← Quay lại trang sách

Con nhện

Tôi đi đã nửa đường đời, đến cái tuổi địa ngục giày vò. Virgile của tôi mặc áo choàng trắng. Hắn giữ chìa khóa cái địa ngục là nhà thương điên kia. Tên hắn là Khổ Thủ. Cái tên này, mỗi lần tôi gọi lên, khiến tôi bình tâm và giải thoát cho tôi khỏi những cơn nhức đầu hành hạ tôi từ khi về đây. Cánh rừng âm u Khổ Thủ dẫn tôi qua, khoa học hiện đại gọi là loạn tâm thần từng cơn. Ngày lại ngày, đi bên Khổ Thủ ghi âm những lời tôi nói, tôi bước xuống các nấc địa ngục và chứng kiến vũ khúc chết chóc các khổ não của tôi cùng lúc bám víu hy vọng đến cuối đường sẽ gặp Béatrice, khuôn mặt cứu rỗi nắm giữ bí mật của tôi. Giờ thì tôi còn xa thiên đàng, chưa tới cả ngưỡng cửa luyện ngục, nơi tôi có thể tỉnh thức, chán chường với cơ man ý nghĩ nhảy múa trong đầu. Người ta bảo tôi rằng tôi đã giết mẹ. Tôi không nhớ ra. Tôi nhớ thấy mẹ đã chết. Khuôn mặt bà trong quan tài chỉ gợi cho tôi duy một tình cảm, tự bao giờ vẫn đè nén tôi mỗi khi ngó bà: kinh sợ. Tôi biết thật xấu hổ cho một người đàn ông phải thú nhận kinh sợ một người đàn bà, nhất là nếu người ấy lại là kẻ sinh thành ra mình. Tôi biết thật tệ hại tình cảm của tôi, kẻ làm con, đối với mẹ tôi. Không phải tôi kể lại chuyện cũ, vì dẫu bà chết rồi, hễ nhắc đến bà là tôi kinh sợ thắt ruột. Tôi đã tưởng, trở thành kẻ làm văn, tôi sẽ lớn lên trong mắt mình và đứa trẻ hãi hùng sẽ biết cách, bằng tấm khiên chữ nghĩa, đương đầu với cái bóng tàn độc khổng lồ. Đôi lần gắng gỏi văn chương lại tăng thêm khiếp hãi thay vì giải thoát cho tôi. Mẹ tôi, dẫu hoàn toàn không phải mù chữ, chưa bao giờ thèm đọc một dòng nào tôi viết. Tất nhiên, cả đời bà, bà vẫn lánh xa sách vở như lánh xa độc dược. Đến độ tôi đã tự hỏi người không biết chút gì về cái tri thức ngoắt ngoéo do các nhà gỡ rối tơ lòng nổi danh chắt lọc, bà lấy đâu ra những bí quyết của nghệ thuật hành hạ kẻ khác của bà, nghệ thuật phối hợp độc đoán với thú nhận yếu đuối, hăm dọa với cầu xin thương xót. Bất chấp tất cả sách vở tôi đã đọc, tất cả triết lý tôi đã cầu viện, việc tôi bất lực không thoát khỏi vòng tay chi phối của mẹ tôi, một dạng thức tử hình, có nghĩa lý trí thất bại. Toàn bộ minh triết trên đời này đều vô dụng trước sự điên rồ tìm hủy diệt kẻ khác. Nếu từng chịu khó luyện mình thành một gã thô lỗ, tự vệ bằng cách chẳng bao giờ mảy may xúc động, hẳn tôi đã thành công hơn trong việc gỡ mình khỏi mạng Con Nhện dệt nên. Nhưng chỉ là một kẻ làm văn quay quắt với mặc cảm phạm tội, toan tính cắt đứt dây nhau bằng ngòi bút thay vì phải dùng lưỡi rìu, cứ dọ thám linh hồn, tra vấn lương tâm, tôi đã chỉ nộp mình, lại càng yếu kém hơn do tự lột trần như thế, cho đêm đen của lòng thù ghét đè nén, bề ngoài khoác áo tình thương tuyệt vọng vì không được hồi đáp. Trong cuộc vật lộn ấy, mà tất tôi sẽ thua, tôi chỉ còn là một con trùng. Tôi đã đặt cho mẹ tôi đủ mọi tên, từ Lady Macbeth đen Méduse, nhưng không tên nào thích hợp hơn tên Con Nhện, dù đó là hình ảnh quá thường về người mẹ đầy nọc độc. Trọn đời tôi, tôi vẫn mơ thấy mình, hóa thành con trùng, bò dưới bóng những con nhện khổng lồ, tìm cách tránh thoát những cái chân vĩ đại của chúng. Ngay đêm hôm qua, tôi đã mộng thấy Khổ Thủ nắm trong tay một con nhện và bứt từng cái chân ném vào mặt tôi. Tôi có nên thấy đó là chứng cớ hắn là người của mẹ tôi? Khi xác nhận muốn điều trị cho tôi và khiến tôi tìm lại được trí nhớ, hắn dỗ dành tôi với ý đồ duy nhất là đổ thừa vụ giết người cho tôi, và bằng cách ấy đẩy tôi vào hối hận triền miên vì đã sa vào sự điên rồ tôi vẫn chống chọi như chống chọi một bệnh di truyền. Khổ Thủ chưa bao giờ nói tôi ở đây vì đã giết mẹ. Mà là các cô y tá đã vô tình nhắc tôi người ta nghi ngờ tôi. Mà là những người chung phòng với tôi bảo chuyện ấy chắc chắn rồi. Người nằm giường bên tôi, một lão già nhỏ con chỉ ăn bánh ngọt và khoe biết nói chín thứ tiếng, ngày nào cũng nói, Mày giết mẹ mày hả, đáng đời con mụ. Nghe lão lúng búng tiếng Pháp, tôi đâm ngờ cái vốn tiếng Tây Tạng lão bảo đã học trong tù với một đệ tử của đức Đạt Lai Lạt Ma, anh này mắc rất nhiều tội, một tội là đã mưu toan đốt tòa đại sứ Trung Quốc. Tôi không rõ nguyên nhân nào đã đẩy đưa vào đây người láng giềng biết nhiều thứ tiếng của tôi, người tôi thấy xử sự hết sức hiền lành, ngoại trừ những lúc lão vồn vã có hơi đáng ngờ và lại dai dẳng với các cô y tá, đòi họ ăn mặc cho kín đáo, gài kỹ nút cổ áo choàng, chớ để hai tay trần. Coi chừng đấy, thiếu gì kẻ muốn hại các cô, lão bảo, và các cô y tá trả lời lão như trả lời một thằng bé ngây ngô. Với tôi thì các cô giữ một khoảng cách đề phòng, như thể, yên trí tôi đã phạm tội ác, các cô âm thầm cáo buộc tôi đã xúc phạm đen phần nữ tính thiêng liêng nhất. Người mẹ nơi các cô chẳng thể nhìn tôi mà không lên án tôi. Nỗi khiếp hãi thần thánh (tôi nói thần thánh, tuy trong đó mê tín cũng nhiều như kinh sợ tôn giáo), nỗi khiếp hãi thần thánh mẹ tôi gây cho tôi, ngay cả khi bà chết rồi, đã tỏa sang tất cả các phụ nữ, và bao giờ tôi cũng sẵn sàng thấy hiện lên, đằng sau lớp mặt nạ dịu dàng, khuôn mặt điên dại của mẹ tôi. Những biểu lộ điên dại của bà bất ngờ đến độ lúc nào tôi cũng ngơ ngác trước bao nhiêu phương sách bà đem ra quật ngã tôi. Hễ tôi chuẩn bị đối phố với một kẻ đang cơn thịnh nộ tấn công trực diện, thì lại là một người bệnh ranh ma đang mưu mô thế nào đó để khiến tôi tin rằng số phận bà trong tay tôi. Hễ tôi đến thăm bà với ý định khai chiến, nhất quyết gây xung đột công khai, hòng cứu vãn lý trí tôi, thì thế nào tôi cũng đụng phải một bà già thất thần kể lể nỗi cô đơn của mình và những khốn khổ một đời người mất hết ảo tưởng này đến ảo tưởng khác. Mọi hiềm thù của tôi đều tan biến trước cảnh cái kẻ đáng thương kia thui thủi uống trà một mình và đầu óc thì rỗng không, ngoại trừ nỗi ám ảnh Nhà Nước, ông Thần biến hóa khôn lường và toàn năng bà luôn luôn lo sợ sắp hiện hình và ngay cả một nhân viên hiền lành của các cơ quan xã hội bà cũng cho là một hóa thân. Từ khi bước vào tuổi già, bà đã mắc cái tật lú lẫn ấy, cái tật, cùng với bệnh điên bẩm sinh của bà, phá ruỗng tâm trí bà. Bà bắt đầu mê sảng cái ngày, đành chịu để tôi bỏ thành phố ra đi, ra đi vội vã hòng chạy trốn bà và cứu mạng mình, bà phán rằng sự vô ơn của tôi khác gì tội ác. Từ nay, một mình trên đời, không nguồn lợi nào khác ngoài món tiền trợ cấp quả phụ nhỏ nhoi, bà chỉ còn Nhà Nước che chở mà thôi. Thế là bà cứ sống trong lo sợ làm mất lòng ông thần Moloch nắm trong tay mạng sống của bà. Làm gì bà cũng run rẩy với ý nghĩ chắc đâu mình có quyền đó. Chứng rối trí ấy, chẳng nghiêm trọng gì nếu nó chỉ biểu lộ với câu đối đáp phi lý và chán ngấy của bà mỗi khi tôi ân cần thăm hỏi, Tao đâu cần mày, có Nhà Nước lo cho tao rồi, chứng rối trí ấy đã thành đáng sợ khi xảy ra một chuyện thực ra cũng vớ vẩn thôi nhưng sau đó khiến bà không thôi mê sảng mình bị truy hại. Một tối, trở về muộn hơn thường lệ, bà bị giật mất cái túi cầm tay trong đó có chìa khóa nhà, giấy tờ và món tiền trợ cấp bà vừa đi lãnh ở bưu điện. Tôi lấy ngay chuyến xe lửa đầu tiên và tức tốc chạy đến đồn cảnh sát bà đã trốn vào. Tôi bù lại số tiền bà bị mất cắp, thuê người mở cửa nhà cho bà, thay ổ khóa, nhưng việc mất giấy tờ là một chấn động không bao giờ bà nguôi ngoai. Bà cho đó là dấu hiệu Nhà Nước đã bỏ bà. Thay vì làm thủ tục xin một giấy căn cước mới, bà tìm đủ cách tránh bước chân ra khỏi nhà, khăng khăng tin mình đã mắc lỗi lầm: từ nay là kẻ ở lậu, bà không nên để ai chú ý đến mình. Các công việc của tôi, cuốn sách đang viết và những việc biên tập nhọc nhằn tôi đã nhận để kiếm sống, khiến tôi không thể rời Paris đi thăm bà, để, như quen lệ, quan sát tinh thần sa sút của bà. Mấy tháng trôi qua không có liên lạc nào khác ngoài những lần gọi điện thoại. Đôi khi bà không nhấc máy. Mỗi khi hạ cố trả lời, bà chỉ nói đến cây cảnh của bà, cách chăm bón cây, loài cây nào cần bao nhiêu nước. Càng ngày bà càng dậy muộn, để mong thấy ngày bớt dài. Bà tránh né mọi câu tôi hỏi về hiện tại. Mỗi khi hứng khởi nói, bà chỉ nhắc lại thuở thiếu thời tươi đẹp của bà cùng những kỷ niệm với người cha, người đàn ông duy nhất bà thương yêu trên đời này. Còn về chồng bà, mê tín khiến có thời bà không dám nói xấu ông, vì ông chết rồi và bà tin người đã khuất thế nào cũng báo thù. Thỉnh thoảng bà liều đả động đến ông, khi giận dữ ứa gan vì tôi khêu lại tức tối khi xưa vì chồng, thúc đẩy bà bất chấp người chết trả đũa, người chết giờ thì bị xỉa xói nhục mạ và vĩnh viễn đội tính từ tồi tàn. Đứng ngoài nhìn vào, tôi phải chịu mẹ tôi hữu lý. Tôi nhớ lại nỗi hổ nhục của tôi, khi còn bé, những lần đi chơi với cha mẹ. Cha tôi, ăn mặc xộc xệch, quần quá ngắn và muôn đời khoác cái áo kẻ ô vuông, dáng vẻ hãi sợ như con vẹt bị đem ra khỏi lồng, gằm mặt bước và đáp lại các thúc hối của mẹ tôi (Thẳng người lên nào! Ngẩng đẩu lên mà đừng có há miệng! Đàng hoàng đi chứ!) bằng những khua tay bất lực và những cái nhìn van nài, như thể, dù hiểu các đòi hỏi của vợ, ông cảm thấy mình không đủ khả năng với nhiệm vụ ấy. Tức tối, bà rảo bước, trong khi ông đi chậm lại để khỏi bị kẻ canh chừng mình xét nét và thoải mái dốc tâm giải những bài toán, lò lửa những huyền bí nơi ông đã nướng trọn đời mình mà kết quả chỉ là bó ông hoàn toàn trong tay vợ. Bà đã cho ông quyền được mơ mơ màng màng, bà gọi những suy tưởng khoa học của ông như thế, với điều kiện ông phải thành phụ tá kế toán. Trước kia nuôi hy vọng lấy một nhà bác học, bà đã mau chóng đồng ý với thiên hạ: bà đã lụy với một kẻ ngớ ngẩn. Phải biết hơn thiệt và phải có quyền uy cho cả hai người, bà bèn quyết định rằng, trong khi chờ ngày eurêka, chàng khờ sẽ hữu dụng cho xã hội và gia đình nếu tập trung thiên tài toán pháp của mình bằng cách cắm đầu vào sổ sách kế toán của một xí nghiệp sản xuất keo hồ. Cha tôi trở thành viên phụ tá kế toán bất tài nhất xưa nay trong nghề này. Chắc chắn hồi còn bé tôi đã hổ nhục vì ông, và sau đó đã, như mẹ tôi, cho ông là tồi tàn. Một phát hiện khi tôi vào tuổi niên thiếu đã thay đổi những gì tôi vẫn nghĩ về ông. Bị tôi khinh rẻ trong thâm tâm cho đến bấy giờ, đột nhiên ông hiện ra trước mắt tôi như cả một khuôn mặt bi thảm. Đó là trong một đêm nóng bức. Thức khuya đọc Don Quichotte, tôi nghe thấy những tiếng thì thầm từ ngoài phòng khách vọng vào. Tôi đứng lên, rón rén lại hé mở cửa. Đèn tắt cả, nhưng trăng tròn rọi sáng góc phòng nơi mẹ tôi đã dẹp vào cái ghế bành của cha tôi. Tôi nhìn ra ông ngồi đó, mắt ngước lên trần nhà, hẳn đang mải mê phân tích các phương trình toán pháp của ông, miệng lẩm bẩm những lời không nghe rõ. Mặt ông, trước nay tôi chỉ biết dáng vẻ ban ngày, giằng xé khổ sở giữa kinh hoàng đối với vợ và ao ước xử sự như bất cứ người bình thường nào, chẳng hề có ai chê trách, mặt ông, vào giờ phút khuya khoắt này không còn bị tên gác dữ dằn canh chừng, mặt ông rạng rỡ đầy cao quý. Ông ở một chốn khác, một thế giới không ai xúc phạm được ông. Tôi tưởng như Don Quichotte hiện thân trước mặt tôi. Cảnh tượng chỉ kéo dài vài phút. Tiếng mẹ tôi rên trong giấc ngủ, khe khẽ nhưng cũng đủ lọt tai ai để tâm nghe ngóng, tiếng rên lôi kẻ mơ mộng ra khỏi việc làm lén lút của mình, tàn nhẫn chẳng khác cảnh sát chặn bắt kẻ phạm tội. Ông mất hết thanh thản tức thì. Mặt ông nhăn nhúm vì lo sợ. Ông đứng lên, nhìn quanh, thất thần, cầm tờ báo vẫn bỏ đó như để vợ tin ông đang lo một việc đúng đắn, rồi, hẳn nhận ra mình không thể giả bộ đọc trong bóng mờ, ông liệng tờ báo và, không biết làm sao hơn, ẩn mình vào sau cái ghế. Tôi nghe thấy, từ chỗ tôi đứng, hơi thở nặng nhọc và dồn dập của ông, dư đủ để mẹ tôi phát hiện chỗ ông nấp nếu bà thức dậy vì khó chịu dạ dày, như bà than vãn sau mỗi bữa ăn và đôi khi ban đêm khiến bà tỉnh giấc. Yên lặng trở lại trong nhà chắc không làm cha tôi an tâm, ông vẫn chúi trong góc kẹt của mình. Một lúc lâu sau ông mới bước ra, vẻ mặt ngơ ngác và đau đớn của kẻ qua cơn chấn động nhưng không nhớ mình đã gặp phải những gì. Ông đứng tựa vào lưng ghế, thái độ như đứa con nít chờ đợi hình phạt. Rồi, hẳn quá xúc động vì sự kinh khiếp của cơn thịnh nộ ông vừa thoát khỏi, ông đưa hai tay ôm mặt và bật khóc nức nở. Lòng thương hại nơi tôi biến thành ngưỡng mộ. Từ đó, tôi bắt đầu yêu mến sự yếu đuối của ông, phản ánh sự yếu đuối của tôi, và sự sợ hãi của ông, cái gương trong đó tôi đọc ra nỗi kinh hoàng của chính tôi. Không đến mức ngây thơ như ông (lòng trong trắng của tôi đã sứt mẻ do tôi muốn mình xảo quyệt chẳng kém mẹ tôi), tôi ngỡ mình đủ vũ khí kháng cự ảnh hưởng người đàn bà ma quái đó. Không vũ khí nào lý trí mài rũa giẫy sạch được những dây leo của một chứng điên dại mọc tràn lan đến độ bóp nghẹt mọi sự sống xung quanh. Chứng điên dại của mẹ tôi, ăn sâu trong thói theo thời thiển cận nhất, mù quáng do luyến tiếc thời niên thiếu sống trong sự tôn thờ một người cha lừng danh đại bất lương mà mỗi việc xấu xa đều gióng lên một âm hưởng phấn chấn nơi cô con gái ngây ngất trước bao sức mạnh bình thản ấy, chứng điên dại của mẹ tôi lại bám sát những ngoắt ngoéo của kiêu căng khiến bà cứ nhắc đi nhắc lại, như thể đọc thần chú giải bệnh, rằng chẳng ai bén gót ông, bám sát những quanh co của một chiến lược tai ác cứ kêu mình là nạn nhân. Cứ như lời bà, bà là nạn nhân sự khờ khạo của bà (Trời biết bà chẳng khờ khạo chút nào), nạn nhân con tim nhân đức của bà (Trời biết ở bà bộ phận ấy chỉ còn đập khi nào quyền lợi của bà bị đụng chạm mà thôi). Con tim trung hậu đã khiến bà kết hôn với một gã ra ngẩn vào ngơ và (bất hạnh tột cùng) hạ sinh một con quỷ vô ơn bạc nghĩa, một thằng đần xảo trá, đúng là cha nào con nấy: nó cứ sục sạo tìm trong sách vở giải đáp cho những vấn nạn lương tâm mà từ lâu rồi bà đã giải quyết và thanh toán nhờ những nguyên tắc đơn sơ mà kiến hiệu khủng khiếp. Hồi cha tôi còn sống, chứng điên dại của mẹ tôi có lối thoát là áp chế kẻ bị bà đối xử không hơn gì một con chó ghẻ được người ta tội nghiệp đem về nuôi. Bà huấn luyện ông, ngăn chặn ông, và ông càng tuân phục bà càng vui thích chà đạp chút ít nhân phẩm mà cha tôi, bị dồn đến chỗ chỉ còn chịu thua hoặc chịu chết, không buồn cứu vãn bề ngoài nữa. Đấy là trận chiến giữa thiên thần và con thú. Con thú có khiếu vô địch về nghệ thuật chiến tranh, nhờ hoàn toàn biết rõ các nhược điểm của đối thủ của mình và nhờ ý chí sắt đá không lui một bước. Thiên thần chỉ có lòng tin của mình, lòng tin khiến ông thành đối tượng cho thiên hạ chê cười. Trời đã định con thú sẽ thắng thiên thần. Cha tôi chết đi, tâm trí mẹ tôi bắt đầu khủng hoảng. Không còn nữa kẻ để bà hành hạ, bưng ống nhổ cho bà và cam nhận mình là nguyên nhân những thất vọng của bà, là chướng ngại không cho bà thăng tiến trong xã hội; kẻ ấy chết đi khiến bà hẫng hụt. Một đặc điểm cá tính của bà là phải chế ngự người khác. Khi nghĩ mình có nhiệm vụ dạy dỗ nguyên lý thực tiễn cho chồng, người trước cuộc đời cũng khờ khạo như một thầy tu khổ hạnh đứng trước một ả lăng lơ, bà càng tin mình là một người đầy lương tri. Khi cha tôi làm hỏng các hoài vọng danh giá của bà do tỏ lộ sự ngu ngốc chẳng mấy quan tâm đến điều tiếng thiên hạ, bà càng cảm thấy mình có bổn phận cứu vãn danh dự gia đình. Từ lúc không còn rào chắn đó nữa, từ lúc oán hờn của bà mất đối tượng, bà quay ra thù hận cả thế giới và phô bày mong muốn được nể vì của mình bằng cái tật cứ nhắc đi nhắc lại địa vị ngày xưa của cha bà và bà đã được quý trọng thế nào cho đến ngày lập gia đình. Bà không thôi khoe khoang, bất chấp lố bịch mình giắt lông một con công đã chết, khiến thiên hạ cười nụ mỉa mai, rồi thương hại nhạo báng, cuối cùng bực bội không ai giao du với bà nữa. Bà hết dính líu với đám người đố kỵ ấy, nhưng lòng kiêu căng của bà chẳng hề suy suyển, và, vì chẳng còn ai xứng đáng nghe, bà quay ra kể lể với bất cứ ai do chức trách của mình phải vào nhà bà. Từ người phát thư đến anh thợ ống nước, cho đến người ghi công tơ điện, tất cả những ai dại dột nhận uống một cốc bia đều phải ráng nghe chuyện quá khứ huy hoàng của bà. Lâu dần xung quanh bà thành sa mạc, và, chẳng bao lâu, tôi là sinh vật duy nhất làm đích cho bà hục hặc. Bà muốn dạy tôi những bài học tư cách, nhưng tôi hùng hổ chối từ một cách khinh rẻ. Bà muốn ngăn tôi lạc xa hơn trên con đường sa đọa kiếp sống một kẻ làm văn đưa tới. Tại sao lại viết trong khi phải hành động? Không gì lay chuyển được xác tín của bà là tôi đã chọn nghề văn do nhu nhược, điểm yếu kém thừa hưởng từ ông bố ngu ngốc của tôi và tôn thành mẫn cảm nghệ thuật. Giá như tôi còn sáng suốt biết làm văn như người ta đi buôn, bán cơm nuôi miệng... Nhưng tôi lại tự phụ và mù quáng đến độ lao mình vào một công cuộc tuyệt vọng đã đưa bao kẻ xấu số đến chỗ tự vẫn. Cái thói theo thời của bà, hóa thành cuồng tín hễ bà nghĩ tư cách mình bị xúc phạm, khiến bà ngày càng khe khắt hơn với tôi, bị buộc là đã ung thối vì sách vở (thế là tôi phải gom hết bình tĩnh để không chặn đứng những công kích của bà bằng cách bảo thẳng vào mặt bà bản án của một trong những nhà văn tôi yêu chuộng nhất, Có bao giờ một trong những con đượi ngu ngơ kia nghĩ mình phải lê lết đời này qua đời khác mới hòng chuộc tội này: đã đẻ ra chúng ta?) Hễ lâm vào ngõ bí, bà liền lẩn tránh bằng những lời thô tục. Với cha tôi, lúc nào bà cũng cố giữ thái độ cao ngạo khinh miệt. Trước mặt tôi, bà mau chóng hóa thành mụ ác phụ để sự hung dữ thù hằn của mình bùng nổ thành những câu chửi bới tục tằn. Thế là tôi bị gọi là đồ bất lực, là đồ lại cái, là đồ sán lãi không biết thân biết phận. Nếu không vì bản tính ghét những lời lẽ bừa bãi, hẳn tôi đã nổi khùng và cũng đã rơi vào tột cùng sự nguyền rủa. Tôi đã sai mà tưởng rằng, không đáp lại bà, tôi sẽ khiến bà phải hổ thẹn đã tuôn ra những lời tục tĩu như thế. Đó là một lầm lẫn. Đối với tôi, vì, bị xúc phạm mà không đáp lại, tôi cảm thấy mình nhục nhã, mất phẩm giá, cũng như đối với mẹ tôi, lại càng lún sâu hơn trong điên dại thù hận của mình. Tôi đã để bà giở trò trong khi lẽ ra phải la rầy bà như ta quở mắng một đứa trẻ mất dạy hoặc, hay hơn nữa, bảo bà ráng mà giữ mồm giữ miệng. Tôi lặng thinh, bà lại cho là hèn nhát. Hẳn những kẻ điên khùng chẳng khác gì những nhà độc tài đạt tới đỉnh cao hoang tưởng tự đại của họ: ta không thể chống họ bằng những vũ khí của văn minh được; không có giải pháp nào khác hơn là đem khủng bố đối lại khủng bố. Sự áp chế của bà đối với tôi bắt rễ quá sâu. Dẫu thế nào tôi cũng xử sự như một thổ dân mong ước độc lập nhưng nỗi sợ ông thần da trắng khiến anh ta không sao nổi dậy được. Nói chuyện với Khổ Thủ, tôi tìm ra nguyên ủy sự tùng phục ấy. Nghịch lý thay, tôi ràng buộc với mẹ tôi chính vì bà đã bỏ phế tôi sau khi tôi chào đời. Tôi tìm lại được hồi ức về giai đoạn đó khi cố gắng trả lời những câu hỏi của Khổ Thủ. Tôi mới ba tuổi mà thôi. Tôi thấy lại tôi, ngồi bệt dưới đất, dưới chân giường mẹ tôi năm sõng sượt. Bà rền rĩ và giấu mặt vào khăn trải giường mỗi khi tôi giật chéo chăn để bà ngó đến tôi. Nhà không có ai. Cha tôi, trước khi đi làm, đã đặt tôi giữa một cái chăn len và bày đồ chơi khắp xung quanh tôi. Ngay khi còn một mình, tôi tức thì ra khỏi chỗ tôi và đến bên giường mẹ. Vừa cảm thấy tôi hiện diện, bà quay ngay mặt vào tường. Tôi ngồi xuống đất, chéo chăn nắm chặt trong tay, tôi chờ. Bà không nhúc nhích, và thường thì tôi thiếp ngủ dưới chân giường cho đến khi cha tôi, giữa trưa, trở về và nhấc tôi dậy cho tôi ăn. Đôi khi, trong những ngày đằng đẵng mẹ tôi chỉ ngồi lên để nuốt mấy viên thuốc mà tôi ngỡ là kẹo (tôi tự nhủ chắc mẹ buồn lắm nên cứ ngốn bao nhiêu kẹo như thế), tôi cảm thấy mình có bổn phận phải hữu dụng để mẹ, hài lòng vì tôi, khỏi bệnh mau hơn. Tôi nhớ, trước khi ngã bệnh, không bao giờ bà quên xếp dọn đồ chơi của tôi và rất ghét bề bộn. Thế là mỗi sáng tôi cố gắng chất đồ chơi, bừa bãi quanh tôi, thành một đống cho có vẻ ngăn nắp. Bổn phận làm xong, tôi quay lại bên mẹ, hy vọng được bà tán thưởng. Tôi chỉ nhận được một tiếng thở dài vô cùng bực bội cùng một tiếng lầm bầm đuổi tôi về chỗ, dưới chân giường. Hồi ức rõ rệt nhất của tôi về giai đoạn ấy trở lại với tôi một buổi chiều trong văn phòng Khổ Thủ. Hắn chưa kịp dùng bữa trưa và ăn vội vã sô cô la mà hắn đưa mời tôi một miếng. Xưa nay tôi vẫn rất ghét sô cô la. Thấy ai ăn thứ này, môi bê bết những vệt nâu nâu, là tôi phát gớm không sao chịu nổi. Không nghĩ ngợi, tôi bảo Khổ Thủ là sô cô la làm tôi nghĩ đến cứt. Tức thì, hiện ra trong trí tôi gương mặt hoảng hốt một đứa bé vừa ỉa són trên nền lát sạch bóng phòng vệ sinh. Thường thì cha tôi cho tôi ăn, tắm rửa cho tôi, cho tôi đi tiêu đi tiểu trước khi ông đi làm. Hôm ấy việc cố rặn lúc sáng chỉ làm tôi đau bụng dai dẳng mà thôi. Cha tôi đi rồi, như mọi khi tôi ngồi dưới chân giường người bệnh thiêm thiếp ngủ. Mấy giờ trôi qua tôi lặng người vì dạ dày quặn thắt. Nhưng không bao lâu, tôi nghe bụng sôi lên. Tôi chỉ kịp chạy vào phòng vệ sinh. Cái bô của tôi đâu mất. Tôi bé quá không leo lên ngồi cầu tiêu được. Cha tôi về lúc giữa trưa và tìm ra tôi ngồi dưới nền lát, mặt dính đầy cứt. Do mong muốn che giấu việc bậy bạ của mình và tin rằng mẹ tôi sẽ trở bệnh nặng hơn nữa nếu bà biết ra tôi đã làm dơ phòng tắm, nơi thiêng liêng của bà, tôi đã nảy ra ý bôi xóa các dấu vết tội lỗi của mình bằng cách nuốt mấy cục phân. Ký ức tôi đã tìm lại đuợc mọi chuyện, nhưng miệng tôi không làm sao kể ra. Đàm thoại với Khổ Thủ hôm ấy là một thất bại vì tôi không chịu nhắc đến những kỷ niệm liên hệ tới căn bệnh của mẹ tôi, căn bệnh mà năm bảy tuổi tôi đuợc biết nguyên do chính yếu là tâm thần. Cái chết của người cha và niềm tin đã kết hôn với một gã ngu đần thảm hại đã khiến thần kinh bà chao đảo rồi thành bệnh thần kinh suy nhược. Hẳn là sự quẫn trí của mẹ tôi, khiến bà hắt hủi tôi, đã có ảnh hưởng sâu xa tới cá tính tôi. Hẳn là suốt đời tôi vẫn cứ là đứa bé bị bỏ phế kia, ngồi dưới chân giường chờ một dấu hiệu. Và nỗi đau khổ thầm kín chưa bao giờ thuyết phục được mẹ tôi đọc những gì tôi viết, những thú nhận ngụy trang trong đó tôi lục lọi đống bí mật của tôi, nỗi đau khổ ấy cũng trẻ con như cơn hờn giận của đứa bé chẳng được người ta khen ngợi đã ị ra mấy cục thật tròn. Tôi đã tưởng có sách xuất bản, dẫu chúng chẳng khiến bà chú ý hơn gì những khi lặng lẽ chầu chực dưới chân giường đã chẳng khiến bà động lòng, tôi sẽ xác nhận tự do của tôi và có thể ra mặt là kẻ bội phản, không là con ai cả. Nhưng các từ ngữ, bùa chú của một tôn giáo vật tổ, đã lôi tôi, còn chắc chắn hơn buộc ràng gan ruột, trở lại với sự tôn thờ người mẹ, thần tượng đen tối mà chưa một hung cuồng triệt phá nào bẻ gãy được sự mê hoặc. Tôi đã tưởng văn chương giống như giếng nước phản chiếu ánh lấp lánh các vì sao. Tôi đã lao xuống cái hố ấy để lượm các vì sao, nhưng chỉ thấy lớp nước tù hôi nồng. Và bây giờ thì người ta bảo tôi đã giết mẹ. Tôi đã thắt cổ bà khi bà say ngủ, và trở lại Paris chẳng nhớ chút gì về chuyến viếng thăm khuya khoắt ấy. Quả đúng tôi có giữ chìa khóa thứ hai nhà bà từ bữa bà bị cướp giật ngoài đường. Nhưng tôi chưa dùng nó bao giờ. Người ta đã tìm ra chìa khóa ấy trong túi áo vest hình như tôi mặc đêm xảy ra tội ác. Lại còn mấy tấm vé xe lửa, chứng cớ tôi đã đi xa ban đêm đến sáng mới trở về. Vậy là tôi đã lẻn vào nhà mẹ tôi như một tên ăn trộm và đã thắt cổ bà trong khi bà say ngủ. Khóa cửa không hề bị bẻ và chẳng có gì mất trộm khiến cảnh sát nghi ngờ tôi ngay. Người ta đã nhận ra dấu vết tàn thuốc trên thảm. Dường như sau khi giết người tôi đã ở lại một lúc lâu, ngồi dưới chân giường, hút một điếu thuốc mà người ta tìm được mẩu đầu trong lò sưởi. Nếu mẹ tôi còn sống, hẳn tôi không thể làm như thế. Bà vẫn luôn luôn cấm tôi làm hôi hám không khí bà thở. Do không ai đến thăm bà, lẽ ra hàng tuần nữa người ta mới phát hiện tội ác nếu như tôi không gọi cảnh sát kể nỗi lo không ai trả lời những khi, cứ hai ngày, tôi đều đặn điện thoại cho bà. Khi cuộc điều tra kết luận tôi là thủ phạm, sự kiện chính tôi đã báo cảnh sát được giải thích là mưu toan đánh lạc mọi ngờ vực. Sự kiện tôi là một kẻ làm văn cũng chẳng khiến các quan tòa rộng lượng hơn. Người ta trích dẫn trong các tiểu thuyết của tôi những đoạn có chiều hướng chứng minh sự đồi bại của tôi (chẳng phải tôi đã, thản nhiên như một kẻ không có gì hối tiếc, báo động và thách đố cảnh sát đó sao?), và cả lòng thù hận mẹ biểu lộ qua sự chán ghét phụ nữ triệt để và ấu trĩ sẽ chỉ làm trò cười nếu không phải nguyên ủy bệnh hoạn. Rủi ro hơn nữa, người ta tìm ra cuốn sách tôi thường đọc, Sát nhân xét như một mỹ thuật. Không ai chịu tin tôi đã không dự mưu tội ác và không còn nhớ chút gì. Ngoài cáo buộc đồi bại bệnh hoạn lại thêm nghi ngờ man trá. Không biết làm sao hơn, người ta giao phó tôi cho Khổ Thủ. Tính bình thản của hắn và cách điều tra thận trọng của hắn - vì sợ, theo lời hắn, gây chấn động sẽ khiến tôi vĩnh viễn mất trí nhớ - đã gần như đưa tôi đến chỗ mong ước tưởng thưởng sự kiên nhẫn của hắn bằng cách bịa đặt các chi tiết một cảnh tượng trí nhớ tôi không chịu thú nhận. Kẻ thành nhân nơi tôi muốn mình đã phạm cái tội giết người ấy như thể tôi đã tự tử qua mẹ tôi và chính do đó dàn hòa với khuynh hướng nơi tôi tự bao giờ cứ mong tìm cái chết. Nhưng tôi vẫn là đứa trẻ kia, đứa trẻ ngồi dưới chân giường chờ được gọi lên sưởi ấm trong lòng mẹ, đứa trẻ ấy không chấp nhận rằng chờ đợi hão huyền đã khiến nó hủy diệt các hoài vọng của nó. Bất kể những gì tôi biết, bất kể sự lạc lõng tôi đã sa vào do thiếu vắng mẹ, kẻ thù suốt đời tôi tôi vẫn chờ một lời an ủi, tôi không thôi hy vọng. Tôi ngó hai bàn tay sát nhân của mình. Tôi muốn thành cụt tay và cùng với cái chết của mẹ tôi sẽ lụi tàn sự thực chắn ngang họng tôi. Sự thực ấy bảo tôi rằng không một dòng thác từ ngữ nào rửa được nhục nhã của tôi là sau cùng đã trở nên không khác gì mẹ tôi.