← Quay lại trang sách

London, hiện tại

London. Tuần đầu tiên trong cuộc đời mới của tôi.

Văn phòng hiệu trưởng tại trường Oakfield.

Tôi đang cố tỏ ra bình thường. Mỗi lúc một nan giải hơn. Quá khứ chỉ chực trỗi dậy.

Không.

Nó đã trỗi dậy rồi. Quá khứ luôn ở đây. Căn phòng có mùi cà phê hòa tan, thuốc khử trùng và thảm acrylic, nhưng treo một tấm áp phích Shakespeare.

Đó là bức chân dung ta luôn thấy về ông. Đường chân tóc cao, làn da tai tái, cặp mắt trống rỗng của một tay phê thuốc. Một bức tranh chẳng thực sự giống Shakespeare.

Tôi hướng sự tập trung trở lại vị hiệu trưởng, Daphne Bello. Bà đeo khuyên tai vòng màu cam. Mái đầu điểm mấy sợi bạc giữa nền tóc đen. Bà mỉm cười với tôi. Một nụ cười đầy ý nhị. Nụ cười không ai có thể có trước ngưỡng bốn mươi. Nụ cười cùng lúc bao hàm nỗi buồn lẫn vẻ bất chấp và thích thú.

“Tôi ở đây đã khá lâu rồi.”

“Thật à?” tôi nói.

Bên ngoài, tiếng còi xe cảnh sát xa xa tan dần vào hư không.

“Thời gian,” bà nói, “quả là một thứ kỳ lạ, phải không?”

Bà duyên dáng cầm phần miệng chiếc cốc giấy đựng cà phê khi đặt nó xuống kế bên máy tính.

“Kỳ lạ nhất luôn,” tôi đồng tình.

Tôi quý Daphne. Tôi thích toàn bộ cuộc phỏng vấn này. Tôi thích được trở lại nơi đây, London này, trở lại Tower Hamlets. Và tham gia phỏng vấn cho một công việc bình thường. Tuyệt vời biết nhường nào khi cảm thấy, ừm, bình thường được một lần.

“Tôi làm nghề giáo được ba thập kỷ rồi. Hai thập kỷ là ở đây. Một ý nghĩ đến là buồn chán nhỉ. Tất cả những năm tháng ấy. Tôi già quá rồi.” Bà mỉm cười thở dài.

Tôi luôn thấy thật khôi hài khi người ta nói vậy.

“Trông chị đâu có già” là điều nên nói, vậy nên tôi nói thế.

“Khéo miệng quá! Điểm cộng!” Bà bật ra tiếng cười vút lên cả hai quãng tám.

Tôi mường tượng tiếng cười của bà tựa một chú chim vô hình, một con vật lạ thường, từ Saint Lucia (quê nội của bà), đang bay vút lên bầu trời xám xịt bên ngoài cửa sổ.

“Chao ôi, phải chi được trẻ trung, như anh,” bà khúc khích.

“Bốn mốt đâu có trẻ,” tôi đáp, nhấn mạnh vào con số lố bịch đó. Bốn mốt. Bốn mốt. Đó chính là tôi hiện tại.

“Anh trông rất ổn đấy.”

“Tôi mới đi nghỉ về. Chắc là nhờ vậy.”

“Chỗ nào đấy thú vị chứ?”

“Sri Lanka. Vâng. Thú vị lắm. Tôi cho rùa ăn ở biển...”

“Rùa ư?”

“Vâng.”

Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ thì thấy một phụ nữ với bầy học trò mặc đồng phục hướng về phía sân chơi. Cô dừng lại, quay về phía lũ trẻ, và tôi nhìn thấy mặt cô khi cô nói những lời tôi không nghe thấy. Cô đeo kính, mặc quần jean cùng áo khoác len dài khẽ phất phơ trong gió, tóc vén sau tai. Cô đang cười, trước điều gì đó một học sinh đang nói. Tiếng cười làm khuôn mặt cô bừng sáng, và trong khoảnh khắc tôi đã bị mê hoặc.

“À,” Daphne lên tiếng, làm tôi phát ngại, khi bà phát hiện tôi đang nhìn đi đâu. “Đó là Camille, giáo viên tiếng Pháp của chúng tôi. Cô ấy là độc nhất vô nhị. Bọn trẻ quý cô ấy lắm. Cô ấy đưa chúng đi đây đó suốt... những buổi học tiếng Pháp ngoài trời. Là kiểu trường học đó đấy.”

“Tôi hiểu là chị đã làm rất nhiều điều tuyệt vời tại đây,” tôi nói, cố đưa cuộc nói chuyện về đúng chủ đề.

“Tôi cũng cố gắng thôi. Tất cả chúng tôi đều cố gắng. Dẫu vậy thì đôi khi vẫn cầm chắc thất bại. Tôi chỉ lấn cấn duy nhất một điều về hồ sơ của anh. Các giấy giới thiệu của anh rất ấn tượng. Và tôi đã cho kiểm tra hết rồi...”

Tôi thấy nhẹ cả người. Không phải vì bà đã kiểm tra các giấy giới thiệu, mà là đã có người nhấc điện thoại, hoặc email lại.

“... nhưng đây không phải một trường phổ thông hỗn hợp nông thôn ở Suffolk. Đây là London. Đây là Tower Hamlets.”

“Trẻ con thì đứa nào cũng như nhau thôi mà.”

“Và chúng là những đứa trẻ tuyệt vời. Nhưng nơi này là một vùng khác biệt. Chúng không được hưởng những đặc quyền giống vậy. Cái tôi băn khoăn là anh đã sống một cuộc sống hơi được o bế.”

“Có thể chị sẽ ngạc nhiên đấy.”

“Và nhiều học sinh ở đây đã vật lộn đủ mệt với hiện tại rồi, nói gì đến lịch sử. Chúng chỉ quan tâm đến thế giới quanh mình thôi. Mấu chốt là phải lôi cuốn được chúng. Anh sẽ làm lịch sử sống dậy bằng cách nào đây?”

Trên đời này chẳng có câu hỏi nào dễ hơn thế. “Lịch sử không phải thứ ta cần làm sống dậy. Lịch sử vốn đang sống rồi. Chúng ta chính là lịch sử. Lịch sử không phải là các chính trị gia hay những vị vua và nữ hoàng. Lịch sử là mọi người. Là vạn vật. Nó là cốc cà phê kia. Ta có thể diễn giải nhiều điều về toàn bộ lịch sử của chủ nghĩa tư bản và đế quốc và chế độ nô lệ chỉ qua việc nói về cà phê. Biết bao máu đã đổ và bao thống khổ đã phải chịu đựng để cho chúng ta ngồi đây nhấm nháp cà phê từ cốc giấy đấy.”

“Anh làm tôi hết muốn uống nữa rồi.”

“Ôi, xin lỗi chị. Nhưng điều tôi muốn nói là: lịch sử ở khắp mọi nơi. Vấn đề ở chỗ phải khiến người ta nhận ra điều đó. Khiến ta hiểu được một địa danh.”

“Phải.”

“Lịch sử là con người. Ai mà chẳng yêu thích lịch sử.”

Daphne hoài nghi nhìn tôi, mặt bà rụt xuống cổ còn lông mày nhướng lên. “Anh có chắc về điều đó không?”

Tôi khẽ gật đầu. “Đơn giản là khiến người ta nhận ra rằng mọi thứ họ nói, làm và nhìn chỉ là thứ họ nói, làm và nhìn nhờ có những gì đã trôi qua trước đó. Nhờ có Shakespeare. Nhờ có mọi con người từng sống.”

Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ. Chúng tôi đang ở trên tầng ba và có tầm nhìn khá bao quát, kể cả trong màn mưa phùn London âm u. Tôi thấy một tòa nhà cổ theo phong cách kiến trúc thời các vua George mà tôi đã đi qua bao lần.

“Chỗ kia, cái chỗ đằng kia kìa. Nhà có bao nhiêu là ống khói ấy? Nơi đó từng là trại thương điên. Còn đằng kia” - tôi chỉ một nơi khác, một tòa nhà gạch thấp hơn - “là một lò sát sinh cũ. Người ta từng mang hết xương cũ đi làm đồ sứ. Nếu ta đi ngang qua nơi này hai trăm năm trước thì sẽ nghe thấy một bên là tiếng rên la của những con người bị xã hội tuyên bố là mất trí, còn bên kia là tiếng gia súc...”

Nếu, nếu, nếu.

Tôi chỉ vào những mái nhà lợp ngói đen đằng Đông.

“Còn ngay kia thôi, trong một hiệu bánh, trên đường Old Ford, là nơi Sylvia Pankhurst và hội phụ nữ đấu tranh đòi quyền bầu cử phía Đông London từng họp mặt. Họ từng giương một biểu ngữ lớn, sơn vàng, với dòng chữ ‘BỎ PHIẾU CHO NỮ GIỚI’ đập thẳng vào mắt, không xa nhà máy diêm cũ lắm.”

Daphne lúi húi viết gì đó. “Tôi thấy là anh còn chơi nhạc nữa. Guitar, piano và violin.”

Cả đàn luýt nữa, tôi không nói ra. Cả đàn mandolin. Cả đàn cittern. Và sáo thiếc nữa.

“Vâng.”

“Anh làm Martin phải xấu hổ đấy.”

“Martin?”

“Giáo viên âm nhạc của chúng tôi. Hết thuốc chữa. Thầy ấy đúng là hết thuốc chữa. Đến cái kẻng tam giác còn trầy trật. Ấy vậy mà cứ tưởng mình là ngôi sao nhạc rock. Martin tội nghiệp.”

“Ừm, tôi thích âm nhạc. Tôi thích chơi nhạc. Nhưng tôi thấy dạy nhạc lại khó đấy. Tôi luôn cảm thấy khó nói về âm nhạc.”

“Không như lịch sử?”

“Không như lịch sử.”

“Và có vẻ như anh nắm đủ thông tin mới nhất về chương trình học hiện tại rồi.”

“Vâng,” tôi nói dối, không chớp mắt. “Hẳn rồi.”

“Và anh vẫn còn rất trẻ nữa.”

Tôi nhún vai và trưng ra vẻ mặt mà tôi nghĩ mọi người thường trưng ra trong trường hợp này.

“Tôi năm mươi sáu tuổi rồi nên bốn mốt hãy còn trẻ chán, tin tôi đi.”

Năm mươi sáu vẫn trẻ.

Tám mươi tám vẫn trẻ.

Một trăm ba mươi vẫn trẻ.

“Chà, tôi lại là một người bốn mốt tuổi khá già đấy.”

Bà mỉm cười với tôi. Bà bấm đầu bút. Rồi bấm lần nữa. Mỗi lần là một khoảnh khắc. Lần bấm đầu tiên, khoảng ngừng giữa cú bấm, và lần bấm thứ hai. Ta càng sống lâu bao nhiêu thì càng khó bấy nhiêu. Để nắm bắt chúng. Mỗi khoảnh khắc nhỏ nhặt xảy đến. Để được sống trong khoảng thời gian nào đó không phải quá khứ hoặc tương lai. Để thực sự ở đây.

Mãi mãi, Emily Dickinson đã nói, được hợp nên từ những hiện tại. Nhưng làm sao ta sống trong cái hiện tại ta đang ở? Làm sao ta ngăn bao bóng ma từ tất cả những hiện tại khác khỏi xâm nhập vào? Nói tóm lại, làm sao ta sống?

Tâm trí tôi phiêu dạt.

Gần đây chuyện đó hay xảy ra. Tôi có nghe nói đến nó. Những hải âu khác đã kháo nhau. Anh sống được nửa đời người, và những suy nghĩ trở nên quá bề bộn. Ký ức tựa những đợt sóng cồn. Những cơn đau đầu gia tăng. Cơn đau đầu hôm nay không đến nỗi nào, nhưng nó đã hiện diện ở đó.

Tôi gắng tập trung. Tôi cố bám víu vào cái hiện tại khác ấy, vài giây ngắn ngủi vừa rồi, khi tôi đang tận hưởng cuộc phỏng vấn. Tận hưởng cảm giác được tương đối bình thường. Hoặc ảo giác của nó.

Chẳng có sự bình thường nào cả.

Dành cho tôi thì không.

Tôi gắng tập trung. Tôi nhìn Daphne lắc đầu cười, nhưng tiếng cười giờ đã êm ái hơn, vì điều gì đó bà không để lộ ra. Điều gì đó buồn, tôi cảm giác vậy, dựa vào ánh mắt bỗng dưng bần thần của bà. “Ừm, Tom này, phải nói là tôi khá ấn tượng với anh và bộ hồ sơ này.”

Tom.

Tom Hazard.

Tên tôi - tên từ thuở cha sinh mẹ đẻ của tôi - là Estienne Thomas Ambroise Christophe Hazard. Xuất phát điểm là vậy. Kể từ ấy tôi đã mang cơ man nào là những cái tên, đã hóa thân thành cơ man nào là thứ. Thế nhưng, khi mới chân ướt chân ráo đến nước Anh, tôi đã nhanh chóng bỏ đi những phần râu ria và trở thành Tom Hazard.

Giờ đây, dùng lại cái tên này, có cảm giác như một sự trở lại vậy. Nó âm vang trong đầu tôi. Tom. Tom. Tom. Tom.

“Anh đáp ứng mọi yêu cầu. Mà dẫu không thì anh cũng nhận được việc thôi.”

“Ô, thật à. Tại sao vậy?”

Bà nhướng mày. “Chẳng có ứng viên nào nữa cả!”

Cả hai chúng tôi đều phì cười trước câu nói đó.

Song tiếng cười lụi tắt nhanh hơn cả kiếp phù du.

Bởi sau đó bà nói, “Tôi sống ở phố Chapel. Chẳng hay anh có biết gì về nó không?”

Dĩ nhiên tôi biết chứ, và câu hỏi này thốc vào tôi như một cơn gió lạnh. Cơn đau đầu giần giật dữ dội hơn. Tôi hình dung ra một quả táo nổ tan tành trong lò vi sóng. Lẽ ra tôi không nên quay trở lại đây. Lẽ ra tôi không nên xin Hendrich hiện thực hóa chuyện này. Tôi nghĩ đến Rose, đến lần cuối tôi nhìn thấy nàng, và đôi mắt mở to tuyệt vọng đó.

“Phố Chapel. Tôi không biết. Không. Không, tôi e là mình không biết.”

“Đừng lo.” Bà nhấp cà phê.

Tôi nhìn tấm áp phích Shakespeare. Ông dường như đang nhìn tôi không rời mắt, như một người bạn cũ. Có một câu trích dẫn bên dưới hình ông.

Chúng ta biết mình là ai, nhưng không biết mình có thể sẽ trở thành ai.

“Tôi có một dự cảm về anh, Tom ạ. Ta phải tin vào linh tính của mình, đúng không?”

“Tôi cho là vậy,” tôi nói, dù linh tính chính là thứ tôi không bao giờ tin tưởng.

Bà mỉm cười.

Tôi mỉm cười.

Tôi đứng lên, đi ra cửa. “Hẹn gặp chị vào tháng Chín.”

“Ha! Tháng Chín. Tháng Chín. Thấm thoắt thoi đưa. Thời gian mà. Lại thêm một điều về chuyện già đi đấy. Thời gian trôi vèo vèo.”

“Giá mà như vậy,” tôi lẩm bẩm.

Nhưng bà không nghe thấy, vì sau đó bà nói, “Cả trẻ con nữa.”

“Gì ạ?”

“Trẻ con cũng là cái dường như khiến nhịp sống trôi mau hơn. Tôi có ba đứa. Đứa cả năm nay hai hai. Tốt nghiệp năm ngoái. Mới hôm qua con bé còn chơi Lego; ấy thế mà hôm nay đang lấy chìa khóa căn hộ mới rồi. Hai mươi hai năm trong một chớp mắt. Anh có con không?”

Tôi siết lấy tay nắm cửa. Đây cũng là một khoảnh khắc. Và bên trong nó, là hàng nghìn khoảnh khắc khác đau đớn sống dậy.

“Không,” tôi đáp, vì như thế dễ hơn là nói thật, “tôi không có.”

Hình như, trong một khắc ngắn ngủi, bà thoáng ngại ngùng. Tôi nghĩ bà định nhận xét gì đó nhưng thay vào đấy bà nói, “Hẹn sớm gặp lại anh, anh Hazard.”

Tôi bước ra hành lang cũng có mùi thuốc khử trùng, nơi hai thiếu niên đang đứng dựa vào tường, mắt dính chặt vào điện thoại như những mục sư già chú mục vào sách cầu nguyện. Tôi quay lại, thấy Daphne đang nhìn máy tính.

“Vâng. Hẹn sớm gặp lại chị.”

Khi bước ra ngoài văn phòng của Daphne Bello, và ra khỏi trường, tôi đang ở trong thế kỷ hai mốt nhưng đồng thời cũng là thế kỷ mười bảy.

Đi được khoảng một dặm tới phố Chapel - trải dài những cửa hàng cá cược, vỉa hè, bến xe buýt, cột đèn bê tông và những bức graffiti vẽ qua quýt - tôi cơ hồ chìm trong cơn mê. Những con phố chừng như quá rộng. Và khi tới phố Chapel, tôi phát hiện ra điều mình hiển nhiên đã biết: những ngôi nhà một thời ở đây giờ không còn nữa, bị thay thế bởi những căn xây hồi cuối thập niên 1800, cao, gạch đỏ và mộc mạc như thời đại nó được thiết kế.

Ở góc phố, nơi tôi từng biết có một nhà thờ nhỏ bỏ hoang và một người canh gác, giờ là quán KFC. Màu nhựa đỏ nhói lên như một vết thương. Tôi bước tiếp với đôi mắt nhắm nghiền, cố gắng cảm nhận ngôi nhà xưa cách bao xa và rồi dừng lại sau tầm hai mươi bước chân. Tôi mở mắt ra thì thấy một căn nhà song lập chẳng có dáng vẻ gì liên quan đến ngôi nhà tôi từng đến bao thế kỷ trước. Cánh cửa không bị đánh dấu giờ mang một sắc xanh dương tân thời. Cửa sổ hé lộ phòng khách có chiếc ti vi. Ai đó đang chơi điện tử trên ti vi. Một sinh vật ngoài hành tinh nổ tung trên màn hình.

Đầu tôi ong lên, tôi cảm thấy rã rời và phải lùi lại, tựa hồ quá khứ là thứ có thể làm loãng không khí, hoặc tác động lên định luật vạn vật hấp dẫn. Tôi dựa lưng vào một chiếc ô tô, nhẹ thôi, nhưng đủ để khiến còi báo động hú lên.

Và âm thanh đó vang lên ầm ĩ, như tiếng rên xiết vì đau đớn, rít lên suốt từ năm 1623, vậy là tôi bèn rảo gót tránh xa khỏi ngôi nhà, khỏi con phố, ước sao mình có thể tránh xa quá khứ dễ dàng như vậy.