm trọng và lặng lẽ đến độ nghe thấy cả tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ cổ lỗ treo trên tường. Mãi một lúc lâu sau, giáo sư Trần Vũ mới lên tiếng:

– Đây là một loại đá Phún xuất hiếm hoi không những ở Việt Nam và ở cả trên thế giới. Nếu để nó trong bóng tối, nó sẽ phát quang nhờ những tinh thể lân tinh lẫn lộn trong các tinh thể khác.

Chị Thu Dung gật đầu thán phục:

– Thưa thầy đúng như vậy. Ánh sáng của nó xanh biếc như những đốm sáng của loài đom đóm.

Giáo sư Trần Vũ nói tiếp:

– Tôi có được nghe nói về nó nhưng hôm nay mới thấy được lần đầu. Nó phát sinh từ một miệng núi lửa ít ra cũng vào thời đệ nhị Nguyên đại cách đây cũng hàng trăm triệu năm. Riêng loại núi lửa này cũng rất hiếm hoi. Bởi dung nham của nó nguội rất chậm vì sức nóng không phải lên tới 2000 độ như các trường hợp thông thường mà cao tới trên 5000 độ. Chính vì sự đông đặc kéo dài này mà các nguyên liệu bị phân tích tạo thành những tinh thể đặc biệt và khiến cho đá Phún xuất có những kiến trúc khác thường. Ở Việt nam chỉ độc nhất có một vùng tìm thấy được là ở núi Thiên Mã giáp ranh biên giới Lào-Việt rặng núi nằm thoải dài nương theo hướng Tây Bắc dẫy Trường Sơn mà tách rời ra như lằn chỉ trên một bàn tay.

Chị Thu Dung cắt ngang:

– Thưa thầy, thầy có bản đồ ghi rõ vị trí của nó không ạ?

Ông Trần Vũ lắc đầu:

– Dãy Thiên mã thì có nhưng vị trí cái miệng núi lửa sản xuất ra loại dung nham này thì không. Vì tiếng gọi là miệng núi lửa thật nhưng tôi đoán nó bị soi mòn rất nhiều có thể chìm đắm trong rừng cây rậm rạp của núi rừng trùng điệp hay nằm dưới đáy hồ. Nếu không có tọa độ xác định rõ ràng thì tìm nó không khác chi mò kim dưới đáy biển.

Chị Thu Dung với vẻ thất vọng hiện rõ trên nét mặt, buông một tiếng thở dài:

– Vâng, thưa thầy nếu như vậy thì không còn có hy vọng gì.

Giáo sư Trần Vũ cãi lại:

– Cũng có hy vọng chứ sao không. Với hòn đá vô tri này chị có thể thăm dò từng thổ dân tại địa phương đó. Nhờ tính chất đặc biệt của nó may ra họ có thể nhận diện được vị trí của nơi sản xuất. Nhưng kể ra như thế cũng là cầu may lắm rồi.

– Con xin cảm ơn Thầy về những điều thầy đã chỉ dẫn.

Ông Trần Vũ nhìn chị mỉm cười riễu cợt:

– Chỉ cám ơn xuông mà thôi sao. Chừng nào tìm thấy được miệng núi lửa sẽ trở nên giầu to và nhớ đừng quên chia sẻ với tôi nhé.

Mắt chị Thu Dung mở tròn lên ngạc nhiên:

– Thưa thầy làm thế nào mà con lại trở nên giầu to được ạ?

– Làm sao tôi có thể biết được những công việc mà chị đang theo đuổi. Nhưng quan sát hòn đá vô tri này tôi nhận thấy nó có dấu vết của than ròng. Mà nguyên tố Carbone là một kỳ quan của tạo hóa. Nó luôn một lúc có thể tượng trưng cho hai thái cực hoàn toàn đối nghịch nhau. Bởi vì nó là nguyên tố đen nhất, đục nhất, bẩn nhất nhưng lại vừa là nguyên tố trong nhất, sáng nhất, quí nhất. Nó vừa có thể là than chì, than đá, than bùn, nhưng kết tinh ở trạng thái tinh khiết thì nó đã trở nên trong suốt như pha lê, hấp thụ rất nhậy ánh sáng, chiết quang rất mạnh để tỏa ra muôn mầu rực rỡ.

Chị Thu Dung thốt lên:

– Thưa thầy, kim cương!

Ông Trần Vũ gật đầu:

– Phải rồi. Chính là kim cương đó.

– Thưa thầy, như vậy thầy cho rằng miệng núi lửa này sản xuất được kim cương?

Ông Trần Vũ trầm ngâm một lát rồi giải thích:

– Đó chỉ là một giả thuyết nhưng còn thiếu nhiều yếu tố để chứng minh. Thật ra, hầu hết các loại kim cương ở trên thế giới đều được tìm thấy ở giữa những lớp đất sét xanh gồm những ống xuyên qua các tầng nham thạch như ống khói của hỏa sơn, hoặc tìm thấy ở những vùng có phù sa trầm tích ở gần bờ biển. Như 95% số kim cương trên thế giới được sản xuất ở Nam Phi là những vùng có phù sa tương đối mới lắng tụ. Trong khi đó quan sát các loại nham thạch xuất xứ từ dung nham phun ra từ miệng các hỏa sơn như một phần lớn các loại đá thuộc họ Hoa Cương, họ Thiếu Thạch, Hàm Lục hay Trọng Lạp người ta không thấy dấu vết của loại đất sét xanh chứa kim cương vừa kể trên.

Chị Thu Dung hỏi:

– Như vậy nguồn gốc của các lớp đất sét này ở đâu mà có?

– Đất sét là một trong những loại trầm tích thạch.

Có ba nguyên nhân làm nên trầm tích thạch: thời tiết làm hư hỏng nham thạch, rồi mưa gió lôi cuốn các mảnh vụn tới chỗ thấp và lắng xuống. Đó là nguồn gốc của đất sét. Nguyên nhân thứ hai là các hóa chất tan trong nước có thể kết tủa và lắng xuống tạo nên trầm tích thạch như đá lửa, đá Cối xay, Cẩm thạch, Mã não, Ô thạch. Còn nguyên nhân thứ ba là các sinh vật khi chết đi thì xác của chúng lắng xuống làm tích tụ các hợp chất như vôi từ xương, răng, vỏ hay mai, Silicat Phốt-phát từ xương, phân v.v… rồi tạo thành trầm tích thạch như đá Xạ trùng, đá Khuê tảo, đá Hải miên và cả đá thử vàng nữa.

Chị Thu Dung ngắt lời:

– Thưa thầy, như vậy đất sét do sự lôi cuốn, chuyển vận rồi tích tụ mà thành. Trong đất sét lại chứa kim cương. Vậy kim cương cũng phải chịu sự chuyển vận từ một nơi nào đó mà tới chứ. Như miệng núi lửa chả hạn.

– Lý luận như vậy cũng chỉ có một phần đúng thôi. Bởi vì, người ta cho đến nay vẫn chưa tìm ra nguyên nhân tạo thành kim cương mặc dầu biết chắc kim cương chỉ là than ròng kết tinh. Nhưng căn cứ vào những lớp đất sét xanh chứa kim cương có chiều dầy, có khi cả hàng cây số, người ta cho rằng chúng phải kết thành ở những nơi thật sâu dưới áp lực mạnh và nhiệt độ cao.

Chị Thu Dung phát biểu:

– Nhưng như thầy vừa nói, ngay cả những vùng mà trầm tích thạch mới lắng tụ không bao lâu như phù sa ở bờ biển Nam Phi cũng có kim cương. Vậy kim cương được tạo thành trước đó và bị lôi cuốn chuyển vận mà tới chứ.

– Về phương diện hành trình của kim cương thì đúng, nhưng còn nguồn gốc của nó thì sao?

– Con vẫn nghĩ là xuất xứ của nó chỉ quanh quẩn ở những núi lửa.

– Tại sao chị quả quyết vậy.

Chị Thu Dung mỉm cười:

– Thưa thầy con không chú tâm lắm về vấn đề Thạch học hay Địa Chất học. Nhưng con chỉ căn cứ vào… mỗi một cái mộ chí của ông Vincent! Ông ta mơ ước khi chết sẽ được yên nghỉ dưới chân núi Thiên Mã để được ngắm những con đom đóm trời. Đó là một ngụ ý về những hạt kim cương lóng lánh.

Giáo sư Trần Vũ ngắt lời:

– Ông Vincent nào nhỉ?

– Thưa thầy ông Thomas Vincent, giáo sư trường Viễn Đông Bác Cổ sinh ngày 15 tháng 2 năm 1887 và mất ngày 19 tháng 11 năm 1942.

– A! Giáo sư Thomas Vincent Tiến sĩ Cổ Sinh Vật Học, một trong những nhà khảo cổ danh tiếng ở Đông Dương.

Chị Thu Dung vui mừng:

– Ủa! Vậy ra thầy có biết ông Thomas Vincent?

Ông Trần Vũ gật đầu:

– Biết lắm chứ. Ông ta là một người nổi tiếng trong giới các nhà khảo cổ ở đây hồi hai mươi năm trước. Có một thời kỳ ông ta lặn lội hàng năm ở vùng biên giới Lào Việt và lâu lâu gởi về những bản tường trình về những cổ vật tìm thấy Na-Veng, ở Khouan-Pha Vang, ở Sam Ronsen gồm những vỏ hà, vỏ hến, rìu đá, đồ đất nung thuộc thời kỳ văn minh Thái Cổ cách đây chừng 50.000 năm.

Chị Thu Dung hỏi ngay:

– Thưa thầy ông ta có đề cập gì đến kim cương ở núi Thiên Mã không?

Giáo sư Trần Vũ lắc đầu:

– Không thấy nói gì đến. Bởi vì mục đích cuộc đi của ông ta không phải là vì kim cương, mà ông có nhiệm vụ tiếp tục công trình khảo về nền văn minh Thái Cổ ở Đông Dương của các nhà khảo cứu cổ đi trước như nữ bác học Colanie, Linh mục Guerlach, các ông Pavie Fromajet, Rongnet…v.v…

– Thưa thầy công cuộc khảo cứu của ông kéo dài trong bao lâu?

Giáo sư Trần Vũ suy nghĩ một lát rồi trả lời:

– Đâu cỡ chừng trên ba năm, đến cuối năm 1942 thì ông ta trở về. Tiếc thay độ hơn một tháng sau thì ông bị tai nạn đụng xe và chết trong bệnh viện.

Chị Thu Dung giật mình sửng sốt:

– Ông ta chết vì tai nạn đụng xe.

Giáo sư Trần Vũ gật đầu:

– Phải một tai nạn đụng xe, cô lạ lùng lắm sao?

Chị Thu Dung vội vàng mỉm cười cố lấy giọng bình tĩnh:

– Thưa thầy không. Con chỉ thấy thương xót.

– Đáng thương thật đấy. Ông Vincent là một nhà khảo cổ tận tụy suốt đời hy sinh cho khoa học. Ông say mê đến độ không lập cả gia đình. Đi đâu cũng chỉ có hai thầy trò lầm lũi.

Chị Thu Dung càng cảm thấy mình đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Chị vội vàng hỏi:

– Thưa thầy ông ta chỉ có hai thầy trò.Thầy có biết người phụ tá của ông ta là ai không?

– Gọi là người phụ tá thì không đúng. Vì người này thật ra chỉ là một người hầu cận. Hắn ta không biết gì về khảo cổ nhưng chỉ theo ông Vincent để săn sóc hầu hạ. Đó là một người thân tín của ông ta.

– Thưa, thầy đã được gặp hắn ta lần nào chưa?

– Một vài lần cách đây 20 năm. Lâu rồi nên không nhớ.

– Thưa thầy sau khi ông Vincent mất đi rồi thì người ấy đi đâu?

Giáo sư Trần Vũ mỉm cười:

– Sau đó cũng biệt tích luôn vả lại vì không để ý tới nên tôi cũng không quan tâm làm gì.

Chị Thu Dung năn nỉ:

– Xin thầy cố hình dung lại hình ảnh người ấy cho con thử xem.

– Có chuyện gì mà quan trọng đến vậy?

Chị Thu Dung đành thú thực:

– Thưa thầy con đang theo dõi một án mạng cũng bằng xe hơi. Nạn nhân là một ông già. Con nghĩ ông già này là người hầu cận năm xưa của ông Thomas Vincent.

Giáo sư Trần Vũ bóp trán suy nghĩ một hồi lâu rồi nói:

– Lâu quá tôi không còn nhớ được gì trừ một kỷ niệm với ông Vincent. Hồi đó hình như vào khoảng năm 1936 hay 1937 gì đó, tôi có tham khảo ý kiến với ông ta về mấy chiếc sọ đào được ở vùng Bắc Sơn, Bắc Việt. Đó là những sọ người tương tự sọ của các giống người tìm thấy ở Cro-Magnon (Pháp) Lagoa-Santa (Châu Mỹ La tinh), và Baoussé (Pháp). Riêng sọ người tìm thấy ở động Baoussé-Roussé là của hai người một bà già và một thanh niên, lại không thuộc các chủng tộc ở Âu Châu nhưng có dấu vết của loại hắc chủng Négroides vốn sống ở Châu Phi. Vị Giáo sư ở Viện Bác cổ Ba lê là ông René Verseau đã đặt tên cho hai người thuộc giống mới khám phá này chủng tộc Grimaldi, lấy tên của dòng họ Grimaldi thuộc Ý, để kỷ niệm ông Hoàng Monaco, là người đã bảo trợ cho cuộc đào kiếm di tích Cổ Sử ở hang động Baoussé-Roussé ngày 3 tháng 6 năm 1901.

Thấy ông Trấn Vũ lại đã bắt đầu méo mó nghề nghiệp, sắp sửa thao thao bất tuyệt về vấn đề khảo cổ của ông, chị Thu Dung vội vàng cắt ngang:

– Thưa thầy còn kỷ niệm của thầy đối với ông Vincent?

Giáo sư Trần Vũ mỉm cười:

– Ờ! Đấy! Tôi thật hay có cái tật cứ đi xa đề. Để tôi nhớ lại xem. Phải rồi hôm đó tôi với giáo sư Vincent thảo luận khá sôi nổi về một chiếc sọ người Thái Cổ mà người ta mới đào được ở Bắc Sơn thì người phụ tá của giáo sư Vincent… bác gì nhỉ… à, phải rồi tôi thấy giáo sư Vincent gọi là bác Viên… Bác Viên bưng vào một ấm nước sôi để sửa soạn pha cà phê cho chúng tôi. Nào ngờ khi bước qua ngưỡng cửa bác ta vấp phải một cái thùng chứa mẫu nham thạch của giáo sư Vincent rồi ngã xoài xuống đất. Cả một ấm nước sôi làm lột hẳn lớp da bụng của bác Viên khiến cả hai chúng tôi vô cùng ân hận. Sau đó bác ta phải điều trị hơn một tháng mới lành. Đấy kỷ niệm mà tôi nhớ nhất về hai thầy trò chỉ tầm thường có thế mà thôi không biết có ích lợi gì cho việc điều tra của chị hay không?

Chị Thu Dung vui vẻ:

– Thưa thầy ích lợi lắm chứ. Cái chi tiết bất ngờ này sẽ giúp con khám phá ra được ông già mù bị mưu hại có phải là bác Viên, phụ tá của giáo sư Vincent hay không?

Giáo sư Trần Vũ hỏi:

– Chị khám phá bằng cách nào?

Chị Thu Dung trả lời thản nhiên:

– Thưa thầy con sẽ vô nhà xác. Chắc chắn vết thẹo của bác ta sau lần xẩy ra tai nạn sẽ là một chứng tích hùng hồn.

Giáo sư Trần Vũ thở nhẹ:

– Ờ… phải. Nếu vậy mong chị mau chóng thành công.

Chị Thu Dung ngỏ lời cám ơn giáo sư về sự nồng nhiệt tiếp đón và sự tận tình chỉ bảo của ông rồi đứng dậy cáo từ. Chị thầm nhủ cuộc viếng thăm này thật là bổ ích. Nó giúp chị tiến thêm được một bước chắc chắn và vững vàng trong cuộc điều tra đang tiến hành.

Giơ tay nhìn đồng hồ, chị thấy đã quá giờ của bữa ăn trưa…