Suffolk, Anh, 1599
Mẹ tôi, như bao bậc phụ mẫu xưa nay, là một con người khá phức tạp và mâu thuẫn. Khuôn phép nhưng đam mê hưởng thụ (đồ ăn, âm nhạc, mỹ học sinh thái). Cực kỳ sùng đạo nhưng lại có thể cảm thấy khuây khỏa khi ca một chanson [1] thế tục chẳng kém gì lúc cầu nguyện. Vừa yêu chuộng thế giới tự nhiên lại nơm nớp thấy rõ mỗi bận rời lâu đài. Mong manh, nhưng đồng thời lại mạnh mẽ và ngoan cường. Tôi không bao giờ biết được bao nhiêu nét dị kỳ của bà phát sinh từ đau thương còn bao nhiêu là do bản tính vốn có. “Mỗi một ngọn cỏ, mỗi một màu sắc trên đời sinh ra là để mang lại niềm vui cho chúng ta,” mẹ tôi từng nói, ít lâu sau khi đặt chân đến Anh. “Monsieur [2] Cauvin đã nói như vậy đấy.”
Tôi không ưa gì Monsieur Cauvin. Hay Calvin, chắc vậy. Bởi ông ta dường như là nguồn cơn mọi rắc rối của chúng tôi. Ừ thì, đã từng là. Nhưng tôi đã gánh lấy trách nhiệm. Những rắc rối của chúng tôi ngày càng trở nên tồi tệ hơn, theo chiều hướng khá nhanh, và tôi biết - khi chúng đến gõ cửa - rằng chúng tôi chẳng còn nơi nào để nương náu. Không một chốn nào trên đời này cho chúng tôi dung thân.
Kẻ săn tìm phù thủy, “kẻ đâm chích” theo như bản chất công việc [3] , tên là William Manning. Lão là một tay mặt chữ điền, thân hình cao lớn rắn chắc, đến từ London. Tóc thưa nhưng vai rộng và tráng kiện, với đôi bàn tay đồ tể chắc nịch. Lão mù dở, hoặc trông có vẻ như vậy, vì mắt trái bị đục thủy tinh thể. Chúng tôi chưa từng thấy lão bén mảng đến làng, dù tôi có nhớ đã bị đánh thức bởi tiếng hai con ngựa phi qua nhà mình về hướng Đông.
Kẻ cưỡi con ngựa còn lại là Thẩm phán Hòa giải. Tôi chỉ biết đến ông ta với cái tên Ngài Noah. Ông ta ăn vận bảnh chọe và tự cho mình là một quý ông. Ông ta cũng cao, nhưng da dẻ xám ngoét. Như thần chết. Tựa thây ma (một từ mà phải độ hai trăm năm nữa tôi mới học được).
Hồi ấy chúng tôi đã trở thành tin tức cấp hạt, tuy vậy chúng tôi không biết chính xác về tầm quan trọng của mình cho đến tận khi tiếng nện cửa dồn dập vang lên.
William Manning chộp lấy cổ tay tôi. Nắm tay lão cứng ngắc. Lão chỉ bàn tay còn lại vào một chấm hồng nhỏ trên da tôi, dè chừng để không chạm vào.
“Dấu vết của quỷ!” Manning la lên, với vẻ đắc thắng tàn ác. “Dấu vết kìa, ngài Noah.”
Ngài Noah nhìn. “Ta thấy rồi. Thứ hung gở nhất.”
Tôi bật cười. Tôi thấy sợ. “Không,” tôi bảo họ. “Đấy là vết bọ chét cắn.”
Tôi vẫn trông như mười ba tuổi. Họ trông chờ được thấy sự ngoan ngoãn phục tùng của một thằng nhóc, chứ không phải thái độ xấc xược của một thanh niên. Manning nhìn tôi trừng trừng. Không có cách miêu tả nào khác, dù là hồi đó hay bây giờ. Nhưng rồi lão chuyển sự chú ý sang mẹ tôi.
“Cởi đồ ra,” lão ra lệnh, giọng nhỏ nhưng lạnh tanh. Tôi ghét lão ta. Ngay lúc ấy. Trước kia tôi chưa từng thực sự biết căm ghét. Chỉ là một cảm giác mông lung, với những kẻ đã giết hại cha tôi. Nhưng đã bao giờ tôi biết bọn chúng mặt ngang mũi dọc thế nào đâu. Sự căm ghét cần có một khuôn mặt.
“Không,” tôi nói.
Mẹ tôi hoang mang. Rồi, khi hiểu ra, bà bảo không và chửi bọn họ bằng tiếng Pháp. Manning là kẻ dốt nát, khoác cái mã một người có học, và không biết mẹ tôi đang nói tiếng gì.
“Đánh dấu mụ ta đi. Mụ ta nói năng như quỷ dữ vậy. Mụ ta đang triệu hồi những linh hồn xấu xa.”
Đúng lúc ấy lão yêu cầu đóng cửa ra vào lại, khi đủ mọi thành phần dân làng - bao gồm cả Bess Small, mặt đầy vẻ ác cảm khoái trá, đứng kế bên Alice Gifford tội nghiệp - lúc này đang ở ngay ngưỡng cửa nhà tôi, hong hóng xem màn thị phi bày ra trước mắt. Ngài Noah đóng cửa lại. Tôi đứng chặn giữa Manning và mẹ tôi. Manning rút dao găm ra chĩa vào cổ họng tôi.
Mẹ tôi cởi bỏ quần áo. Bà khóc. Tôi cũng thấy mắt mình nóng lên. Sợ hãi và tội lỗi. Tất cả là lỗi của tôi. Lỗi do thể trạng quái gở của tôi, do cái thân xác không chịu già đi này.
“Mày mà hó hé thêm một lời nào là mụ mẹ phù thủy của mày sẽ bị giết ngay tại chỗ, mày hay Marbas đều trở tay không kịp đâu.”
Marbas. Linh hồn địa ngục có thể chữa bách bệnh. Tôi sẽ còn nghe thấy cái tên này nhiều lần trong những giờ sắp tới, khi cái ngày ác mộng đó hiển hiện.
Mẹ tôi không còn mảnh vải che thân. Đứng bên bàn và những chiếc bát thiếc đựng xúp. Tôi thấy mắt Manning hau háu nhìn bà, ghét lây sang bà vì khiến chính lão bị cám dỗ. Lão kề mũi dao vào da bà rồi đâm, trước tiên lên vai, rồi đến cánh tay, rồi gần rốn. Những giọt máu nhỏ ứa ra.
“Nhìn màu đen của máu này, ngài Noah.”
Ngài Noah nhìn.
Máu có màu máu. Bởi đó là máu người bình thường. Nhưng ngài Noah nhìn thấy thứ gì khác trong đó, hoặc là ông ta tưởng tượng ra, do bị ngợp trước vẻ uy quyền của Manning. “Phải. Màu đen thẫm.”
Người ta chỉ thấy những gì họ muốn thấy. Tôi đã học được bài học này hàng trăm lần, nhưng hồi đó tôi vẫn còn bỡ ngỡ. Mẹ tôi nhăn nhó mỗi khi mũi dao chạm vào người, nhưng Manning nghĩ bà chỉ đang giả bộ.
“Thấy vẻ xảo trá của mụ ta không? Nhìn cho rõ bản mặt ra vẻ đau đớn kia. Nói không chừng mụ ta đã thực hiện một giao kèo nào đó. Cái chết bất đắc kỳ tử của John Gifford có vẻ là cái giá cho sự trẻ mãi không già của con trai mụ ta. Quả là một giao kèo độc ác.”
“Chúng tôi không can hệ gì đến cái chết của John Gifford cả. Tôi giúp anh ta lợp mái nhà. Chỉ thế thôi. Mẹ tôi còn chẳng biết anh ta. Phần lớn thời gian bà ấy ở riết trong nhà. Làm ơn dừng lại đi!”
Tôi không thể trơ mắt nhìn thêm nữa. Tôi túm lấy tay Manning. Lão nện chuôi dao vào đầu tôi, tay kia chộp cổ họng tôi và liên tục dộng chuôi dao vào cùng một chỗ trong khi mẹ tôi gào lên còn tôi nghĩ sọ mình sắp nứt toác ra đến nơi. Tôi nằm trên sàn nhà. Choáng váng, câm lặng và ước gì cơ thể mình cường tráng như cơ thể của một người mười tám tuổi bình thường.
Và rồi lão ta, Manning, phát hiện ra một vết bọ chét cắn khác, lần này trên người mẹ tôi, gần rốn, như một mặt trăng đỏ nhỏ xíu phía trên một hành tinh.
“Cùng một dấu vết trên người thằng nhóc.”
Mẹ tôi run lẩy bẩy. Bị tước đoạt y phục, bà không thể cất tiếng được nữa.
“Đấy là bọ chét!” tôi nói, giọng đau đớn, khẩn khoản và lạc đi. “Vết bọ chét cắn bình thường.”
Đoạn tôi chống tay xuống lớp sàn đá để đứng lên. Nhưng một cú nện nữa giáng xuống sau sọ tôi.
Và sau đó, tất cả trở nên tối đen.
Đôi khi tôi gặp lại chuyện này trong mơ. Nếu thiếp đi trên sofa, tôi sẽ nhớ về ngày hôm đó. Tôi nhớ những giọt máu trên da mẹ tôi. Tôi nhớ đám người nơi ngưỡng cửa. Và tôi nhớ Manning cùng bàn chân của lão, giậm xuống, làm tôi bừng tỉnh giấc, bất chấp khoảng cách hàng bao nhiêu thế kỷ.
Bạn thấy đấy, mọi thứ đã đảo lộn sau chuyện đó. Tôi không nói là trước dấu mốc ấy mình đã có một tuổi thơ thật đẹp, nhưng giờ đây tôi thường mong muốn quay trở lại thời điểm trước kia . Trước khi tôi quen Rose, trước khi tôi biết mẹ mình sẽ gặp cơ sự gì, trước khi, trước khi, trước khi... Hòng níu lấy con người tôi đã từng là, ngay từ thuở đầu khi còn là một thằng nhóc với cái tên dài ngoẵng, một kẻ có phản ứng với thời gian và già đi như bao người khác. Song không đời nào có cách trở về thời trước. Tất cả những gì ta có thể làm với quá khứ là mang nó theo, cảm thấy sức nặng của nó dần tăng lên, và cầu nguyện nó sẽ không bao giờ nghiền ta nát vụn.
[1]
Bài hát. (tiếng Pháp)
[2]
Ông, ngài (xưng hô, tiếng Pháp).
[3]
Chỉ hành động lấy vật nhọn như kim, đinh ghim v.v. đâm lên người bị cho là phù thủy để tìm kiếm dấu hiệu của phù thủy.