Chương 15 - Ba Hạt Đậu Thần.
Cửa ban công bật tung ra và từ trong lâu đài, Nữ hoàng Khăn Đỏ xuất hiện. Cô diện bộ váy lộng lẫy nhất và khắp người phủ đầy những món trang sức quý giá. Khăn Đỏ luôn diện thật đẹp để gây ấn tượng khi phát biểu trước dân chúng.
“Đồng bào Quàng Khăn của ta,” Khăn Đỏ nói với cánh tay giơ cao. “Cảm ơn mọi người vì đã tới đây cùng ta!”
Cô liếc trộm xuống và thất vọng khi thấy quá ít người có mặt. Mặc dù cả vương quốc đã được mời tới để nghe lời nhắn nhủ từ nữ hoàng, chỉ có chừng hai tá người tụ tập bên ngoài – kể cả hai con cừu và một con dê.
Khăn Đỏ nén tự ái và tiếp tục tuyên bố.
“Ta cho rằng nhiều người quá sợ hãi nên không dám ra khỏi nhà, nhất là sau khi bức tường mà chúng ta yêu quý biến mất, vì vậy hãy truyền thông điệp này đến cho mọi người,” Khăn Đỏ nói. “Bất kể giai đoạn này khó khăn đến dường nào, ta gọi các bạn đến đây để động viên các bạn hãy mạnh mẽ và dũng cảm lên – chúng ta đã đối mặt với những mối đe dọa to lớn trong quá khứ và lần nào cũng thế, chúng ta đã đồng lòng vượt qua tất cả như một quốc gia thống nhất! Nhìn vào gương mặt các bạn, ta có thể thấy lòng can đảm trong ánh mắt! Phù thủy Hắc Ám có thể lấy đi tường thành, nhưng mụ sẽ không bao giờ lấy được tinh thần bất khuất của chúng ta!”
Khăn Đỏ tạo dáng chờ vỗ tay nhưng không có tiếng vỗ nào vang lên để cô đón nhận.
“Trên hết,” cô tiếp tục, “nếu có một chuyện mà người dân của Vương quốc Quàng Khăn Đỏ biết cách làm – chỉ trừ Cậu Bé Chăn Cừu – đó là vượt qua tất cả để tiếp tục sống!”
Khăn Đỏ lấy hơi. Cô đã quên khuấy đi phần còn lại của bài diễn văn.
“Em định nói gì vậy, anh yêu?” Vị nữ hoàng trẻ tuổi mấp máy môi lí nhí. May cho Khăn Đỏ, Froggy đang đứng bên kia cửa ban công, trong lâu đài.
“Chúng ta sẽ dựng lại tường thành!” Froggy thì thầm với cô.
“Ồ phải, đúng rồi! Cảm ơn anh,” Khăn Đỏ nói rồi quay lại đối mặt với người dân. “Chúng ta sẽ dựng lại tường thành!”
Khăn Đỏ lại tạo thêm một dáng đứng phô trương nữa. Lần này, cô chờ cho đến khi nghe được tiếng vỗ tay bên dưới rồi mới nói tiếp.
“Thế nhưng trước đó, ta muốn mời tất cả thợ mộc trong vương quốc tới lâu đài chiều nay để thực hiện một nhiệm vụ - ta biết giờ này thông báo thì rất gấp, nhưng việc mọi người đến giúp có ý nghĩa với ta rất nhiều,” cô tiếp. “Cảm ơn vì đã đến gặp ta hôm nay, cư dân Quàng Khăn thân mến! Ta chúc cho mọi người bình an và nghèo mạt!”
“Em yêu ơi, phát đạt! Phát đạt!” Froggy sửa.
“Ý ta là bình an và phát đạt!” Khăn Đỏ tuyên bố rồi vội vã trở vào trong lâu đài. Ngay khi cánh cửa đóng lại sau lưng cô, Khăn Đỏ bắt đầu tháo hết đồ trang sức ra và đưa cho người hầu gái.
“Đám đông khó tính ghê,” Khăn Đỏ nói rồi thở dài. “Ít ra bài diễn văn của em cũng có đủ ‘bốn từ nữ hoàng’ mà.”
Bọn trẻ đã cùng Froggy lắng nghe bài phát biểu của Khăn Đỏ.
“‘Bốn từ nữ hoàng’?” Alex thắc mắc.
“Phải – mạnh mẽ, dũng cảm, can đảm, tinh thần – bốn từ cần thiết để có được một bài diễn văn hay trong tư cách nữ hoàng,” Khăn Đỏ giải thích rồi nhanh chóng đổi chủ đề.
“Đã chuyển hết giỏ và váy áo xuống sân trong chưa?”
“Rồi ạ, thưa Nữ hoàng tôn quý,” cô hầu đáp.
Sáng hôm đó, bọn trẻ thức dậy trong niềm phấn khởi khi thấy sân trong lâu đài đã biến thành một xưởng đóng tàu. Hàng ngàn, hàng ngàn cái giỏ trong bộ sưu tập của Khăn Đỏ được chất lên cao ngất ở một góc sân và hàng trăm bộ váy mùa hè được những người hầu chồng đống ở một góc khác.
Jack thức suốt đêm thực hiện bản vẽ chi tiết con tàu bay. Bản thiết kế được dán trên một tấm bảng khổng lồ đặt giữa sân để mọi người đều thấy.
“Chắc là ổn rồi,” Jack nói với một cái ngáp dài. “Bao lâu nữa thì thợ sẽ tới?”
“Vài người đã có mặt, phần còn lại có lẽ sẽ tới trước buổi trưa,” Froggy đáp.
Goldilocks đưa mắt nhìn khắp sân trong. “Tôi nghĩ chúng ta có chút rắc rối,” cô nói và khoát tay về phía chồng váy. “Ai lãnh nhiệm vụ làm khí cầu và buồm bây giờ?”
Alex và Conner nhìn nhau, đứa này hy vọng đứa kia có câu trả lời và ngược lại.
“Đừng nhìn em chứ,” Conner nói. “Em chỉ vừa đủ điểm qua môn Kinh tế gia đình. Chỉ có rót ngũ cốc thôi mà suýt nữa em đã làm cháy trường rồi, nhớ không?”
“Em không giỏi dùng kim lắm,” Alex thú nhận. “Mọi người có biết thợ may nào giỏi trong vương quốc không?” “Ta đã nhờ Bà ngoại rồi,” Khăn Đỏ reo lên, vui vẻ chạy vào sân.
Thoạt đầu không ai lên tiếng, nhưng họ đều có cùng một ý nghĩ.
“Em chắc bà em có thể khâu được khí cầu và buồm cho một con tàu bay không, em yêu?” Froggy dũng cảm hỏi.
“Tất nhiên là được!” Khăn Đỏ nói không chút nghi ngờ. “Một lát nữa, bà và Bà Lão Nhỏ Bé, quản lý Quán trọ Chiếc Giày sẽ tới đây khâu buồm cho chúng ta. Họ rất vui khi nhận được lời đề nghị của em. Bà Ngoại đã may quần áo cho em từ khi em còn là trẻ sơ sinh. Tin em đi – nếu có ai làm được thì đó là bà đấy.”
Nội trong một giờ, bà của Khăn Đỏ và Bà Lão Nhỏ Bé đã đến lâu đài, kim chỉ sẵn sàng. Khác với Mẹ Ngỗng, những bà lão này giống hệt như bọn trẻ hằng tưởng tượng. Họ đều có mái tóc bạc, cuốn lại thành búi chặt trên đầu và cặp kính gác trên đầu mũi. Bà Lão Nhỏ Bé chống gậy bước đi còn Bà Ngoại mang một cái ví đầy ắp len và chỉ.
“Cháu cảm ơn rất nhiều vì bà đã tới, Bà Ngoại!” Khăn Đỏ reo lên và ôm chầm lấy bà.
“Không có gì đâu, cháu yêu,” Bà Ngoại đáp. Giọng của bà nhỏ nhẹ, chậm rãi và êm dịu. “Cũng hay khi rời bỏ cuộc đời hưu trí một bữa. Ngày nào, chúng ta cũng chỉ có chơi bài và ngắm cỏ mọc suốt hàng giờ đến khi phát mệt.”
“Cái gì cơ?!” Bà Lão Nhỏ Bé hỏi to. Rõ là bà nghe không được rõ. Và nếu cái cách bà nheo nheo mắt có nói lên điều gì, thì đó là mắt bà cũng không còn tỏ.
Bà Ngoại nói thẳng vào tai bà lão. “Tôi đang bảo cháu Khăn Đỏ rằng chúng ta rất vui khi được ra khỏi Quán Trọ Chiếc Giày.”
“Ai bị chết cơ?!” Bà Lão Nhỏ Bé hỏi.
“Không phải chết – là Khăn Đỏ, cháu gái của tôi,” Bà Ngoại giải thích.
“Cháu gái bà chết rồi hả?!” Bà Lão Nhỏ Bé hoảng hốt hỏi.
Bà Ngoại quay lại với Khăn Đỏ. “Đừng để ý tới bà ấy, cháu yêu. Bà ấy có hơn hai trăm đứa cháu – tai của bà ấy không còn tốt như xưa.”
Froggy, Goldilocks, Jack và bọn trẻ càng lúc càng bi quan hơn. Bàn tay của những bà lão này có thể đảm nhận nhiệm vụ khó khăn thế không?
“Đây là cái mà chúng cháu đang cố gắng làm,” Khăn Đỏ giới thiệu và cho hai bà lão xem thiết kế trên bảng. “Bà nghĩ bà có thể làm được không ạ?”
“Để xem nào,” Bà Ngoại nói và đẩy kính lên để nhìn rõ hơn. “Hình như mấy đứa có mấy thứ từa tựa buồm và bóng khí hả? Định đi du hí à?”
“Đúng là vậy ạ!” Khăn Đỏ đáp, đầu ngẩng cao. “Chúng cháu sẽ đi cứu thế giới!”
“Hay đấy, cháu yêu,” Bà Ngoại nói và vỗ lưng cô cháu.
Bà có vẻ chẳng mấy quan tâm tới những điều Khăn Đỏ nói, như thể một đứa bé gái vừa khoe với bà là nó sắp lên mặt trăng vậy. “Cháu có vải chưa hay ta về cửa hiệu lấy?”
“Chắc chúng cháu đã có đủ mọi thứ cần thiết ở đây rồi ạ,” Khăn Đỏ trả lời và phác tay về phía núi váy áo chồng đống trong góc.
“Ồ, xem cháu kìa, thực hành tiết kiệm đấy,” Bà Ngoại tấm tắc. Bà nhìn lên bảng một lần cuối, nhìn sang chồng váy, đoạn gật đầu. “Được rồi, ta nghĩ chúng ta sẽ xoay xở được.”
Khăn Đỏ nhảy cẫng lên và vỗ tay. Những người khác trông có vẻ bán tín bán nghi hơn bao giờ hết.
“Bà có chắc bà làm được không ạ?” Jack hỏi. Trước khi anh nhận được câu trả lời, hai lão bà đã ngồi vào mấy chiếc ghế cao gần chồng váy và bắt đầu tháo tung các đường may.
“Ôi, thế này đâu ăn nhằm gì,” Bà Ngoại đáp. “Cháu có nhớ cái mùa hè mà cháu phát phì không, Khăn Đỏ? Tội nghiệp cháu cưng, cháu tăng cân nhiều đến nỗi tuần nào bà cũng phải may váy mới cho cháu.”
Bọn trẻ phải cắn tay mới không phì ra cười. Goldilocks thậm chí không thèm che giấu tiếng khúc khích.
“Thế cơ ạ?” Goldilocks thốt lên với nụ cười tinh quái.
Khăn Đỏ ửng lên cái màu mà cô mang tên, còn thẫm hơn nữa. “Bà, cháu không nghĩ đây là lúc thích hợp để…”
“Đó là lý do mà ta làm cho con bé cái áo choàng có khăn nổi tiếng đó,” Bà Ngoại kể tiếp, hoàn toàn không nhận ra sự xấu hổ của cháu gái. “Đó là thứ duy nhất mà con bé mặc vừa hơn một tuần! Mỗi lần ta ngã bệnh là con bé lại đến thăm với chiếc giỏ không. Ta chẳng hiểu sao mẹ con bé cứ phái nó tới chỗ ta mãi; rồi ta phát hiện Khăn Đỏ đã chén hết bánh nướng trong giỏ trên đường đến nhà ta.”
Không ai trong sân có thể che giấu tiếng cười sau khi nghe chuyện. Cả Froggy cũng để vuột ra một tiếng cười khẽ.
“Ta bị rối loạn ăn theo cảm xúc mà!” Khăn Đỏ tuyên bố để biện hộ cho mình. “Lúc đó có rất nhiều chuyện đè nặng lên tâm trí ta.” Cô vô tình đưa mắt nhìn Jack. “Ơn trời, như những bộ trang phục của mình, ta đã qua khỏi giai đoạn đó.”
“Phải, cháu yêu à,” Bà Ngoại nói. “Tất cả chúng ta đều cảm thấy biết ơn vì điều đó – trừ cửa hàng vải.”
Bà Ngoại và Bà Lão Nhỏ Bé đồng loạt tháo tung những đường may dài đáng kinh ngạc. Âm thanh làm Khăn Đỏ thêm khó chịu. Mặc dù đó là ý của cô, Khăn Đỏ vẫn không chịu nổi cảnh những chiếc váy của mình bị xé toạc ra – cũng không thể quanh quẩn đó để nghe bà kể thêm vài kỷ niệm đáng xấu hổ nữa.
“Cáo lỗi mọi người nhé,” Khăn Đỏ lên tiếng và dợm bước khỏi sân. “Ta nghĩ ta sẽ nằm nghỉ một lát. Cuộc đời ta bất chợt biến thành một vở kịch của Shakeyfruit rồi.”
Chắc hẳn tin đồn đã lan truyền khắp vương quốc, vì đến trưa, sân trong đã đông nghẹt thợ xây dựng cũng như thợ mộc, hăm hở được giúp ích cho vị nữ hoàng trẻ tuổi.
Chú Heo Út là người đến sau cùng, kéo theo một cái hộp dụng cụ to bằng nửa người chú ta.
“Ta đã thở hổn hển kéo cái thứ này suốt từ thị trấn tới đây,” chú ta nói với những người khác. “Đáng đời ta vì mắc nợ Nữ hoàng Khăn Đỏ.”
Jack trèo lên một cái giỏ cỡ lớn để nói chuyện với cả phòng. “Xin chào, và cảm ơn mọi người rất nhiều vì đã tới! Tôi sợ rằng nhiệm vụ rất nặng nề và có rất ít thời gian, vì vậy, thứ lỗi cho tôi vì nói vội vàng. Nữ hoàng đã vạch ra một chiến dịch với hy vọng cứu lấy những gì còn lại sau sự trở về của Phù thủy Hắc Ám. Chiến dịch này cần đến một con tàu đặc biệt, được thiết kế để lèo lái giữa mây trời thay vì sóng biển, và nó phải được gấp rút đóng xong.”
Jack băng qua gian phòng đến chỗ bản thiết kế.
“Mọi người hãy đến quanh đây mà xem,” Jack hướng dẫn. “Nguyên vật liệu của chúng ta rất ít ỏi nhưng tôi tin rằng nếu theo sát kế hoạch, chúng ta có thể đóng xong tàu chỉ trong vài ngày. Tôi sẽ không giảng giải cho các bạn lý do vì sao kế hoạch này phải được giữ kín tuyệt đối, tôi chỉ nhắc lại rằng sự đóng góp của các bạn có thể giải thoát thế giới này khỏi nanh vuốt Phù thủy Hắc Ám. Vì vậy, nếu các bạn có lòng góp cho chúng tôi công sức và lòng tận tụy chúng ta có thể bắt đầu ngay lập tức và chấm dứt những tháng ngày hỗn loạn này một lần và mãi mãi.”
Không người thợ nào phản đối – lời nói của anh đã lên dây cót tinh thần họ đến mức không cần phải hỏi. Nửa nhóm bắt đầu tuốt giỏ ra thành những mẩu gỗ có thể sử dụng trong khi những người khác sắp xếp chúng và bắt tay vào biến chúng thành mũi thuyền.
Jack rạng rỡ hẳn lên. Lần đầu tiên sau một thời gian dài, anh được chịu trách nhiệm điều hành việc chế tạo – và anh là một người chỉ huy giỏi.
“Anh ấy giỏi những việc này thật,” Alex nói với Goldilocks.
“Khá giỏi,” Goldilocks đáp lại với nụ cười vui buồn lẫn lộn. “Anh ấy không có nhiều dịp để làm một người hùng nữa.”
Gương mặt cô đầy tự hào, nhưng trong khi quan sát anh chỉ huy những người thợ mộc, niềm tự hào dần bị thay thế bởi cảm giác tội lỗi. Jack là một thành viên được kính trọng và yêu quý trong cộng đồng Quàng Khăn – anh đã vất bỏ tất cả khi quyết định cùng cô trốn chạy. Mặc dù Goldilocks biết đó là lựa chọn của chính anh, cô vẫn không thể ngăn mình cảm thấy phần nào trách nhiệm.
“Ui da!” Conner ré lên. Cậu bé đã nhập bọn cùng những người thợ mộc và cứ bị dằm xóc vào trong khi tách mấy cái giỏ ra. “Sao mọi người làm có vẻ dễ dàng quá vậy?” Chú Heo Út im lặng và chìa móng guốc ra.
“Hiểu rồi,” Conner nói. “Lúc nào tôi cũng nghĩ là người ta đánh giá cao bàn tay quá mức mà.”
Một ngày trôi qua thật nhanh trong khi những người thợ mộc làm việc không mệt mỏi. Jack càng lúc càng lo lắng, anh biết mình còn phải đi tìm Người Bán Rong.
Anh để Froggy và chú Heo Út ở lại giám sát công trình sau khi cẩn thận giải thích rõ ràng li từng tí bản thiết kế.
“Việc này đang tiến triển tốt hơn tôi tưởng!” Froggy nói với một cái nhảy phốc vui sướng. “Anh gọi cái dụng cụ kỳ cục này là gì?”
Chú Heo út đảo tròn mắt. “Đó là một cây búa,” chú ta giải thích.
“Vậy ra đây là một cái búa! Thú vị thật,” Froggy reo lên và xem xét nó kỹ lưỡng. Bất kể mọi chuyện đã trải qua, về bản chất, anh vẫn là một chàng hoàng tử.
“Nghĩ lại thì có lẽ tôi không nên đi,” Jack lo lắng nói.
“Họ sẽ ổn thôi,” Goldilocks bảo và bắt đầu kéo Jack đi xa khỏi những người thợ mộc. “Anh là một thầy giáo tuyệt vời đấy.”
Goldilocks và Jack bị gọi lại trước khi họ có thể rời khỏi sân trong.
“Hai người kia!” Khăn Đỏ gọi với xuống từ một ô cửa sổ. Cô nàng đang cầm một phong thư trắng vừa mới mở. “Hãy đưa hai đứa nhóc song sinh đi cùng nữa! Ta vừa nhận được tin các vị tiên sẽ đến đây điều tra về vụ bức tường biến mất và ta không muốn hai nhóc đó lảng vảng quanh đây khi họ tới!”
“Ôi trời,” Conner than. “Em đang mong được phụ đóng tàu mà!”
“Vậy thì chắc chắn là cậu nên đi rồi,” chú Heo Út bảo và giằng một mẩu gỗ khỏi tay cậu bé.
“Tốt thôi,” Goldilocks đồng ý. “Bọn trẻ có thể giúp chúng tôi tìm Người Bán Rong.”
Alex và Conner phải thừa nhận rằng chúng cũng có chút háo hức khi được tham gia chuyến săn tìm.
“Ta phải nói gì với các vị tiên khi họ thấy cái công trình đang thi công này đây?” Khăn Đỏ hỏi.
Alex nhanh miệng trả lời. “Hãy bảo họ rằng chị đã quyết định gộp tất cả những chiếc giỏ nhỏ lại thành một cái giỏ lớn,” cô bé đáp.
Khăn Đỏ nhăn trán lại. “Có ai tin được ta lại đi làm chuyện đó không chứ?”
“Có,” người trong cả sân đồng thanh trả lời. Cả những người thợ mộc và hai bà lão cũng nhất trí như vậy.
Khăn Đỏ gầm gừ. “Được thôi,” cô nói rồi lập tức đóng cửa sổ lại.
“Chúng ta cần thêm một con ngựa nữa nếu bọn trẻ đi cùng,” Goldilocks chỉ ra.
“Không phải lo,” Froggy nói. “Chúng tôi có nhiều ngựa trong chuồng lắm. Các bạn có thể chọn một con.”
Bọn trẻ hào hứng chạy lên phòng ngủ và gom góp những thứ chúng nghĩ sẽ cần đến trong khi tìm kiếm Người Bán Rong. Bọn trẻ gặp Jack và Goldilocks trong chuồng ngựa của lâu đài, nơi họ đang bận xếp đồ lên cô ngựa màu kem nổi tiếng, Porridge.
Porridge bồn chồn liếc nhìn những con ngựa khác. Goldilocks không nói quá; cô ngựa thật sự không ưa những con ngựa khác. Và khi bọn trẻ nhìn quanh lũ ngựa được chải chuốt hoàn hảo, cũng không khó giải thích thái độ của Porridge. Trong khi Porridge đã lăn lộn với thế giới ngoài kia, trốn chạy khỏi luật pháp với cô chủ, những con ngựa khác đã sống những ngày thư thái trong chuồng – hèn gì mà chúng không hòa hợp.
“Chúng ta nên lấy con ngựa nào bây giờ?” Alex hỏi.
“Ừm… con đó,” Conner đáp và chỉ về phía một chú ngựa đực to lớn màu nâu ở cuối chuồng.
“Vì sao lại là nó?” Alex thắc mắc.
“Bởi vì nó là con duy nhất không đeo nơ trên bờm,” Conner giải thích.
“Đó là Buckle,” người trông chuồng ngựa cho bọn trẻ biết. “Có chắc là các cháu muốn con đó không? Nó hơi dữ đấy.”
Conner đánh một vòng quanh chuồng ngựa để cho chắc chắn. “Chắc ạ,” cậu bé cam đoan. “Tất cả những con khác trông như búp bê ở cửa hàng đồ chơi ấy.”
“Tùy cháu thôi,” người trông chuồng ngựa nói. “Nhưng đừng nói là ta chưa cảnh báo các cháu đấy.” Ông ta vắt một cái yên có những cái khóa bằng bạc lớn nhất mà bọn trẻ từng thấy qua lưng chú ngựa.
“Đó là lý do ông gọi chú ngựa là Buckle ạ?” Alex hỏi.
“Một phần thôi,” người trông chuồng ngựa đáp. “Rồi các cháu sẽ thấy.”
Vài phút sau, Jack, Goldilocks và bọn trẻ đã khởi hành. Jack và Goldilocks cưỡi Porridge đi trước dẫn đường trong khi Alex và Conner cưỡi Buckle theo sau họ vài thước. Chẳng mấy chốc bọn trẻ đã hiểu sao chú ngựa được đặt tên như vậy – cứ vài thước là chú ta lại hung hăng nhảy dựng lên và hí to hết sức. Rõ ràng là chỉ có những cái khóa bạc ấy mới đủ để giữ chặt cái yên trên lưng chú ngựa.
“Làm sao làm dịu cái thứ này được nhỉ?” Conner hét lên, ghì chặt lấy dây cương hết sức có thể.
“Chị nghĩ chị sẽ phát ốm mất!” Alex nói. Cô bé ôm choàng em trai chặt hết sức có thể mà không làm cậu gãy mất mấy cái xương sườn.
Goldilocks điều khiển Porridge quay lại để đối phó với Buckle.
“Porridge, hãy bảo cho cái con ngựa khoe mẽ đó thôi đi,” Goldilocks bảo cô ngựa. Porridge hí vang chê trách Buckle, và chú ta thôi nhảy dựng lên ngay lập tức.
Porridge đảo tròn mắt nhìn Buckle. Buckle khụt khịt như thể tán tỉnh Porridge. Việc này khiến bọn trẻ hơi khó chịu – rõ là giữa hai con ngựa đã có một quá khứ thế nào đó mà hai đứa chẳng hề có hứng muốn biết.
Bọn trẻ theo Porridge rời khỏi Vương quốc Quàng Khăn Đỏ và đi vào một khu rừng nằm dọc theo biên giới Vương quốc Charming và Vương quốc Tiên. Jack và Goldilocks hết sức cảnh giác – Phù thủy Hắc Ám đã biến cả thế giới thành Rừng Chú Lùn.
Trước khi họ kịp nhận ra, trời đã sụp tối, họ dựng một cái trại nhỏ bên cạnh đường đi. Alex và Conner trải lên mặt đất vài tấm chăn để ngủ.
“Sự thiếu tiện nghi này kỳ thực cũng dễ chịu đấy chứ,” Conner nói khi đã duỗi người nằm xuống nền đất cứng. “Em nghĩ em thật sự nhớ cảm giác thiếp ngủ trong những khu rừng xa lạ.”
“Hãy quen với nó đi,” Alex bảo cậu. “Chúng ta có cả một chuyến phiêu lưu dài phía trước.”
“Đúng thế,” Conner đáp. “Nhưng ít ra lần này chúng ta có bạn bè.”
Khác với cậu em, Alex không ngủ được. Sau khi lăn qua trở lại một hồi, cô bé vùng dậy và đến ngồi bên cạnh Goldilocks, đang mài kiếm bên đống lửa trại nhỏ. Cô đang canh gác cho những người khác ngủ.
“Chị không giống với bất kỳ người phụ nữ nào em từng gặp,” Alex nói với cô.
“Vì sao vậy?” Goldilocks hỏi.
“Chị thật tự tin và tự chủ,” Alex đáp. “Nhiều người con gái – đặc biệt là trong thế giới của em – thật quá tự ti và đố kỵ. Chúng em dựa vào nhau quá nhiều, nhưng lại đối xử với nhau rất ích kỷ. Chúng em có thể lấy chị làm tấm gương để noi theo.”
Khi nghe vậy, Goldilocks đâm ra buồn bã. “Chị cũng từng như thế,” cô kể. “Nhưng sau khi trốn chạy liên miên, chị đã nhận ra rằng dành cả đời chỉ để sinh thù kết oán thì thật chẳng đáng sống. Có bạn bè là lợi thế tuyệt nhất trên đời. Sự đố kỵ chỉ là lời nhắc nhở về sự chán ghét đối với chính bản thân ta. Ai lại có thời giờ mà chú ý đến chuyện đó chứ?”
Alex mỉm cười. “Ý nghĩa quá,” cô bé thốt lên. “Em ước gì mấy đứa con gái ở trường có thể nghe lời chị vừa nói.”
“Hãy đem theo một thanh kiếm đến trường. Tin chị đi – đám con gái đó sẽ để yên cho em,” Goldilocks bảo.
“Ôi, em đâu thể làm thế,” Alex nói. “Ở thế giới của em, người ta không tán thành việc sử dụng bạo lực. Không giống ở đây; không cần thiết phải dùng bạo lực ở đó.”
Goldilocks thích thế. “Vậy thì hãy tìm hiểu xem thanh kiếm của em là gì – hãy tìm ra ưu điểm của riêng em – và hãy kiêu hãnh giắt nó lên mình. Hãy chiến thắng đám con gái đó bằng cách tỏ ra hoàn toàn hài lòng với cuộc đời em,” cô bảo. “Nhưng dẫu sao, chị cũng là một tên tội phạm bỏ trốn. Có lẽ chị không phải là người tốt nhất cho em tìm lời khuyên đâu.”
Alex cất tiếng cười. Đó là một trong những lời khuyên hay nhất em từng nhận được, dù nó đến từ một kẻ tội phạm.
Sáng hôm sau, mọi người thức dậy khi mặt trời mọc. Để giết thời gian, trong khi tìm kiếm, Jack và Goldilocks kể cho bọn trẻ nghe tất tần tật những chuyến phiêu lưu của họ trên đường trốn chạy suốt năm qua.
“Anh biết Goldie biết chiến đấu, nhưng anh không hề biết cô ấy là một chiến binh đáng gờm đến mức nào,” Jack kể. “Anh đang ở đó, trong Vương quốc Góc Khuất, bị hai mươi tên lính vây quanh. Anh vừa bị bắt quả tang trộm một ổ bánh mì từ hiệu bánh. Anh không cầm theo rìu, gươm, không gì hết! Anh vô phương chống trả! Khi đó, như một viên đạn đại bác, Goldie và Porridge tung cửa xông vào và Goldie một mình đánh bọn lính tan tác!”
“Không đời nào!” Conner thốt lên.
“Anh ấy thêm mắm thêm muối đấy; chỉ có một tá lính thôi,” Goldilocks sửa lại với một cái nhún vai khiêm tốn.
“Chị học đánh nhau ở đâu vậy, Goldilocks?” Conner hỏi. “Chị có thể dạy cho em không? Lúc nào em cũng muốn trở thành một kiếm sĩ cừ khôi.”
“Khi chị còn nhỏ, chị nhận ra rằng sẽ không có ai chiến đấu thay chị cả, vì vậy chị đã cầm gươm lên và tự dạy cho mình,” Goldilocks đáp. “Chị có thể chỉ cho em vài mánh nếu em thích.”
“Tuyệt cú mèo!” Conner reo lên. “Em phối hợp tay và mắt rất tốt! Em đạt được điểm cao nhất trong trò Pac-Man ở khu trò chơi điện tử đấy.”
Jack và Goldilocks chẳng biết đó có phải là một thành tích ấn tượng hay không.
“Jack cũng không tệ, các em biết đấy,” Goldilocks khoe. “Có lần anh ấy đã cứu chị thoát khỏi ba tên yêu tinh! Chị bị trói lơ lửng trên một nồi nước sôi ùng ục – chúng hẳn là đã nấu chị thành xúp rồi nếu Jack không đến kịp thời!”
Jack cất tiếng cười lãnh đạm. “Anh chỉ làm chúng phân tâm đủ để em có thời gian cởi trói thôi mà,” anh nói. “Chị ấy đã giải quyết chúng khi được tự do.”
“Nhưng cái tâm của anh mới là điều quan trọng,” Goldilocks nói rồi choàng ôm cổ anh.
Đội tìm kiếm Người Bán Rong lần theo mọi ngả đường mà họ thấy, tìm kiếm dấu vết của ông lão ở khắp nơi.
“Chắc là ông ấy ở đâu đây thôi,” Jack nói. “Đây là nơi anh gặp ông ấy khi còn là một đứa bé. Người ta gọi ông là Người Bán Rong, nhưng ông chẳng bao giờ đi xa cả.”
“Chờ đã,” Goldilocks bảo. Cô nhảy khỏi lưng Porridge và xem xét một lối mòn. Trên mặt đất có hai hàng vết chân chim giống nhau kéo dài rất xa, từ sau lưng họ đến tít trước mặt.
“Loài chim nào mà lại đi bộ xa thế này?” Goldilocks hỏi.
Đôi mắt Jack sáng lên. Bọn trẻ không biết họ đã khám phá ra điều gì nhưng hiểu rằng cuộc tìm kiếm đang có tiến triển. Goldilocks lại cưỡi lên Porridge và đoàn người phi ngựa nhanh hết mức có thể dọc con đường, theo dấu vết đi vào khu rừng phía trước.
Cuối cùng, họ phát hiện một cỗ xe cũ được giấu kín bên vệ đường. Một ống khói nhỏ chĩa ra trên nóc xe. Con la kéo xe đang nghỉ ngơi và được buộc vào một cái cây gần đó.
“Coi dấu vết đó kìa!” Alex nói và chỉ xuống đất. Dấu chân chim dẫn thẳng tới chỗ chiếc xe. Quanh bánh xe có rập nổi hình chân chim – chính chiếc xe đã để lại dấu chân khi chạy trên đường! Đó là một cách vô cùng thông minh để che đậy dấu vết.
“Người Bán Rong?” Jack gọi to. “Ông có ở trong đó không?” Thoạt đầu chẳng có ai đáp lời. Rồi có tiếng sột soạt vội vã vang lên từ trong xe và nó lắc lư qua lại. Nửa trên của chiếc xe bật tung ra và Người Bán Rong hé nhìn ra ngoài.
“Các ngươi là bạn hay thù?” Người Bán Rong hỏi. Đó là một ông già có chòm râu dài bạc, quần áo rách tả tơi, và một con mắt lé. Ông đã già đi một chút kể từ lần cuối bọn trẻ gặp ông, nhưng trông ông vẫn gàn như hồi nào giờ.
“Là bạn!” Conner vui vẻ reo lên. “Đúng hơn là bạn cũ! Ông có nhớ chúng cháu không?”
Người Bán Rong ngắm nghía gương mặt chúng.
“Cậu bé của ta, ta nhớ tất cả những vụ buôn bán ta từng thực hiện,” Người Bán Rong đáp. “Nhưng về già, trí óc của ta đã suy nhược, và những gương mặt đã mờ đi trong ký ức ta.”
Jack, Goldilocks và bọn trẻ xuống ngựa rồi đến gần để ông có thể nhìn rõ họ hơn.
“Ông đã giúp chúng cháu thoát khỏi Lãnh địa Quỷ lùn và Yêu Tinh vào một năm trước,” Alex nói. “Chúng cháu đã gặp ông trong ngục và ông đã đổi tự do của ông lấy tự do cho chúng cháu. Ông đã kể cho chúng cháu biết về Bùa Ước.”
Người Bán Rong vuốt râu, phủi đi những mẩu vụn bánh. Ông hẳn đang dùng bữa giữa chừng.
“À, phải,” ông vừa nói vừa nheo một bên mắt lại. “Ta thừa nhận là có nhớ loáng thoáng. Ta ước mình có chút ký ức nào về cháu, nhưng không,” ông nói với Goldilocks.
“Còn cháu – chắc là ta còn nhớ cháu đấy,” ông lão bảo Jack.
Từ lúc chúng ta gặp nhau đến nay đã lâu lắm rồi,” Jack đáp. “Ông có nhớ một cậu bé đã đổi một con bò lấy những hạt đậu thần không?”
Người Bán Rong tròn mắt và há hốc vì vui sướng. “Ngạc nhiên chưa,” ông nói và vỗ hai tay vào nhau. “Chẳng phải Jack đó ư, khách hàng ta yêu thích nhất!”
Jack vui sướng gật đầu với ông. “Là cháu đây, ông!” anh nói. “Thật vui khi được gặp lại ông!”
“Vào đi, chàng trai của ta!” Người Bán Rong bảo và mở toang nửa dưới cửa xe. “Ta vừa làm vài cái bánh pút-đing chim trĩ!”
Ông biến mất vào trong cái xe đẩy và những người khác bắt chước ông.
Cỗ xe nhỏ rất chật chội. Một cái giường bị đẩy sát về cuối xe, một cái bàn nhỏ xíu ở giữa và dọc theo vách là những cái tủ, kệ và lồng. Bình nước, chổi, xô, dao và đủ thứ linh tinh khác bày ra trên kệ và trong tủ. Bọn trẻ biết những vật dụng này hẳn phải có tính năng lạ lùng nào đó, đang nằm chờ được đem ra trao đổi. Ngỗng, vịt và lợn bị nhốt trong lồng – Người Bán Rong đã thu được chúng trong mấy vụ đổi chác gần đây.
“Ngồi đi, ngồi đi,” Người Bán Rong giục. Jack, Goldilocks và bọn trẻ chen chúc quanh cái bàn nhỏ xíu. Người Bán Rong đưa mỗi người một đĩa pút-đing chim trĩ (là những mẩu thịt chim còn dính lông nổi lềnh bềnh trong một thứ nước xốt bí hiểm) và một ổ bánh mì thiu.
Bọn trẻ phải bịt mũi lại để không phát nôn.
“Vậy, cái gì đã đưa cháu đến chốn rừng sâu này, anh bạn cũ?” Người Bán Rong hỏi Jack với một cái vỗ lên lưng anh.
“Thật ra, chúng cháu đang đi tìm ông đấy ạ,” Jack đáp.
“Và vì sao mà ta lại có hân hạnh được là đối tượng của cuộc tìm kiếm này?” Người Bán Rong tiếp tục hỏi.
Conner phải tua lại câu nói này trong đầu mới hiểu được Người Bán Rong muốn hỏi gì. Jack do dự nhìn sang những người khác trước khi thú thật.
“Cháu thắc mắc không biết ông còn hạt đậu thần nào không?” anh hỏi. “Những hạt đậu mà ông đã cho cháu khi cháu còn nhỏ ấy?”
Con mắt tốt của Người Bán Rong chạy quanh phòng. Ông thật sự ngạc nhiên trước yêu cầu này.
“Vì sao cháu lại muốn có thêm đậu thần chứ?” ông hỏi. “Mớ đậu lần trước rõ ràng đã cho cháu những chuyến phiêu lưu đủ đến suốt đời rồi mà.”
“Đúng là vậy,” Jack nói. “Nhưng chúng cháu không cần một chuyến phiêu lưu mà cần đường trở lại lâu đài gã khổng lồ. Cây đậu thần đã bị đốn bỏ và chúng cháu hy vọng có thể trồng một cây khác.”
Con mắt tốt của Người Bán Rong chăm chú quan sát từng gương mặt. “Nhưng vì sao các cháu lại cần trở lại lâu đài của gã khổng lồ vào thời buổi này?” ông dò hỏi.
Nhóm bạn nhìn nhau. Alex quyết định rằng họ không có thời gian vòng vo nên đi thẳng vào trọng tâm.
“Ông đã bao giờ nghe nói tới Đũa thần Huyền Diệu chưa ạ?” Alex hỏi.
“Đũa thần Huyền Diệu?” Người Bán Rong hỏi lại.
Conner bắt đầu giải thích. “Đó là một cây Đũa thần được làm ra từ sáu vật sở hữu quý giá nhất của sáu người đáng ghét nhất thế gian.”
Người Bán Rong giơ tay lên ra hiệu cho cậu bé im lặng. “Anh bạn trẻ, ta đã biết về Đũa thần Huyền Diệu từ lâu, còn nhiều năm hơn tuổi đời cháu nữa,” ông nói. “Ta chỉ thấy khó hiểu sao các cháu lại chọn nó làm ưu tiên hàng đầu trong tình cảnh hiện nay.”
“Đó là lý do đấy, Ngài Bán Rong – cháu gọi ông là Ngài Bán Rong được không ạ,” Alex giải thích. “Chúng cháu đang cố gắng làm ra cây đũa phép để xoay chuyển tình hình. Chúng cháu đang cố ngăn chặn Phù thủy Hắc Ám, và đó là cách duy nhất chúng cháu biết.”
Cả cỗ xe lặng tiếng. Cả bọn nhấp nhổm không yên, lo lắng vì quyết định nói ra sự thật của Alex. Liệu sự thật có giúp bọn họ lấy được những hạt đậu thần không?
Người Bán Rong ngồi yên vị lại trên ghế và vuốt râu, hết nhìn Alex lại sang Conner. “Giờ ta nhớ ra hai cháu rồi,” ông nói khẽ. “Ta không nhớ chính xác ở đâu hay khi nào, nhưng ta vẫn nhớ gương mặt hai cô cậu bé đang thực hiện một hành trình tìm kiếm phi thường. Bọn trẻ vô cùng tham vọng khi theo đuổi mục tiêu, nhưng cũng cực kỳ nhân ái trong nỗ lực theo đuổi đó – bọn trẻ không thèm muốn vinh quang, mà theo đuổi sự giao hòa, tương thân tương ái. Ta quyết định giúp bọn trẻ vì ta biết một ngày kia, chúng ta sẽ gặp lại nhau.”
Bọn trẻ không biết phải nói gì. Chúng vẫn không thôi cảm kích ông vì đã tốt bụng cứu thoát chúng.
“Cháu đoán là trực giác của ông đã đúng,” Conner nói. “Nhưng phải đến bây giờ chúng cháu mới tìm cách cứu thế giới ạ.”
Người Bán Rong quan sát chúng thêm một lúc nữa. Rồi ông đứng dậy và đi đến bên một cái tủ. Ông lục tìm khá lâu, lôi ra những cái dĩa, cái ly, mấy món đồ vật, dụng cụ có hình thù kỳ lạ rồi cuối cùng là một chiếc túi nhỏ màu nâu.
Người Bán Rong dốc cái túi ra bàn, và bọn trẻ thấy chúng đang nhìn vào ba hạt đậu. Chúng tròn và mập như đậu lima nhưng có màu đen và nảy lưng tưng.
“Đậu thần!” Jack phấn khởi reo lên. “Ông vẫn còn vài hạt!”
“Chúng là những hạt cuối cùng ta có,” Người Bán Rong nói. “Cũng không dễ tìm đâu. Đậu thần phải được hái từ một loại cây sống trong đất bón phân kỳ lân và tắm tưới bằng nước mắt phù thủy. Nhưng đây là quà của ta dành cho các cháu.”
Mọi người liền bật dậy. “Ông có chắc không?” Goldilocks ngạc nhiên. “Chúng cháu đã chuẩn bị đồ để trao đổi mà.” Cô lấy từ trong chiếc ủng ra một nắm kim cương.
“Goldie, em lấy chúng ở đâu thế?” Jack kinh ngạc hỏi.
“Em trộm của Khăn Đỏ khi cô ta không để ý - cô ta sẽ không nhớ nhung gì chúng đâu,” Goldilocks đáp. “Em đã nghĩ rằng chúng ta phải đánh đổi bằng một thứ gì đó.”
Người Bán Rong vốc lấy những hạt đậu, bỏ chúng vào túi trở lại và đưa nó cho Jack.
“Hãy coi đó là phần đóng góp nho nhỏ của ta cho những con người dũng cảm dám chống lại Phù thủy Hắc Ám độc ác,” Người Bán Rong nói.
“Dễ vậy sao,” Conner thốt lên. Cậu bé không thể tin được vận may của họ. “Có lẽ làm cây đũa phép này cũng chẳng quá khó.”
“Sẽ còn rất nhiều hiểm nguy phía trước, ta e là thế,” Người Bán Rong bảo. “Nhất là khi các cháu lại đang theo đuổi cây Đũa thần Huyền Diệu. Ta biết mà. Ta đã từng thử làm cho mình một cái khi còn là một chàng trai trẻ.”
“Thật ạ?” Alex hỏi, không ngăn nổi sự ngạc nhiên. “Vậy có nghĩa là nó có thật?”
“Ồ phải, nó có thật đấy, ta cam đoan với cháu,” ông bảo cô bé. “Cũng như Bùa Ước mà các cháu theo đuổi trước đây vậy, nhiều kẻ ngốc từng cố tạo ra bùa chú đó cho riêng mình và chết trong khi cố gắng. Trong hành trình tìm kiếm đó, ta đã trở thành người bán rong mà các cháu thấy bây giờ. Ta nhận ra bán mấy món lặt vặt hay ho có lợi hơn tìm kiếm chúng nhiều.”
“Ông có biết điều gì đang chờ chúng cháu ở phía trước không ạ?” Conner hỏi.
“Ta chỉ có thể mường tượng thôi,” Người Bán Rong đáp. “Hãy nhớ rằng ngay cả nơi trông có vẻ vô hại nhất cũng sẽ làm các cháu kinh ngạc với những gì đang lẩn khuất trong bóng tối của nó – và những hạt đậu này cũng không phải là ngoại lệ! Mặc dù tên khổng lồ đã chết, vẫn còn nhiều hiểm nguy chờ đợi các cháu trong lâu đài của hắn.”
Conner nuốt nước bọt rõ to. “Ông có thể nói cụ thể hơn không ạ?” cậu bé hỏi tiếp.
“Chàng trai trẻ, nếu ta mà có cái tính rõ ràng cụ thể thì đâu có nhìn theo hai hướng khác nhau được,” Người Bán Rong nói và con mắt tốt của ông nhìn Conner trừng trừng.
“Chúng cháu không biết cảm ơn ông sao cho đủ,” Jack lên tiếng. “Lòng tốt là một điều rất hiếm gặp trong rừng.”
“Nhưng chính ta mới là người phải cảm ơn cháu,” Người Bán Rong bảo. “Sau khi đổi cho cháu mấy hạt đậu đó, việc buôn bán của ta phát đạt hơn rất nhiều! Cháu đã cho ta cái nghề này, anh bạn cũ! Bao giờ ta cũng coi cháu như một đứa con trai, Jack à.”
Conner húng hắng giọng. “Kiểu con trai mà ông đổi chác với giá rẻ mạt và đẩy vào một một cuộc phiêu lưu mất mạng như chơi ấy ạ?” Conner hỏi vặn.
Người Bán Rong suy nghĩ lại. “Vậy chắc là giống cháu trai hơn nhỉ,” ông nói. Ông nhìn qua cửa xe và trông ra bầu trời đang sụp tối. “Thời gian đi đâu hết rồi? Ta phải cáo từ các cháu thôi. Ta phải khởi hành trước khi mặt trời khuất bóng. Ta chưa bao giờ ở một chỗ hơn một ngày – để buôn bán trót lọt, uy tín vững vàng.” Ông nháy con mắt bình thường, chẳng biết cái nháy mắt ấy là hướng tới người nào nữa. “Chúc may mắn, các bạn của ta.”
Jack, Goldilocks và bọn trẻ ra khỏi xe, trở lại với hai chú ngựa. Người Bán Rong kéo cương con la và lao vào rừng rậm khi mặt trời bắt đầu lặn xuống. Bọn trẻ tự hỏi chúng phải lâm vào tình huống đặc biệt nào mới được gặp lại ông đây.
“Anh nghĩ ý ông ấy là gì khi nói rằng còn nhiều mối hiểm họa khác chờ đợi chúng ta ở lâu đài gã khổng lồ?” Conner thắc mắc. “Tên khổng lồ không để lại một bà quả phụ điên hay cái gì tương tự, phải không?”
“Kể từ khi anh lên đó tới nay đã lâu lắm rồi,” Jack vừa nói vừa trèo lên lưng Porridge. “Tên khổng lồ là thứ duy nhất làm anh phát khiếp trong lâu đài. À, dĩ nhiên là cả tiếng hát của đàn hạc vàng nữa.”
Bọn trẻ và Goldilocks lên ngựa rồi phi về hướng ngược với Người Bán Rong, quay lại Vương quốc Quàng Khăn Đỏ. Họ đi suốt đêm, chiều hôm sau đã đến nơi và trông thấy công cuộc đóng tàu đã tiến triển rất nhiều.
Khăn Đỏ, Froggy và chú Heo Út đang xúm xít quanh bản thiết kế.
“Mọi người có tìm được Người Bán Rong không?” Froggy hỏi ngay khi thấy họ đi tới.
Conner giơ chiếc túi nhỏ chứa đậu thần lên. “Thắng lợi đầu tiên mở màn cho nhiều thắng lợi sau, hy vọng thế,” cậu bé đáp. “Nhân tiện, Froggy, sau khi thấy món ăn của ông ấy, em sẽ chẳng bao giờ trêu anh về món trà lá sen nữa!”
“Trông tuyệt quá!” Alex reo lên. Con tàu đã đóng được hơn một nửa.
“Chắc ngày kia là tất cả sẽ hoàn tất,” chú Heo Út bảo.
Jack không vội cho lời khen ngợi. “Nó trông lớn hơn nhiều so với kế hoạch của tôi,” anh nhận xét.
“Phải, về chuyện đó thì…” Froggy vừa nói vừa cất tiếng cười áy náy.
“Nữ hoàng Khăn Đỏ đã thêm thắt vài thứ vào bản vẽ của anh,” chú Heo Út thông báo.
“Thêm thắt?” Jack hỏi lại và nhìn sang Khăn Đỏ.
“Ừ thì, ta nghĩ rằng vì ta sẽ đi theo các ngươi nên con tàu cần có vài phòng cho ta,” Khăn Đỏ nói như thể đó là chuyện hiển nhiên. “Ta đã thêm khoang dưới cho mình và đồ đạc – nhưng đừng lo, có thừa chỗ cho các ngươi ở khoang trên mà.”
Jack thở dài và dụi mắt. Goldilocks trông như thể sắp xông tới bóp cổ ai đó, nên bọn trẻ quyết định lui đi trước khi cô làm thế thật. Chúng có thể nghe tiếng Goldilocks và Khăn Đỏ cự cãi trong khi lên cầu thang về phòng ngủ.
Mặt trời sắp lặn xuống, kết thúc một ngày nữa và vừa đặt lưng xuống giường là bọn trẻ thiếp đi ngay. Chúng biết những ngày tới sẽ khó khăn vô cùng, nhưng đã xác định được Đũa thần Huyền Diệu là một công cụ có thật để lật đổ Phù thủy Hắc Ám, nên chúng chỉ tập trung nghĩ về điều đó và để niềm hân hoan ru chúng vào giấc ngủ.
Vào khoảng một giờ sau nửa đêm, Conner thức giấc với một cảm giác khó chịu. Cậu bé không thể gạt đi cảm giác có ai đó đang dõi theo khi cậu ngủ. Mắt cậu chơm chớp rồi mở hẳn và khi có thể nhìn thấy rõ ràng, trái tim cậu bé muốn vọt ra ngoài. Đứng ở cuối giường, đang chăm chú nhìn cậu, là một người phụ nữ.
Bà ta xinh đẹp và trong suốt. Mái tóc bà bồng bềnh, dài thướt tha và có một đóa hồng giắt bên tai. Bà mặc một bộ váy ngủ bên dưới chiếc áo choàng thắt eo. Mặc dù Conner chắc chắn mình chưa bao giờ gặp người phụ nữ này trước đây, trông bà có vẻ quen thuộc một cách kỳ lạ.
“N-n-n-ngươi là ai?” Conner lắp bắp.
Người phụ nữ không trả lời. Bà lướt đến bên cửa sổ và chỉ về một vùng đất ngoài xa. Rồi bà quay lại nhìn cậu bé với vẻ buồn thảm vô cùng.
“N-n-n-ngươi muốn gì?” Conner ấp úng.
Người phụ nữ không đáp lại. Bà vẫn giữ ánh nhìn buồn bã đó và từ từ biến mất.
Conner há hốc. Không còn nghi ngờ gì nữa – cậu bé vừa gặp một hồn ma.