Chương 2
Vậy thì anh em chớ ngại ngùng trước sự trừng phạt của Chúa”.
Giữa đêm khuya, Hayet cố gắng không gây tiếng động nào cho dù không ai có thể nghe thấy. Cô đóng cửa căn hộ chật hẹp, nơi cô đã sống suốt tám năm, bên trên quán bar chỗ cô làm hầu bàn, rồi biến mất. Vào khoảng mười giờ sáng, những người thợ vừa đi săn về. Trên sàn những chiếc xe tải nhỏ, chó săn chen chúc, vẫy đuôi tít mù. Vẫn chưa hết say sưa với chuyến đi săn và mùi máu tanh, chúng vừa rên vừa sủa cuồng loạn. Đáp lại, cũng hân hoan và hăng máu như chúng, mấy tay thợ săn chửi thề và nguyền rủa, còn thân hình to béo của Virgile Ordioni rung lên vì không nhịn được cười trong khi những người khác vỗ vai chúc mừng hắn bởi chỉ riêng hắn đã giết ba trong tổng số năm con lợn rừng vào buổi sáng hôm đó, còn Virgile thì cười đỏ mặt, trong khi Vincent Leandri, người đã tệ hại bắn trượt một con lợn đực to tướng chỉ cách có ba mươi mét, thì phàn nàn mình là kẻ vô tích sự và nói lý do duy nhất anh một mực muốn tham gia chuyến đi săn là chầu rượu khai vị tiếp sau đó, thế là ai đó kêu lên rằng quán bar đã đóng cửa. Hayet luôn đúng giờ và đáng tin, chẳng khác gì quỹ đạo của các ngôi sao, vì thế Vincent mới nghĩ ngay rằng đã có chuyện chẳng lành xảy đến với cô. Anh chạy lên căn hộ, thoạt tiên gõ nhẹ vào cánh cửa rồi đập rầm rầm trong vô vọng, vừa đập vừa kêu,
– Hayet à! Hayet! Ổn chứ? Trả lời anh! Anh xin em đấy!
rồi anh bảo sẽ phá cửa. Có ai đó khuyên Vincent bình tĩnh, có thể Hayet vội đi mua đồ gì đó, cho dù rất khó tin, mà thậm chí là không thể tin nổi có thể đi mua sắm gì đó trong làng, dù là món đồ nhỏ nhất, vào đầu mùa thu, mà lại vào sáng Chủ nhật, thêm nữa lại vội đi mua đến mức đóng cả cửa quán, nhưng biết đâu được? Rồi Hayet chắc chắn sẽ quay lại, nhưng cô lại không quay lại và thế là Vincent nhắc lại lần nữa là anh sẽ phá cửa thật, càng lúc càng khó mà can ngăn được anh, và cuối cùng, mọi người cho rằng tốt hơn là đi báo cho Marie-Angèle Susini rằng, thật không thể tin nổi, người hầu bàn của bà không có ở quán. Marie-Angèle tiếp họ, vẻ không tin lắm, nghi là họ thậm chí đã say và đang lừa bà, thế nhưng, ngoài Virgile là người thỉnh thoảng vẫn cười vô cớ còn lại tất cả bọn họ đều có vẻ rất mệt mỏi, hoàn toàn chưa uống rượu và hơi có phần lo lắng, riêng Vincent Leandri thậm chí còn trở nên phờ phạc, thế là Marie-Angèle lấy chia khóa quán bar và căn hộ rồi đi theo họ, mỗi lúc một thêm lo lắng. Bà lên mở cửa căn hộ của Hayet. Gian phòng đã được lau dọn sạch tinh, không vướng hạt bụi nào, đồ sành sứ và vòi nước sáng choang, tủ tường và ngăn kéo đều trống không, ga trải giường cùng vỏ gối đã được thay một cách tươm tất, Hayet không để lại thứ gì, không làm rơi hoa tai nào sau một đồ gỗ, không quên kẹp tóc nào trong phòng tắm, không mảnh giấy, không sợi tóc, còn Marie-Angèle thì rất đỗi ngạc nhiên khi không ngửi thấy một mùi hương nào ngoài hương thơm của nước tẩy rửa, như thể từ nhiều năm nay không có ai sống ở đây. Nhìn gian phòng chết, bà không hiểu tại sao Hayet lại ra đi như thế, không một lời tạm biệt, nhưng bà biết cô sẽ không quay lại và bà sẽ không bao giờ gặp lại cô nữa. Bà nghe một giọng nói cất lên,
– Ta cũng phải gọi cảnh sát chứ nhỉ,
nhưng bà buồn bã lắc đầu và không ai nói thêm bởi rõ ràng một bi kịch thầm lặng đã diễn ra tại nơi này, vào một giờ khắc nào đó trong đêm, chỉ liên quan đến một người, một kẻ lạc lối trong vực thẳm của trái tim cô độc mà xã hội loài người không thể cứu rỗi được nữa. Họ im lặng trong phút chốc, rồi có ai đó dè dặt lên tiếng,
– Nhân tiện có chị ở đây, nhờ chị mở quán cho bọn tôi uống chén rượu,
và thế là Marie-Angèle lặng lẽ gật đầu. Tiếng thì thào khoái chí cất lên từ nhóm thợ săn, Virgile cười hả hê và họ kéo nhau đi xuống quán, trong khi chó vừa gầm gừ vừa sủa dưới nắng còn Vincent Leandri thì lẩm bẩm,
– Một lũ bợm nhậu, bê tha,
rồi theo họ xuống quán. Đứng sau quầy, tiếp tục những động tác mà bà nắm rất rõ nhưng những muốn quên đi, Marie-Angèle bận rộn giữa cốc rượu và khay đá, bà ghi nhớ trong đầu, đúng thứ tự, không hề nhầm lẫn, những gì khách gọi với nhịp độ chóng mặt bằng những giọng như sấm vang và càng lúc càng bớt tỉnh táo, bà nghe những câu chuyện không đầu không đũa, cũng những câu chuyện ấy nhưng được kể hàng trăm lần với những biến thể, những phép ngoa dụ khó tin của chúng, cái cách mà Virgile Ordioni không bao giờ quên cắt từ lòng bụng còn bốc hơi của con lợn rừng đã chết những lá gan mỏng dính rồi bỏ luôn vào miệng, vừa nóng vừa sống, với vẻ bình thản của người tiền sử, bất chấp những tiếng kêu bộc lộ sự kinh tởm mà hắn đáp lại bằng cách gợi chuyện người bố đáng thương của hắn, lão luôn dạy hắn rằng chẳng có gì tốt hơn cho sức khỏe ngoài món ấy và thế là quán rượu vang lên vẫn những tiếng kêu kinh tởm và những cú đập lên mặt quầy làm rượu bắn tóe lên, người ta còn cười to và nói rằng Virgile là một con thú nhưng là một tay thiện xạ cừ khôi, thế là, ngồi một mình trong góc, Vincent Leandri chằm chằm nhìn cốc rượu với đôi mắt đầy tuyệt vọng.
Càng lúc Marie-Angèle càng nhận ra rõ ràng rằng mình chưa sẵn sàng tiếp tục công việc đó, một công việc không thể chịu đựng nổi, quá sức tưởng tượng với bà. Trong nhiều năm, bà dựa vào Hayet rồi dần dà giao hẳn quán bar cho cô quản lý, tin Hayet như tin người nhà, và Marie-Angèle thấy tim thắt lại khi nghĩ đến việc cô ấy ra đi mà thậm chí không đến ôm hôn tạm biệt bà, hay để lại một lời chào nào, dẫu chỉ đôi dòng chứng tỏ có điều gì đó đã xảy ra nơi đây, điều gì đó đáng kể, nhưng Marie-Angèle hiểu, đó chính là việc mà Hayet không thể làm bởi cô không những muốn biến mất mà còn muốn xóa hết những năm tháng đã trôi qua ở đây, chỉ còn giữ lại đôi bàn tay đẹp sớm bị hư hao, đôi bàn tay mà cô những muốn cắt đứt và để lại đằng sau nếu như có thể, và cái cách gàn dở và điên tiết mà cô dọn phòng chỉ là dấu hiệu của quyết tâm xóa bỏ và niềm tin rằng, nếu muốn, người ta có thể xóa khỏi cuộc đời của chính mình những năm tháng không đáng sống, cho dù để làm được điều đó cũng phải xóa nhòa cả ký ức về những người đã yêu thương mình.
Và khi đang rót thêm một vòng nữa cho đầy tràn rượu anit vào những cái cốc, Marie-Angèle hy vọng rằng, cho dù ở đâu hay đang đi đâu, nếu không thấy vui vẻ thì ít ra Hayet cũng cảm thấy được giải thoát và bà dồn hết tình yêu của mình để cầu phúc cho cô và để cô ra đi, không làm hoen ố chuyến đi của cô bằng lòng oán hận. Hayet ra đi như vậy đó, hoàn toàn vô tình trước những lời chúc phúc hay oán trách, không nghi ngờ rằng việc cô biến mất đã làm đảo lộn cả một thế giới, thế giới mà cô không còn nghĩ tới nữa bởi giờ đây, Marie-Angèle đinh ninh rằng bà sẽ đóng hẳn quán rượu, bà sẽ không bao giờ phải chịu đựng thêm dẫu chỉ một lần cảnh món xúp thối vàng vàng vón cục trong những cái cốc bẩn thỉu, những hơi thở bốc mùi anit và những tiếng hò hét ầm ĩ của những người chơi bài bơlôt trong những mùa đông bất tận mà chỉ nghĩ đến thôi bà cũng đã buồn nôn, và những lần cãi cọ dông dài với những lời dọa dẫm quen thuộc không bao giờ được thực hiện và tất yếu tiếp theo đó là những cuộc hòa giải liên miên đầy nước mắt. Bà biết bà không thể.
Đáng lẽ Virginie, con gái bà, phải chấp nhận thay bà cai quản quán rượu, trong khi chờ tuyển một người hầu bàn mới nhưng giải pháp này không thể thực hiện được về mọi mặt. Trong đời, Virginie chưa bao giờ làm gì đó na ná hoặc thậm chí chỉ hơi na ná công việc, cô ta luôn khai phá địa hạt bất tận của sự ăn không ngồi rồi, của uể oải, nhác nhớn, có vẻ như cô ta quyết tầm đi đến tận cùng thiên hướng của mình, nhưng, giả dụ như cô ta có ham công tiếc việc thì tính khí cáu kỉnh và điệu bộ tiểu thư của cô ta cũng sẽ khiến cô ta hoàn toàn không có khả năng hoàn thành cái công việc luôn đòi hỏi tiếp xúc thường xuyên với những con người khác, cho dù họ có thô lỗ tục tằn như đám khách quen của quán rượu này.
Dĩ nhiên, Marie-Angèle rồi cũng sẽ tìm được một người hầu bàn nhưng bà cảm thấy mình không thể xử sự như một bà chủ một lần nữa, bà từ chối giám sát giờ giấc mở cửa quán và mỗi tối đếm tiền lại để kiểm tra lời lãi đến đâu, bà không muốn giả vờ chuyên quyền nữa, cũng không muốn tỏ ra nghi hoặc điều gì nữa, sự nghi hoặc mà Hayet đã biến thành một cái gì đó hoàn toàn vô ích từ lâu lắm rồi, và đặc biệt, bà không muốn chấp nhận thực tế rằng, suy cho cùng, bà có thể tìm ra người thay thế Hayet. Bà nhìn Virgile Ordioni loạng choạng đi về phía nhà vệ sinh, bà cam chịu nghĩ đến số phận đáng buồn đang chờ cánh cửa đã được lau chùi sạch tinh, đó là chưa kể đến nền nhà, tường nhà, bà mường tượng cả chiều Chủ nhật hôm đó phải kì cọ và quát tháo những tên thợ săn thô lỗ này, rồi bà quyết định đăng quảng cáo tìm người quản lý quán bar.