← Quay lại trang sách

Tiếng ngoài hình

Thế là anh lại lên tiếng rồi kia. Nhưng đã có bao giờ anh ngừng nói chưa? Suốt mười năm tôi chỉ có nghe anh mà thôi. Mười năm tôi câm như hến, luôn luôn sẵn sàng đón nhận những lời anh nói, cứ như tôi là một con búp bê có thể bơm phồng chờ anh thổi vào sự sống. Mười năm tôi chứa chan ngưỡng mộ như một tông đồ thu góp mười điều răn của giáo chủ. Ngươi chớ suy nghĩ gì hết, ngươi nín lặng và ngươi tuân lời ta. Và tôi, bao giờ cũng thế, tôi đồng ý. Ngay tự buổi đầu, tôi đã nhìn anh như kẻ nói lắp đón chào hiện thân của Ngôn Từ. Chuyện gì anh cũng bàn luận được, trong khi ý kiến tôi cũng chẳng có, nói chi đến phán xét. Anh thích nói về mình. Anh kể không dứt các tâm trạng anh. Tôi, cứ nghe người ta hỏi, Bình thường chứ? là tôi run lên rồi. Vâng, bình thường. Dù không bình thường đi nữa, tôi không thể nào thú nhận được, sợ bắt buộc phải nói vì sao. Vì sao? Ấy là câu hỏi tôi e ngại nhất. Tôi tưởng như mình đứng trước một tòa án. Không trả lời tức là có tội. Không nói gì tức là đồng tình. Bao giờ tôi cũng đồng tình. Trốn trong câm nín, với tôi, là cách duy nhất cho người ta quên tôi. Miễn sao người ta đừng chú ý đến tôi, đừng hỏi tôi, Cô nghĩ gì thế? Tôi chẳng nghĩ gì hết, tôi là một người đàn bà rỗng tuếch, một cái vỏ trống không. Tôi hay mơ mộng. Trong mơ tôi là Ida Lupino, người đàn bà lúc nào cũng có điếu thuốc trên tay và khiến Richard Widmark say mê lăn lóc, tôi là Sissy Spacek trong Khúc Nhạc hoang dã, tôi là bà dắt chó con đem nỗi buồn thả bộ bên xứ Crimée, tôi là Adèle H. thuê kỹ nữ đến gặp người tình rẻ rúng mình. Tôi nín thở, tôi nhắm mắt, tôi nhập vào phim, tôi thành một nhân vật tưởng tượng nói những điều chẳng thể ngờ, những điều khiến rùng mình. Rồi tôi mở mắt và tôi trở lại là tôi, một tay cầm đèn bấm, tay kia chìa ra nhận tiền thưởng. Cám ơn ông. Cám ơn bà. Đôi khi, tiền thưởng hậu hỹ, tôi nói thêm, Chúc ông một tối vui vẻ, Chúc bà xem một phim hay. Và tôi lui về góc các cô xếp chỗ. Tôi chờ buổi chiếu bắt đầu để lẻn vào ngồi một cái ghế phụ cuối phòng. Thường thì tôi hụt khúc đầu phim vì phải đưa khán giả vào các phòng khác. Thế nên, tỉ dụ, tôi chưa bao giờ được xem cảnh vụ nổ nguyên do cuộc điều tra trong Khát khao cái ác, hay cảnh cơn chóng mặt đầu tiên khiến James Stewart từ nhiệm cảnh sát trước khi nhận theo dõi Kim Novak. Cũng có những phim tôi không biết hồi kết. Tôi phải nhờ kể lại tai nạn trong Khinh miệt, và Ingrid Bergman với George Sanders gặp lại nhau như thế nào sau chuyến đi bên Ý. Tất cả những phim tôi yêu thích nhất, tôi chỉ đã xem từng đoạn, xem lén lút. Tôi ghi nhớ những hình ảnh mà, đến tối, lên giường, tôi cho diễu trong đầu. Tôi nhớ gương mặt hai đứa trẻ, bán nước trà, bị bọn bất lương giết, trong phim của Kanevski. Tôi nhớ cái chết của đứa bé con và nỗi đau đớn câm nín của mẹ nó trong Hòn đảo trơ trụi. Tôi nhớ thằng bé tóc vàng lang thang rồi tự tử, giống như thiên thần của kinh Tận Thế, trong nước Đức của Rossellini vừa tỉnh thức, nhớn nhác, giữa những đống gạch vụn chế độ quốc xã để lại. Tôi tìm kiếm, trong những câu chuyện tuổi thơ tan vỡ đó, những cảm xúc tôi không có với chính tuổi thơ của tôi mỗi khi cố nhớ lại. Có lẽ cũng có ở đấy chút hơi hướng tình mẫu tử thui chột. Tôi chưa bao giờ biết cách nói những điều ấy với anh. Hẳn anh sẽ cười tôi, cười tính mẫn cảm vô phương cứu chữa của tôi. Làm sao tôi có thể, với anh, người hăng say tả lại những chuyển động của máy quay phim, người kể tỉ mỉ một cách thống khoái sành sỏi những khi máy trượt tới lui, người giải thích một cách thông thái sự phân cảnh, làm sao tôi có thể bảo anh là tất cả những cái ấy tôi chẳng thấy gì hết? Tôi đi vào một phim như người ta đi xuyên qua cái gương. Trong tôi tái sinh người thiếu phụ dịu dàng của Bresson. Trong tôi sống lại hồn ma lãng đãng Jennie từ một quá khứ xa xôi về kể cho Joseph Cotten, nhà họa sĩ, chuyện những người đã vĩnh viễn biệt tăm. Tôi chưa bao giờ thổ lộ được với anh những tình cảm sâu kín nhất của tôi. Những hoang mang tìm được thuốc chữa trong các rạp tối. Những lo sợ kết tụ quanh những khắc khoải các chị em tôi sống trong hai tiếng đồng hồ, thời gian cuộc đời họ, với biết bao lạ kỳ, thế chỗ cuộc đời tôi, vô cùng tẻ nhạt, vô cùng âm thầm. Và bây giờ, liệu tôi dám ngắt lời anh ư? Mà anh vẫn không thôi thuyết minh. Anh nói về những gì kia? Về hết những gì tôi mang nợ anh. Nhất là đã khám phá điện ảnh. Tôi dốt nát dường nào thuở anh gặp tôi. Tôi chưa từng xem một phim nào đáng kể. Chính anh, tôi có nhớ không?, đã cho tôi biết các phim của Buster Keaton. Và Gertrud, mà tôi vô cùng thích, Gertrud mà tôi nghĩ đến mỗi khi tưởng tượng mình về già, sống lẻ loi trong một căn nhà hẻo lánh, với những kỷ niệm độc nhất là mối đam mê dành cho một nghệ sĩ trẻ, Gertrud mà anh đã buộc tôi phải đi coi. Tôi thì Dreyer là dân xứ ông hoàng Elseneur tôi cũng chẳng biết. Anh đã mở ra cho tôi cả một thế giới đấy chứ. Anh đã bồi đắp vũ trụ nội tâm của tôi kia mà. Rồi đến khi chúng tôi hết tiền đi xem chiếu bóng, ai đã kiếm cho tôi chân xếp chỗ ở một rạp chiếu các phim nghệ thuật, nơi tôi được phép vào xem? Anh đã đem lại tất cả cho tôi, đã chỉ dạy tất cả cho tôi. Và tôi, bao giờ cũng ăn nói nhỏ nhẹ, lúc nào cũng như lớp nước tù, tôi lại kéo anh đến quán cà phê này và đột ngột báo tin tôi giã từ anh. Thật vô ơn, anh bảo, dụi điếu thuốc vào góc cái đĩa. Sao trong quán này chẳng bao giờ có cái gạt tàn nào? Anh bực bội, ra dấu gọi người hầu bàn đang ngáp dài, ngoảnh nhìn nơi khác. Đàn bà toàn là quân vô ơn. Hễ muốn quên hết là lấy cục tẩy xóa bỏ ta khỏi đời họ. Chấm dứt. Ta chẳng là gì nữa. Một kỷ niệm mơ hồ. Một bóng hình mờ nhạt. Một cái tên trong danh bạ. Lưỡi dao máy chém rơi xuống rồi. Ta bị hất về cõi vô danh. Một nhóm du khách ồn ào đến ngồi bàn bên cạnh trùm lấp tiếng anh. Tôi không nghe được anh nói gì. Nhưng tôi cảm thấy, xoáy vào tôi, cái nhìn phẫn nộ của anh. Anh vung tay, gào lên, Sao em như thế được? Ừ nhỉ. Sao tôi như thế được? Mới hôm qua đây tôi cũng chưa định gì cả. Tôi vừa xem suất cuối phim Kiệt lực. Tôi nhẩm lại câu Jean Seberg trong phòng khách sạn đã đọc cho Jean-Paul Belmondo nghe, Giữa hư vô và khổ não, tôi chọn khổ não. Thay vì trở về, tôi ra bờ sông Seine. Các kè đá không một bóng người. Trên cầu Les Arts, người ta quay một cảnh săn đuổi. Ngoại, đêm. Tôi nhớ lại hồi anh muốn bước vào nghề đạo diễn. Chúng tôi sống hoàn toàn bằng những món tiền thưởng tôi kiếm được với chân xếp chỗ. Anh đã viết một kịch bản. Trước khi đọc cho tôi nghe, anh cắt nghĩa rằng, trái với bề ngoài, đó không phải là một ca khúc tình yêu, mà là một truyền đơn chính trị. Bởi chuyện tình nào cũng là chuyện chính trị, một cuộc cách mạng khởi sự trong vô chính phủ và kết thúc bằng độc tài. Tình yêu là một rừng già chỉ biết luật kẻ mạnh. Kết hợp bi kịch lâm ly theo kiểu Douglas Sirk với hùng ca cách mạng theo kiểu Eisenstein, tham vọng của anh là thế đó, anh bảo, hoa tay một vòng như muốn gọi, Paris, Nào hai ta. Lúc đó, tôi nhớ, chúng tôi đứng trên đồi Montmartre. Từ vài hôm rồi, tôi hay buồn nôn. Tôi chờ có kinh, nhưng không thấy gì. Tôi tìm dịp nói với anh, Em chắc em có thai. Nhưng cứ mỗi lần tôi sắp mở miệng, anh lại lên tiếng đả kích không thôi điện ảnh thời nay, một nền điện ảnh như gà què ăn quẩn cối xay. Còn anh tham vọng như hùm. Không có chuyện đưa ra một người đàn bà tầm thường lệt sệt đôi dép, nhăn nhó vì mang bầu và mơ mộng hão huyền trong căn hộ hai phòng với bếp của mình. Tôi đành dẹp lời thú mà tự hứa tối đến đi làm về sẽ không choàng áo khoác, lệt sệt dép nữa. Nói với anh có lẽ tôi có thai hẳn khác gì, đang dự lễ nhà thờ, tôi hỏi nhà vệ sinh đi lối nào. Tôi quyết định giữ riêng cho mình bí mật thảm hại của mình, nói ra sẽ chỉ càng khiến tôi xa cách hơn với nhân vật trong mơ của anh. Anh miêu tả nhân vật ấy như một chiến binh hào hùng, một kẻ nổi loạn ẩn hiện khôn lường, một con người vừa đa tình vừa thần bí, một Antigone lại được phú nhiệt tình của người nữ tu Bồ Đào Nha. Phải đấy, tôi nhỏ nhẹ nói, phải đấy, tôi đáp mỗi lần anh cao hứng. Nhưng càng lúc tôi càng bối rối. Tôi tưởng như tôi đang chết chìm và thay vì chìa tay cho tôi nắm, anh lại nhận đầu tôi xuống nước. Tôi tự trách mình tầm thường. Tôi không đủ sức nâng mình lên ngang hàng anh, chia sẻ niềm hăng say với những điều phức tạp, những điều trừu tượng tua tủa những chữ viết hoa, Nghệ Thuật, Chân Lý, Cách Mạng. Nín thinh hiệu lực lắm. Người ta tưởng mình hiểu, trong khi chuyện gì mình cũng không với tới, tưởng mình ám ảnh với những tra vấn về các cứu cánh tối hậu. Tôi chỉ dối được tôi thôi. Còn anh chẳng mắc lừa về sự trống rỗng đè nén tôi. Anh nói thay cho tôi, anh nói cho hai người. Anh là Miệng vàng, tôi là Hồn rỗng. Mỗi khi anh đưa tôi đến thăm bạn bè anh, ai ai miệng lưỡi cũng rất tài hoa đồng thời rất hồn nhiên chẳng chút chú ý đến lời lẽ hùng hồn của kẻ khác, tôi không rời anh nửa bước, nấp sau lưng anh và, ly rượu trên tay, hút thuốc hết điếu này đến điếu khác để cố tỏ mình không lúng túng. Đôi khi một trong những kẻ hét ra lửa ấy ngỏ lời với tôi. Cuống cuồng, tôi lùi sát tường như thể mong biến đi qua một khe nứt, miệng ấp úng vài chữ nghe không ra khiến kẻ tấn công hết muốn tiếp tục ra tay. Thế rồi, hoàn hồn, vẫn còn run vì đã bị moi móc ra, tôi liếc nhìn khâm phục những người đàn bà hiện diện, nói cười hòa nhịp với màn độc thoại của người trước mặt như một bản đối âm tuyệt hảo. Tôi, mỗi lần thu hết can đảm toan nói vài lời, tôi chuẩn bị rất kỹ câu của mình, xoay tới xoay lui nó trong đầu, thành ra, khi tôi mở miệng, người ta đã chuyển sang một đề tài khác rồi. Lời hay ý đẹp của tôi chẳng còn ra đâu vào đâu nữa. Kết quả là những người đối thoại của tôi yên lặng ngẩn ngơ, khiến tôi có cảm tưởng mình là chú chó con sủa ăng ẳng vào lúc tuyệt vời nhất một buổi hòa nhạc. Biết thân, tôi thu mình lại, đốt một điếu thuốc khác và, một nụ cười tạ lỗi đau khổ trên môi, náu sau bức màn khói thuốc. Thường thì, trong những buổi họp mặt ấy, người ta bàn bạc về những phim tôi nhớ nằm lòng. Tôi lắng tai nghe. Tôi bồn chồn được nói với tất cả những con người tôi không với tới kia do họ biết bao dễ dàng lãnh hội thế giới này, tôi bồn chồn được nói với họ rằng tôi thuộc cùng một vũ trụ như họ, vì tôi cũng thế, tôi yêu thích Một chuyện bất tử, rằng cảnh cái dù vun vút múa lượn quanh cặp tình nhân của Kobakhidzé đã thắp sáng một buổi chiều đông lạnh lẽo lác đác một vài khán giả. Nỗi kích thích trong tôi thiếu chút nữa thúc đẩy tôi phạm bất cẩn, tôi đã toan xen vào chuyện trò và đề cao sự hưng phấn của mình, nhưng, tức khắc, tôi để ý rằng những người hiện diện chỉ gật gù vẻ hiểu thấu khi người ta nhắc đến những phim đã làm đời tôi đảo lộn. Họ bình thản tự tin có nghĩa họ là những kẻ nắm bí pháp. Họ quá quen với các tuyệt phẩm nên không khi nào ồn ào xúc động. Tôi bị xô về với thân phận mình, con bé tỉnh lẻ lên Paris và tưởng điện ảnh là một cái máy tạo ra các giấc mơ. Và bao giờ cũng thế, trong những giây phút tuyệt vọng ấy, tôi tìm trốn lánh bên anh. Anh biết, anh, con người kiêu kỳ, khinh bạc, anh biết sử dụng những nghịch lý, khoát tay quét sạch trọn vẹn sự nghiệp của một kỳ tài. Anh biết nói, Antonioni hả? Chán chết được! Bergman? Nói dai nói dẳng! Orson Welles? Chỉ bộ tịch. Woody Allen? Một thằng bé lão suy. Nghe những phê phán tức tốc ấy, tôi tự nhủ riêng mình, Bí mật của hạnh phúc là thế đấy. Người ta thân cận các vĩ nhân, nói về họ như thể nói về những người láng giềng cùng một tầng lầu. Tôi kẻ tôn thờ họ, tôi kẻ thấy nơi họ những thần linh giáng trần đưa tôi phiêu lãng bằng đôi cánh mộng tưởng, tôi sẽ mãi mãi là con bé bán diêm sưởi ấm mình với tia hy vọng cuối cùng. Để cho lời lẽ thêm mặn nồng, thường thì anh tự cho phép, sau khi hạ bệ các tượng đài, đưa lên hàng bất tử một phim tối tăm nào đó, và các bạn anh, thúc bách phải tỏ mình cũng không khuất phục các định chế, đều đồng lòng tôn vinh những của kỳ cục chẳng hạn như Cách bí mật hai mươi ba bước. Bao giờ cũng thế, tôi há hốc miệng nghe anh nói, vô cùng hàm ơn mình không phải lên tiếng và tin chắc mình sẽ được hưởng những mảnh vụn vinh quang của anh mỗi khi anh nhắc đang chuẩn bị cuốn phim đầu tay. Bạn bè anh khích lệ anh một cách ngưỡng mộ nhuốm mùi ghen tức. Sự ủng hộ của họ chỉ là khua môi múa mỏ anh phải dự kiến đề tài của anh như thế nào và bàn ra tán vào không dứt về những kỳ công kỹ thuật cần thực hiện. Nhưng đến khi phải tìm tài trợ, khi, không thuyết phục được một ai trong đám nhà sản xuất trì độn chỉ chăm chăm làm giàu và, do đó, hoàn toàn vô ý thức về tầm mức nghệ thuật và cách mạng của dự án của anh, anh tổ chức lạc quyên trong những người quen biết, ai nấy đều tránh né với đủ thứ lập luận không cãi vào đâu được. Hết cánh cửa này đến cánh cửa khác khép lại. Những kẻ tế lễ nghệ thuật đều nấp sau những thúc bách của cuộc sống để cáo lỗi không tham gia một cuộc phiêu lưu hào hứng đến thế. Anh đã duyệt lại kịch bản của mình, cắt bỏ những cảnh đòi hỏi nhiều đầu tư nhất, những cảnh mà bạn bè anh, không phải ủng hộ anh nữa, hoan hỉ khiến được anh thôi ba hoa chích chòe, từ nay cho là hoang tưởng tự đại. Cả công trình vĩ đại mơ ước chỉ còn lại một phim giả bộ, với hai diễn viên có nhiệm vụ kể những gì không trưng ra được. Ngay kịch bản rút lại như bộ xương ấy, anh cũng chẳng chút hy vọng nào thực hiện được. Nhìn anh đau khổ như thế, lê gót từ quán rượu này sang quán rượu khác, cắp nách kịch bản anh đem đọc cho bất cứ ai muốn nghe, tôi quyết cứu anh bằng mọi giá. Tôi về tỉnh tìm mẹ tôi, từ ngày tôi ra đi, vẫn mỗi tuần viết thư van nài tôi trở về. Bà không bao giờ hiểu tôi ngộp thở trong ngôi nhà lớn với khu vườn trồng hoa đậu tía. Còn nhớ, tôi đã mơ đào thoát lên Paris tìm cha tôi, tôi tưởng đã chết cho đến ngày được biết ông đã bỏ đi, một năm sau khi tôi chào đời. Ông đã trốn thật xa mẹ tôi, rất đỗi thương yêu và rất đỗi tẻ nhạt. Tôi tái xuất hiện khiến bà hy vọng tôi trở về vĩnh viễn. Bà khóc. Còn tôi chỉ thấy trong nỗi xúc động ấy cách phỉnh phờ bà dễ dàng hơn. Suốt chuyến đi, tôi đã sắp xếp cách dối gạt của tôi: dự tính mở một cửa hàng thời trang tại Paris. Tôi cần tiền, thật nhiều tiền. Tiền bà phân phát cho khắp thiên hạ do lòng thương người gàn dở, bà có thể cho tôi chứ. Tôi chưa từng đòi hỏi gì ở bà. Tôi đã bỏ đi, như cha tôi, không để ai biết. Bấy nhiêu năm ở Paris tôi đã sống chẳng hề nhờ vả bà. Tôi, bình thường vô cùng lặng lẽ, tôi tìm lại được tài hùng biện của mình. Tôi lần lượt thủ vai kẻ van xin sắp trào nước mắt, kẻ kêu cầu vẫn giữ chút nào kiêu hãnh, cô con gái hoang đàng trông chờ ở mẹ mọi ân sủng. Bà nghe tôi nói, không ngạc nhiên cũng chẳng phẫn nộ. Một cách chủ động tôi không thể ngờ nơi người đàn bà rụt rè ấy, xưa nay chỉ một chút đổi thay đã run sợ rồi, bà quyết định đem cầm cố ngôi nhà và rút hết tiền tiết kiệm. Bà sẽ sống bằng món tiền trợ cấp nhỏ nhoi mà cha tôi, từ khi biệt tích, vẫn gửi về mỗi tháng mà không bao giờ tiết lộ mình ở đâu. Tôi hổ thẹn thấy bà từ bỏ hết tài sản cho tôi. Nhưng viễn tượng trở lại bên anh như một bà tiên, gõ cây đũa thần, hóa quả bí của anh thành xe tứ mã1, khiến tôi hết cả đắn đo. Mẹ tôi hỏi han tôi về cuộc sống của tôi ở Paris. Tôi kiêu hãnh đáp rằng tôi đã gặp một nhà điện ảnh trẻ tuổi đầy tương lai. Anh sắp thực hiện cuốn phim đầu tay của anh. Nhà sản xuất nào cũng trọng vọng anh. Không lâu, ngay ở cái thành phố nhỏ ủ dột của bà, bà cũng sẽ được nghe nói về anh. Bà nhếch một nụ cười làm tôi nín bặt. Bà đã đoán ra hết: nhà điện ảnh trẻ tuổi đầy tương lai sống nhờ những món tiền thưởng của tôi. Từ khi có tôi, anh đã thôi thỉnh thoảng đi làm việc thu thuế xa lộ. Tôi tránh cho anh, anh, nhà nghệ sĩ, những khốn khổ của kiếp đi làm ăn lương. Và chính vì anh mà tôi lải nhải những lời phỉnh nịnh hầu moi thêm một đồng bạc của khách quen. Với linh cảm bén nhạy do cô đơn và một tình thương thất vọng, mẹ tôi đọc ra trong mắt tôi rằng cuộc đời đã không đáp ứng các giấc mơ tuổi nhỏ của tôi. Tôi tự dối mình để tiếp tục sống. Tôi biết chắc, nhưng vùi sâu điều ấy trong đáy lòng, rằng anh chẳng hề yêu thương mà chỉ chấp nhận tôi thôi, như người ta chấp nhận chú mèo hoang len vào kêu vang nỗi tuyệt vọng của mình. Anh đã quen ở bên tôi, và tôi nỗ lực giúp anh sống mà không phải vật lộn với mọi khó khăn thường nhật khiến sự hiện diện của tôi nếu không cần thiết thì ít ra cũng tiện lợi. Mỗi khi cảm thấy mình quá khốn khổ, mỗi khi cái thứ bố thí ấy không đủ làm dịu nỗi đói khát yêu thương, tôi tập trung nghĩ tới đôi tình nhân trong đêm của Nicholas Ray. Tôi trở thành Cathy cô gái bất thuần thăng hoa vì đam mê và thế là cuộc sống lại chịu đựng được. Tôi vá víu các giấc mơ rách nát vì thực tế bằng những sợi chỉ nhiệm màu các nữ thần điện ảnh dệt nên. Nhưng có những lúc tôi không đi xuyên qua cái gương được nữa, những lúc bài ca của Jeanne Moreau, hát nho nhỏ khi tôi tưởng tượng những cuộc tình sóng gió, giữa Jules và Jim, nhắc nhở tôi rằng cơn lốc đời tôi chỉ là một lớp gió lùa. Một thoảng gió nổi loạn tuổi thiếu niên đã cuốn tôi đến tận Paris. Một hơi gió xuân đã đẩy tôi coi người đàn ông đầu tiên gặp gỡ là cứu nhân. Và khi mùa đông tới, tôi như chú Akaki Akakiévitch đáng thương bị mất cắp cái áo choàng mới tinh. Lẽ ra tôi nên chết lúc ấy mới phải, để sống dưới cõi âm một kiếp sôi động và như thế đền bù cho cuộc sống dương thế mờ mịt của tôi. Nhưng tôi không chết. Tôi đến bệnh viện để phá thai. Cô chắc chắn muốn bỏ nó không? Cô đã bàn với cha nó chưa? người đàn bà trẻ ở Trung tâm gia đình đã hỏi. Không có cha nào cả, tôi trả lời, nghĩ đến bao tuần lễ ấy tôi đã nín thinh, thấy thô tục làm sao nếu phải thú, Em có thai, giữa lúc anh vật vã sinh nở và nói về cuốn phim tương lai của mình như nói về một đứa con sắp chào đời. Không, tôi đã bảo cô nhân viên xã hội, không có cha nào cả, Tôi sống một mình, Tôi không muốn giữ đứa bé. Thế là mọi chuyện đã diễn ra mà anh không biết một chút gì. Tôi ra đi từ sáng sớm anh cũng chẳng hay. Anh ngủ li bì. Lúc bước ra khỏi nhà tôi chợt muốn nổi dậy. Thoáng qua đầu ý nghĩ đánh thức anh để ít ra, biết tôi sắp làm gì, anh sẽ không thản nhiên sống ngày này. Hẳn anh sẽ không ngăn tôi phá thai. Nhưng có lẽ anh sẽ ân hận, ít nhiều mặc cảm phạm tội. Như thế sẽ đủ cho tôi thấy mình đỡ cô đơn. Cuối cùng, hèn nhát, sợ tỏ ra mình định đánh bẫy anh, tôi từ bỏ cú đảo chánh đó và chạy một mạch đến trạm xe điện ngầm. Ngay với mẹ tôi, tôi cũng không thể nói ra. Sau khi cố che giấu các thất bại của mình dưới hàng hàng lời dối trá, tôi trốn vào yên lặng như thể thách thức mẹ tôi giật mặt nạ của tôi. Bà không làm thế. Bà giả bộ tin tôi hạnh phúc. Nhưng mắt bà đầy âu lo khi giã biệt tôi nơi cửa chuyến xe lửa đưa tôi trở lại Paris. Tôi đã vắng mặt hai ngày. Hai ngày tưởng như thiên thu, tôi xiết bao nóng lòng về lại bên anh báo tin rằng, nhờ tôi, anh sắp thực hiện được giấc mơ của anh. Lần đầu tiên trong đời, tôi cảm thay mình lâng lâng một cảm thức chinh phục. Miệng hát nho nhỏ, tôi leo cầu thang trôn ốc chật hẹp lên cái chuồng cu của chúng tôi. Tôi tự hỏi mình có nên làm bộ bí mật và chờ đêm đến mới kể kỳ công của mình, hay là, bỏ mọi giữ ý thuờng lệ, bước vào nhà tôi sẽ ôm chầm lấy anh, kêu vang chiến thắng. Lên tới đầu cầu thang, tôi vẫn chưa định nên xử sự thế nào. Một giọng nói đàn bà rồi một tràng cười khiến tôi đứng sững lại. Chiếc chìa khóa tôi đã toan tra vào ổ rơi xuống thảm. Tôi cúi xuống nhặt lên. Cái giọng, ngọt lịm, nói, Thôi đi, thôi đi. Thế giới sụp đổ quanh tôi. Tôi quay gót, chực bỏ trốn. Nhưng ở bên trong họ đã nhận ra tôi. Tôi nghe thấy những tiếng thì thào và tiếng chân bước. Tôi trở lại bên cửa, và, bỏ ý định mở bằng chìa khóa, như thể làm thế tôi quá táo gan khẳng định quyền sở hữu của mình, tôi rụt rè khẽ bấm chuông. Cánh cửa kèn kẹt mở ra, cho thấy bên trong bừa bãi, ngập khói thuốc lá. Anh chào đón tôi, bối rối ra mặt. Anh không nghĩ em về sớm thế. Sàn nhà ngổn ngang những chai bia, chai sâm banh đã cạn. Ngồi trên chiếc giường chăn gối xô lệch là một cô gái mặc một cái áo trắng cực ngắn. Hai chân bắt tréo, cô đung đưa bàn chân xỏ trong giày nhỏ màu hổng sậm. Thoáng hiện trong đầu tôi, không biết vì đâu, hình ảnh nàng mỹ nữ đứng trên bàn, đưa bàn chân cho một bầy những kẻ si tình say khướt và ồn ào ôm hôn. Cô nhìn tôi chòng chọc, vẻ tò mò thách đố và kiêu căng của tuổi trẻ đã tức khắc xếp tôi là đồ bỏ, tôi mụ già đã quá tuổi hai mươi lăm. Tôi cúi mặt ngó cái áo vải hoa của mình, dài và rộng, mặc nó anh thường bảo tôi trông như một bà lão cạn sạch tiền từ Katmandou trở về. Thốt nhiên tôi cảm thấy lạc lõng trong căn hộ của tôi sáng ngời do sự hiện diện của ả nhân ngư chẳng khác một con ngoáo ộp lạc vào bữa tiệc cưới. Hôm qua là sinh nhật Bimbo, tụi này hơi quá chén, anh nói, cố ra vẻ thản nhiên. Tôi nghĩ sinh nhật tôi ngày nào anh cũng chẳng biết, nhưng không nói gì, vẫn đứng bên cửa, ôm chặt cái xắc vào mình. Tôi nghe thấy tôi ấp úng một lời cáo lỗi đã về sớm hơn dự tính. Bimbo vươn vai rồi nằm ngả xuống giường. Tôi buột miệng, Các người đừng phiền, tôi tạt qua mà thôi. Tôi lướt vội vào phòng tắm, đóng cửa lại và cứ để nguyên quần áo mở nước vòi hương sen, bật khóc nức nở. Sau đó tôi đi làm. Khi tôi trở về, ban đêm, căn hộ không còn ai, nhưng vẫn bề bộn. Chắc anh đã đưa Bimbo về. Tôi nhặt các xác vỏ chai, đổ tàn thuốc, thay khăn trải giường rồi đi ngủ. Anh không về đêm ấy. Anh phải vắng mặt ngày càng thường hơn trong thời gian quay cuốn phim. Bimbo là diễn viên chính của phim. Bimbo, nàng thơ của anh. Bimbo, miệng lưỡi liến thoắng ngọt như đường. Bimbo gọi tôi Bà già ơi, chẳng chút hiểm độc, và, cũng chẳng ác tâm gì hơn, vừa ngáp vừa thổ lộ với tôi, Mấy tay đạo diễn làm tình dở lắm. Cô đã có lần ngủ với một nhà sản xuất, đã hơn nhiều. Đám dựng phim cứ ra bộ quan trọng, họ để cả dục tình của họ vào cái thú hành hạ các nữ diễn viên và đóng trò Pygmalion. Đấy là cô đâu đã nếm mùi bao nhiêu. Vì từ lúc mới vào nghề, năm mười bốn tuổi, cô chỉ toàn đóng vai phụ mà thôi. Cô nhận quay phim này vì được giao vai chính. Nhưng mấy cái đối thoại thì chán ơi là chán, cô chẳng hiểu gì hết. Mơ ước thành công nổi tiếng vậy mà cô đành phải đóng cái thú điện ảnh nghệ thuật kênh kiệu này. Chớ nên chê trách cô ăn nói tự nhiên như thế. Tham vọng có lẽ lớn đấy, song kết quả nản đến độ đôi lần cô sợ mình ngủ gục giữa cảnh đang quay. Những than vãn của Bimbo báo trước các phản ứng của vox populi. Nếu cho rằng phán xét của các nhà phát hành là thước đo nhiệt tình của công chúng. Không hãng nào chịu phân phối cuốn phim. Sau trọn một đêm, đầu gục vào vai tôi, khóc lóc, rên rỉ, cười gằn, nguyền rủa bọn con buôn ngu xuẩn và nhân gian bất công, anh quyết rằng anh là một thi sĩ bị đời ruồng rẫy. Phim của anh là một tuyệt tác bị bọn đần độn thiển cận kiểm duyệt. Một tạp chí săn bắn tình cờ biết được tuyệt tác vô danh ấy, có nói đến săn bắn như là nghệ thuật lễ nghi cuối cùng. Họ cứu tác giả bị đời ruồng rẫy khỏi hoàn toàn tuyệt vọng bằng một số báo dành riêng cho anh. Trong số báo đó, anh nói rất nhiều ve Bimbo, người đã giải nghệ khi hay cuốn phim phá sản. Anh giấu kín do đâu anh có tiền thực hiện cuốn phim. Khi người ta hỏi anh sống bằng cách nào, anh trả lời, Nhà nghệ sĩ nơi tôi nghề nào cũng gớm ghét, Tôi cho rằng kiếm ăn bằng đánh bạc còn danh giá hơn. Không một lời về tôi. Thú nhận có lần thua bạc hết tiền thưởng của tôi và đã phải hứa không bao giờ mó đến quân bài nữa, sẽ làm lu mờ chuyện thần kỳ anh mong dựng lên. Tôi đã chấp nhận như là điều dĩ nhiên sự hiện hữu của tôi bị phủ định. Tôi không là gì hết. Chỉ là cái bóng của anh. Cuộc sống tiếp tục như thế. Anh viết những kịch bản khác, đều bị các nhà sản xuất cho là tối nghĩa, họ thú nhận không thể nào đọc quá mười trang đầu. Anh trở lại các quán rượu, đãi bia mấy chàng say nghe anh kể, hoa chân múa tay vô cùng sôi động, những cuốn phim lỡ dở của anh. Người ta gọi anh là mầm non Renoir, rồi, thời gian trôi qua, tiền uống chịu càng nhiều và các quán rượu không muốn thấy mặt anh nữa, anh chỉ còn là cái-gã-khật-khùng-cứ-tưởng-mình-là-Renoir. Lại cũng có những Bimbo khác. Bắt gặp họ với anh không còn khiến tôi khóc uất nữa. Tôi có lợi thế hơn họ là không chờ đợi gì ở anh. Họ mê mải nghe anh tràng giang đại hải về những phim anh dự tính thực hiện, trong đó, tất nhiên, họ sẽ được giao vai chính. Họ lần lữa, đến khi hiểu rằng, với anh, cuộc cờ đã tàn. Tức thì họ sập cửa bỏ đi, không quên bảo thẳng vào mặt anh họ cho anh là thế nào, một cách cố tình hạ nhục riêng của tuổi trẻ chỉ chuộng những kẻ đắc thắng. Sau mỗi thất bại ấy, anh quay về với tôi và, đổ lên đầu tôi một trận lũ những lời không đầu không đuôi, biện bác tự bào chữa, hùng hổ cáo buộc vận rủi, kể lể các lỗi lầm của anh đối với tôi và nhắc nhở những gì tôi nợ anh, anh van nài tôi vững tin ở tương lai anh. Bao giờ tôi cũng bảo anh, Rồi sẽ tốt đẹp thôi, Có em đây. Thế là đủ cho anh lấy lại tự tin và anh thiếp ngủ, yêu cầu tôi để sẵn rượu trên bàn đầu giường cho anh uống ngày mai. Nợ nần của chúng tôi chồng chất. Tôi đã phải tìm một việc làm thứ hai. Tôi không còn thì giờ gặm nhấm những thất vọng của mình. Càng kiệt lực, tôi càng buông thả mình sống như cái máy. Tôi không ngoảnh lại sau, chẳng ngó về trước. Tôi không còn nhớ gì nữa, tôi nhìn tương lai như lớp sương mù chẳng bao giờ tan biến cho tôi. Tôi không tin tưởng ở gì hết, ngay ở anh cũng không. Tôi tự cấm mình nghĩ đến gì khác hơn là tiền bạc. Mọi tình cảm đều đã chết. Hứng khởi thuở ban đầu đã nhường chỗ cho cam chịu đắng cay. Chỉ có các phim còn đem lại cho tôi cái cảm giác xa lạ cứu tôi thoát một nếp sống ảm đạm. Đời tôi là một hư vô không viết hoa. Rồi, thốt nhiên, hôm qua, tôi nghe Jean Seberg đọc câu ấy của Faulkner, Giữa hư vô và khổ não, tôi chọn khổ não. Một tia sáng hiện ra trong những nẻo đường hầm hồn tôi từ bao năm tôi đã thôi dọ thám. Tôi bước đi hàng giờ giữa Paris ngái ngủ, tự nhắc mình, Giữa hư vô và khổ não, tôi chọn khổ não. Lẽ ra tôi có thể nói điều đó với anh, khi báo anh hay tôi bỏ cuộc. Nhưng hẳn anh sẽ cho là tôi khoa trương. Anh sẽ cười tôi, Em trịnh trọng ghê chưa, Anh đã lầm cho em biết điện ảnh, em nhồi vào đầu những tư tưởng không dành cho em. Cho nên, tôi đã nín thinh. Tôi để mặc anh than van, nổi giận, Em đã chọn đúng ngày để giáng cho anh cú ân huệ, Anh đau răng từ sáng nay. Rồi tả những nhức nhối lúc thức giấc, má sưng vù, đi gặp nha sĩ thì đau càng tăng mà túi thì nhẹ bớt năm trăm quan tiền. Vả lại, anh chẳng còn một xu. Anh làm sao sống đây? Tôi bảo anh, Mấy tháng tới, trong khi chờ anh có lối thoát, em sẽ trả tiền nhà cho anh. Đề nghị ấy khiến anh nhảy dựng lên. Đấm tay xuống bàn, anh gào, Anh không ăn xin, Em tưởng mình là ai chứ? Quán cà phê yên lặng như tờ. Hết thảy khách hàng đều quay về phía chúng tôi và, mắt không rời miệng anh, không ai muốn hụt tấn tuồng phơi trần chuyện riêng tư. Tôi chỉ nghĩ làm sao chạy trốn cho mau. Anh tiếp tục độc thoại, bây giờ thấp giọng, như thể xấu hổ đã không kìm được la hét. Tôi đứng lên, bảo anh, Em đi đây. Anh hỏi tôi, mắt nhìn nửa hằn thù nửa tuyệt vọng, Đi đâu? Tôi những muốn trả lời, như Kirk Douglas trong Dàn xếp, Đi vào chính em. Nhưng tôi chỉ phác một cử chỉ mơ hồ rồi lao ra ngoài, ra ngoài trời rộng.