← Quay lại trang sách

London, hiện tại

Tôi vẫn bị đau đầu.

Đôi khi cơn đau cơ hồ không hiển hiện, nhưng những lúc khác lại choán hết tâm trí, và cơn đau luôn song hành cùng kỷ niệm. Không hẳn là cơn đau đầu thông thường mà là một nỗi đau ký ức thì đúng hơn. Một nỗi đau đời.

Cho dù tôi làm gì đi nữa thì cơn đau cũng không bao giờ dứt hẳn. Tôi đã thử mọi cách. Tôi đã uống ibuprofen, tu hàng lít nước, pha tinh dầu oải hương vào bồn tắm, nằm trong bóng tối, chậm rãi day thái dương theo vòng tròn, thở chậm, nghe đàn luýt và tiếng sóng biển, thiền, vừa tập bài yoga giải tỏa căng thẳng qua video vừa lặp đi lặp lại câu chú “Ta bình an, buông bỏ có sao” cỡ một trăm lần cho đến khi đâm sợ giọng nói của chính mình, xem những chương trình ti vi nhảm nhí, ngừng uống cafein, giảm độ sáng màn hình laptop, song cơn đau đầu cứ lì ra, ngoan cố như một cái bóng.

Việc tôi chưa thử một cách tử tế là đánh một giấc. Tôi gặp tình trạng mất ngủ mà qua nhiều thập kỷ lại càng trầm trọng hơn.

Đêm qua không ngủ được, tôi bèn xem một bộ phim tài liệu về loài rùa. Chúng không phải loài sống lâu nhất nhưng là một trong số đó, và có những con rùa “sống tới hơn một trăm tám mươi tuổi”. Tôi đưa cụm này vào ngoặc kép bởi những ước tính như vậy của loài phù du té ra luôn là đánh giá thấp. Cứ xem họ đã nhìn nhận sai thế nào về loài cá mập. Hoặc, ừm, loài người. Tôi cá là ngoài kia có ít nhất một con rùa sắp kỷ niệm sinh nhật lần thứ năm trăm.

Dù sao đi nữa, điều làm tôi thất vọng là con người không phải rùa. Rùa đã xuất hiện cách đây khoảng hai trăm hai mươi triệu năm. Từ kỷ Tam Điệp. Và chúng thực sự chẳng thay đổi mấy. Con người, ngược lại, chỉ mới xuất hiện một thời gian ngắn.

Và chẳng cần phải là thiên tài ta cũng có thể bật thời sự và đi đến kết luận: chúng ta có lẽ không có nhiều thời gian. Những phân loài người khác - như người Neanderthal, người Denisova ở châu Á, người thường được gọi là “hobbit” của Indonesia - đã chứng tỏ là họ không thể trụ lại lâu trong cuộc chơi dài hơi và nhiều khả năng là chúng ta cũng vậy.

Với loài phù du thì chẳng hề gì. Nếu ta biết mình chỉ sống được thêm ba hay bốn chục năm nữa thì cũng chẳng sao. Ta có thể nghĩ đơn giản thôi. Ta có thể thấy thật dễ hình dung mình là một thứ cố định, bên trong một quốc gia cố định, với một lá cờ cố định, và một quan điểm cố định. Ta có thể tưởng tượng rằng những điều này mang một ý nghĩa nào đó.

Càng sống lâu, ta càng nhận ra rằng chẳng có gì là cố định cả. Ai rồi cũng trở thành người tị nạn nếu họ sống đủ lâu. Ai rồi cũng nhận ra rằng quốc tịch của họ về lâu dài chẳng có nhiều ý nghĩa. Ai rồi cũng thấy thế giới quan của mình bị thách thức và bác bỏ. Ai rồi cũng nhận ra thứ định nghĩa một con người là làm người.

Rùa không có những quốc gia. Hay những lá cờ. Hay vũ khí hạt nhân chiến lược. Chúng không có chủ nghĩa khủng bố hay các cuộc trưng cầu dân ý hay thương chiến với Trung Quốc. Chúng không có danh sách nhạc trên Spotify cho những buổi tập thể thao. Chúng không có những cuốn sách về sự suy tàn và sụp đổ của các đế quốc rùa. Chúng không có hình thức mua sắm online hay tự thanh toán.

Những loài động vật khác không có sự tiến bộ , người ta nói vậy. Nhưng chính tâm trí con người cũng có tiến bộ gì cho cam. Chúng ta vẫn là những con tinh tinh được tâng bốc, chẳng qua là với những món vũ khí ngày càng lớn hơn. Chúng ta có kiến thức để nhận thức rằng mình chỉ là một khối lượng tử và các hạt, như vạn vật, tuy nhiên chúng ta vẫn cứ cố gắng tách biệt mình khỏi vũ trụ chúng ta đang sống, hòng cho bản thân một ý nghĩa vượt lên trên ý nghĩa của một cái cây hay một tảng đá hay một con mèo hay một con rùa.

Vì thế tôi ở đây, đầu ngập ngụa những nỗi sợ hãi và đau đớn rất người, ngực thắt lại vì âu lo, nghĩ đến việc mình có rất nhiều tương lai ở phía trước.

Những ngày này nếu ngủ được ba tiếng đồng hồ là coi như tôi vớ bở. Ngày xưa tôi hay uống Quieting Syrup - một hỗn hợp thuốc ho mà Hendrich mách - nhưng Quieting Syrup chứa morphine, nên người ta đã ngừng sản xuất khi thuốc phiện bị cấm cách đây một trăm năm. Nên giờ tôi đành dùng tạm Night Nurse của Beecham, mà chẳng bao giờ ăn thua.

Tất nhiên, lẽ ra tôi nên đi khám, nhưng tôi không đi. Đó là quy tắc của Hải âu Hội. Không bác sĩ. Bị gì cũng không. Và sau tội lỗi tôi đã gây ra với bác sĩ Hutchinson, việc tuân thủ quy tắc này dễ như bỡn. Tôi tự hỏi liệu đó có phải một khối u không, dù tôi chưa bao giờ nghe nói có hải âu nào bị mắc khối u. Và rõ ràng nếu tôi có bị thật thì nó cũng sẽ tiến triển rất chậm. Một khối u sẽ cho tôi sống thêm một quãng thời gian ít nhất tương đương tuổi thọ trung bình của con người. Nhưng không, các triệu chứng thậm chí còn chẳng hề giống vậy.

Nói gì thì nói, cơn đau đầu vẫn hành hạ tôi khi chỉ còn một ngày nữa là tôi nhận công việc mới. Tôi uống chút nước, ăn chút ngũ cốc rồi dẫn Abraham đi dạo. Cả đêm qua nó nhay tay ghế sofa nhưng tôi không muốn mắng nó. Nó đã có đủ vấn đề rồi.

Tôi cho rằng mình cần một con chó có vấn đề, để bớt nghĩ về vấn đề của bản thân. Giống Akita được sinh ra dành cho vùng núi Nhật Bản, vì thế tôi biết nó như kiểu một bạn đồng hành, một kẻ được định sẵn cho những khung cảnh cao nhã hơn, bị giáng cấp xuống chỗ bụi bẩn, ô nhiễm và những con phố bê tông ở phía Đông London Chẳng trách nó tè lên thảm và cắn sofa. Đây đâu phải cuộc đời nó mong muốn.

Thế là chúng tôi thả bộ, mình tôi và Abraham, hứng trọn khói thải phả vào mặt.

“Chỗ này từng có một cái giếng đấy,” tôi nói với nó khi chúng tôi đi qua một cửa hàng cá cược. “Còn đây, ngay đây, chính là chỗ cánh đàn ông từng tụ tập chơi skittle sau buổi lễ nhà thờ ngày Chủ nhật.”

Một cậu thiếu niên lướt qua chúng tôi, mặc quần xắn gấu và áo phông quá khổ in chữ “The Hundreds”, nom như một tiếng vọng xa xăm bị lãng quên của một cậu bé London thế kỷ mười bảy cùng trang lứa vận quần ống túm và áo choàng. Cậu nhóc ngước lên khỏi điện thoại và liếc nhìn tôi với ánh mắt dò hỏi xen lẫn ác cảm. Với cậu, tôi chỉ là một gã người London cô độc gàn dở khác, nói chuyện một mình. Biết đâu cậu lại là một trong những học sinh mà tôi sẽ dạy vào thứ Hai.

Chúng tôi sang đường. Chúng tôi đi qua một cột đèn có dán một mẩu quảng cáo. CÂU LẠC BỘ ÁNH NẾN. Hồi tưởng Thập niên 20 Thét gào tại quán bar cocktail chủ đề ngụy trang [1] hàng đầu London. 3 Cơn đau đầu dữ dội hơn, tôi bèn nhắm mắt lại và ký ức trỗi dậy như một tiếng ho - chơi bản “Sweet Georgia Brown” trong quán bar piano Ciro ở Paris, bàn tay của một người lạ nhẹ đặt trên vai.

Tôi đang ở trong công viên. Tôi nhận ra đã nhiều năm rồi mình không chơi piano. Thường thì tôi thấy thế cũng chẳng sao. Từ lâu tôi đã thuyết phục mình rằng piano giống như thuốc phiện, quyến rũ và mạnh mẽ, và nó có thể làm ta xáo động, nó có thể đánh thức những cảm xúc đã chết, nó có thể nhấn chìm ta trong cái tôi đã mất. Nó là cơn suy nhược thần kinh chực chờ xảy ra. Tôi không biết có bao giờ mình chơi lại piano hay không. Tôi tháo dây khỏi vòng cổ của Abraham nhưng nó vẫn quanh quẩn bên tôi, ngước mắt nhìn vẻ hoang mang, như thể ngơ ngác trước khái niệm tự do.

Tôi thấy đồng cảm.

Dõi mắt nhìn quanh công viên, tôi thấy một người đàn ông đi cùng con chó giống Bichon Frise đang kín đáo cầm túi ni lông hốt phân chó. Một con sóc phóng lên thân cây sồi, chạy giật giật theo hình chữ chi. Mặt trời ló ra khỏi mây. Abraham lót tót chạy đi.

Đúng lúc đó tôi thấy cô.

Một phụ nữ đang ngồi trên ghế băng đọc sách cách tôi không xa. Tôi nhận ra cô, một việc quả hiếm thấy. Tôi hầu như không chú ý nhiều tới vẻ ngoài của người khác nữa. Những khuôn mặt nhòa lẫn vào những khuôn mặt khác. Nhưng ngay tức khắc tôi biết đây là người phụ nữ tôi đã thấy bên ngoài cửa sổ văn phòng của Daphne. Cô giáo tiếng Pháp. Khi ấy, cô có vẻ như hoàn toàn là chính mình. Để nổi bật trong một giống loài đông đảo là một việc rất khó. Cô có phong cách. Tôi không có ý nói đến cách phục sức của cô (áo blazer nhung tăm, quần jean, kính), dù chúng đẹp hoàn hảo. Ý tôi là vẻ thư thái khi cô đặt cuốn sách xuống một bên ghế băng và ngắm nhìn công viên. Trong cách cô hơi phồng má thổi nhẹ, nhắm mắt nghiêng đầu đón nắng. Tôi quay đi. Tôi là một người đàn ông trong công viên đang nhìn một người phụ nữ. Tôi có thể là bất kỳ ai. Đâu còn là năm 1832 nữa.

Nhưng rồi, ngay khi tôi quay đi, cô liền nói với qua.

“Chó của anh dễ thương quá.” Giọng cô có âm sắc Pháp. Tiếng Pháp mới. Phải rồi. Đây đích thị là người phụ nữ tôi đã nhìn thấy. Cô chìa mu bàn tay ra cho Abraham ngửi. Abraham thè lưỡi liếm vẻ biết ơn, thậm chí còn vẫy đuôi.

“Vinh dự cho mày đấy.”

Rồi cô ngước lên nhìn tôi với ánh mắt khiến người ta bối rối. Hơi lâu một chút. Tôi không dám tự cao cho rằng mình thu hút đến nỗi cô khó lòng quay đi. Thực ra, tôi đã không nhận được những ánh mắt như vậy trong ít nhất một trăm năm rồi. Hồi thập niên 1700, khi tôi trông tựa đôi mươi và mang trong lòng nỗi đau như một vết sẹo, tôi đã thường là đối tượng của những cái nhìn dai dẳng mãi không thôi, nhưng ngày nay thì không. Không hề. Cô đang nhìn tôi vì một lý do khác. Và điều đó khiến tôi không thoải mái. Cô cũng đã trông thấy tôi rồi cũng nên, ở trường. Phải. Chắc là vậy rồi.

“Abraham! Abraham! Lại đây, nhóc! Lại đây!”

Con chó hồng hộc chạy về phía tôi, tôi cài dây cho nó rồi đi về, suốt lúc đó vẫn cảm thấy ánh mắt cô dán trên gáy mình.

Ở nhà, tôi bắt đầu xem giáo án dành cho lớp bảy, và đề tài đầu tiên xuất hiện trên màn hình sáng mờ là “Xét xử phù thủy tại Anh thời Tudor”, phần mà tôi biết là không thể thiếu trong giáo trình.

Tôi nhận ra có một lý do để tôi làm việc này. Tại sao tôi lại muốn trở thành giáo viên lịch sử. Tôi cần thuần phục quá khứ. Đó là mục đích của môn lịch sử, việc dạy và kể về quá khứ. Đó là cách kiểm soát và ra lệnh cho nó. Để biến nó thành một thú cưng. Nhưng lịch sử mà ta đã sống khác với lịch sử ta đọc trong sách hay trên màn hình. Và có một số việc trong quá khứ không thể bị thuần phục.

Đầu tôi bỗng đau nhói.

Tôi đứng dậy vào bếp pha một ly Bloody Mary. Cơ bản thôi. Không có nhánh cần tây. Tôi bật chút nhạc, đơn giản vì âm nhạc đôi khi cũng có ích. Tôi bỏ qua bản giao hưởng số 6 của Tchaikovsky, Billie Holiday với danh sách những điệu hò kéo thuyền trên Spotify, và chọn “The Boys of Summer” của Don Henley, được viết hôm qua (thực ra là năm 1984). Tôi thích ca khúc này ngay từ lần nghe đầu tiên - ở Đức hồi thập niên 80. Không biết tại sao nữa. Nó luôn gợi nhắc tôi về thời ấu thơ của mình, dẫu được viết nhiều thế kỷ sau đó. Nó nhắc tôi nhớ tới những bài ca tiếng Pháp sầu lắng mẹ tôi từng hát, những bài bà chọn sau khi chúng tôi chuyển đến Anh. Những bài u buồn, hoài niệm. Và tôi nghĩ, trong khi cơn đau đầu tác oai tác quái, rằng cơn đau trong đầu John Gifford bao nhiêu lâu về trước hẳn còn tệ hơn gấp bội. Và tôi nhắm mắt lại, cảm thấy những ký ức ban đầu ùa về, với sức mạnh làm loãng không khí.

[1]

Speakeasy: chỉ những địa điểm ẩn giấu, ngụy trang để bán đồ uống có cồn trong thời kỳ Mỹ cấm nhập khẩu, mua bán loại thức uống này (1920-1933).