London, hiện tại
“Phù thủy,” tôi nói, bằng giọng của một giáo viên. Tức là, một giọng nói không thực sự được lắng nghe.
Vậy đấy, đây là cuộc đời mà tôi chọn thay vì những cuộc đời khác. Cuộc đời của một người đàn ông đứng trong một căn phòng với những đứa nhóc mười hai tuổi chẳng thèm đoái hoài đến mình.
“Theo các em, tại sao con người cách đây bốn trăm năm lại muốn tin là có phù thủy?”
Tôi nhìn quanh lớp học. Những khuôn mặt đang cười nhếch mép hoặc bối rối hoặc xem điện thoại hoặc là cả ba. Bây giờ là 9 giờ 35 phút sáng. Chúng tôi mới vào học được năm phút. Mọi chuyện đang chẳng ra đâu vào đâu. Tiết học, ngày hôm nay, công việc này. Tất cả đều chẳng ra đâu vào đâu.
Có lẽ làm giáo viên không phải là một khởi đầu mới cho tôi. Có lẽ nó chỉ là cái mới nhất trong một chuỗi thất vọng mà thôi.
Tôi - mãi cho tới khi xảy ra chuyện ở Sri Lanka - đã dành tám năm ở miền Bắc Iceland, cách làng chài Kópasker mười dặm về phía Bắc. Tôi chọn Iceland vì trước đó tôi đã ở Toronto mấy năm. Toronto là thành phố tuyệt vời và hạnh phúc nhất trên trái đất này, nhưng kể cả thế - có lẽ là chính vì thế - nó khiến tôi cảm thấy bất hạnh, khi tôi chỉ ru rú trong căn hộ, chẳng bao giờ gặp gỡ ai. Có lần tôi đi xem đội Blue Jays thi đấu bóng chày, nhưng việc bị vây quanh bởi quá nhiều người mà tôi biết có lẽ chẳng khi nào mình kết giao đã khiến tôi muốn tới Iceland. Và rồi việc sống đơn độc ở Iceland chỉ làm tôi mong muốn một cuộc sống bình thường.
Nhưng một cuộc sống bình thường không phải là sự bảo đảm cho hạnh phúc. Và, tất nhiên, việc này - việc làm giáo viên - chỉ là một màn vờ vịt . Có lẽ tất cả mọi người đều đang giả vờ chuyện gì đó . Có lẽ mọi giáo viên và học sinh ở cái trường này đều đang giả vờ chuyện gì đó . Có lẽ Shakespeare đã đúng. Có lẽ cả thế gian này là một sân khấu. Có lẽ không có màn kịch, mọi thứ sẽ sụp đổ. Chìa khóa hạnh phúc không nằm ở việc là chính mình, bởi điều đó nào có nghĩa lý gì chứ? Mỗi người đều có nhiều bộ mặt. Không. Chìa khóa hạnh phúc là tìm ra lời nói dối phù hợp với mình nhất mà thôi.
Và, ngay lúc đó, tập trung nhìn những đứa trẻ mười hai tuổi đang nhếch mép cười, tôi nghĩ: đây là lời nói dối sai lầm.
“Tại sao con người lại tin là có phù thủy?” tôi nhắc lại. Daphne đang đi dọc hành lang bên ngoài. Bà mỉm cười với tôi và giơ hai ngón tay cái lên khi rảo bước qua. Tôi mỉm cười đáp lại, làm ra vẻ như giờ dạy thật vui và tôi đang xử lý tốt mọi việc, như một nhà giáo bẩm sinh, như một kẻ từng làm qua công việc này, nhiều lần, chứ không phải như con chó già nhất đàn đang học một chiêu mới.
Tôi nhắc lại câu hỏi.
“Điều gì khiến con người muốn tin vào thuật phù thủy?”
Ban đầu tưởng như một cô bé ở hàng ghế đầu giơ tay xin trả lời, nhưng té ra chỉ là một cái ngáp.
Thế là tôi đành tự trả lời câu hỏi của chính mình. Tôi cố hết sức không nhớ lại những gì mà chủ đề này khiến tôi nhớ đến. Tôi cố khỏa lấp sự run rẩy trong giọng nói của mình.
“Con người tin là có phù thủy bởi vì điều đó khiến mọi thứ trở nên dễ dàng hơn. Người ta không chỉ cần kẻ thù, họ còn cần một lời giải thích. Và thường thì con người thấy tin vào sự tồn tại của phù thủy là rất hữu dụng, trong những thời kỳ bất ổn, khi mà sự mông muội nhan nhản mọi nơi... Theo các em, những người nào tin là có phù thủy?”
“Những người ngu dốt ạ,” ai đó lên tiếng. Đó là một tiếng lí nhí, khó nhận ra là từ em nào.
Tôi mỉm cười. Còn năm mươi lăm phút nữa mới hết giờ.
“Đấy là em nghĩ vậy. Nhưng không. Mà là đủ mọi loại người. Nữ hoàng Elizabeth I đã ban hành luật chống lại phù thủy. Rồi người kế vị bà - Vua James - ông tự xem mình là bậc trí giả, ấy thế mà thậm chí còn viết một cuốn sách về họ. Công nghệ đầu tiên dẫn tới tin giả không phải là Internet, mà là máy in. Những cuốn sách củng cố mê tín dị đoan. Hầu như tất cả mọi người đều tin là có phù thủy. Và rồi những kẻ săn tìm phù thủy chu du khắp đất nước, truy lùng...” Một cơn đau thốn dội lên, dữ dội hơn cơn đau đầu, phát ra từ sâu trong não, khiến tôi ấp úng, đầy hóc hiểm, ở lưng chừng câu.
Cô bé ngáp ngủ ngồi hàng ghế đầu giờ trông có vẻ lo lắng. “Thầy có sao không ạ?”
“Không, thầy chỉ hơi đau đầu thôi. Thầy không sao đâu.”
Rồi đến một học sinh khác. Một cô bé khác, ngồi gần cuối lớp: “Vậy họ làm cách nào phát hiện ra ai là phù thủy ai không ạ? Họ đã làm gì?”
Câu hỏi đó đập loạn trong đầu tôi như một con quạ trong căn phòng tối.
Họ đã làm gì?
Họ đã làm gì?
Họ đã làm gì?