← Quay lại trang sách

Suffolk, Anh, 1599

William Manning nhìn đăm đăm lên bầu trời sầm tối, vẻ mặt cay nghiệt. Ở lão có nét gì đó rất kịch nghệ, như thể đây chỉ là một màn diễn. Bản chất của thời đại này chính là vậy - kỷ nguyên của Marlowe và Jonson và Shakespeare - tất cả đều là kịch nghệ. Kể cả công lý. Kể cả cái chết. Đặc biệt cái chết. Chúng tôi đang ở cách Edwardstone gần mười dặm nhưng cả làng đã tề tựu đông đủ ở đó. Bạn có thể tưởng rằng những cuộc xét xử phù thủy là chuyện như cơm bữa hồi thế kỷ mười sáu. Thực tình thì không hẳn vậy. Đó là một trò tiêu khiển hiếm hoi, và người người lặn lội hàng dặm đường đến để mục sở thị, nhạo báng và cảm thấy an toàn trong một thế giới nơi người ta có thể giải thích, phát hiện và tiêu diệt cái ác.

Manning nói với tôi, nhưng cũng là cho cả đám đông nghe. Lão là một diễn viên. Lão đã có thể là một thành viên của Lord Chamberlain's Men lắm chứ.

“Số phận của mày sẽ do mẹ mày định đoạt. Nếu mẹ mày chìm, mụ ta sẽ chứng minh được sự trong sạch của mình, và mày sẽ được sống. Nếu mụ ta sống, và thoát khỏi hình phạt ghế dìm [1] , thì mày - với tư cách là dòng giống của phù thủy - sẽ bị đưa tới giá treo cổ cùng mẹ mày và bị hành hình ở đó. Mày có hiểu không?”

Tôi đứng bên mẹ, trên bờ sông Lark cỏ mọc um tùm, chân và cổ tay bị xiềng, giống hệt mẹ. Bà - đã mặc lại đồ-co ro run rẩy như một con mèo ướt dù hôm đó trời ấm. Tôi muốn nói chuyện với bà, muốn vỗ về bà, nhưng biết rằng bất cứ sự trao đổi nào giữa chúng tôi cũng sẽ bị xem như một âm mưu hoặc kế hoạch triệu hồi những thế lực nanh ác.

Chỉ khi người ta kéo bà ra sát bờ sông hơn nữa, gần nơi tra tấn hơn nữa, thì lời nói mới bật khỏi miệng tôi.

“Con xin lỗi, mẹ ơi.”

“Đó không phải lỗi của con, Estienne à. Không phải lỗi của con. Mẹ xin lỗi. Là lỗi của mẹ. Lẽ ra chúng ta không bao giờ nên đến đây. Lẽ ra chúng ta không bao giờ nên đến chốn này.”

“Mẹ ơi, con yêu mẹ.”

“Mẹ cũng yêu con, Estienne,” bà nói, bột phát thái độ thách thức, kể cả khi bà đang nước mắt giàn giụa. “Mẹ cũng yêu con. Con phải mạnh mẽ nhé. Con mạnh mẽ mà, như cha con vậy. Mẹ muốn con hứa với mẹ: con phải sống. Bất luận chuyện gì xảy ra. Con phải sống. Con có hiểu mẹ không? Con là người đặc biệt. Chúa tạo ra con theo cách này là có mục đích. Con phải tìm ra mục đích đó. Con có hứa với mẹ là sẽ sống không?”

“Con hứa, mẹ ơi. Con hứa, con hứa, con hứa...”

Tôi nhìn bọn họ trói bà vào chiếc ghế gỗ. Bà khép chặt hai chân lại, không muốn tách hai đầu gối, như một hành động tự vệ vô ích cuối cùng. Hai gã đàn ông bèn mỗi kẻ cầm một chân bà, kéo bà vào đúng vị trí, ấn bà vào sát ghế. Bà giãy giụa và la hét khi đai kim loại thít quanh chiếc ghế.

Tôi không dám nhìn khi họ cẩu bà lên không trung. Nhưng khi bà được đưa lên cao nhất, Manning bảo gã đàn ông đầu tổ quạ đang nắm sợi dây thừng dừng lại.

“Khoan, khoan đã...”

Và chính vào lúc ấy tôi nhìn thấy mẹ trên nền trời xanh ngăn ngắt đó. Đầu bà gục xuống, và bà nhìn xuống tôi, và suốt hàng thế kỷ sau này, tôi vẫn có thể nhìn thấy đôi mắt khiếp đảm ấy.

“Bắt đầu thử tội,” Manning nói, lúc này đã đi tới bên mép bờ sông.

“Không!”

Tôi nhắm mắt lại và nghe tiếng chiếc ghế tiếp xúc với mặt nước. Và rồi tôi mở mắt ra. Tôi nhìn bà biến mất, trở thành một mảng xanh lá và nâu nhòa mờ, và rồi chẳng còn lại gì cả. Bọt khí lục bục nổi lên mặt sông. Suốt lúc ấy, William Manning vẫn giơ bàn tay xòe rộng lên, sai gã đàn ông cầm sợi thừng chùng đến đáng sợ cứ tiếp tục dìm bà xuống.

Tôi nhìn bàn tay to nần nẫn hồng hào ấy, bàn tay của một kẻ tàn bạo, cầu cho những ngón tay khép lại. Tất nhiên, cho dẫu chuyện gì xảy ra, bà cũng sẽ chết. Nhưng dù vậy - dù tính mạng của chính mình đang ngàn cân treo sợi tóc - tôi vẫn muốn bà ngoi lên khỏi mặt nước. Tôi muốn bà cất tiếng trở lại. Tôi không tài nào hình dung ra nổi một thế giới thiếu vắng tiếng bà.

Khi họ kéo chiếc ghế cùng thi thể ướt sũng của bà lên khỏi mặt nước, một câu trả lời đã bị bỏ lại trong dòng sông như một bí mật. Bà đã trút không khí ra khỏi lồng ngực do hoảng loạn hay do cố tình? Có phải bà đã hy sinh để cho tôi được sống? Tôi không biết nữa. Tôi mãi mãi chẳng bao giờ biết được.

Nhưng bà đã chết, vì tôi. Còn tôi thì sống, vì bà. Và suốt bao năm trời, tôi hối hận khôn nguôi vì lời mình trót hứa.

[1]

Một hình phạt dã man, nạn nhân bị trói vào ghế, chiếc ghế được gắn vào một dụng cụ như chiếc bập bênh. Những kẻ tra tấn cầm một đầu dụng cụ (có thể buộc dây thừng) để điều khiển, dìm nạn nhân ở đầu kia xuống nước.