PHẦN HAI Người đàn ông hiện thân cho nước Mỹ
Tôi ở đây.
Tôi đang ở trong bãi đỗ xe. Tôi đã kết thúc ngày dạy thứ hai ở trường Oakfield và giờ đang kì cạch mở khóa chiếc xe đạp được chốt vào hàng rào kim loại kế bên bãi đỗ xe của giáo viên. Tôi đi xe đạp vì không bao giờ tin tưởng ô tô. Tôi đã đi xe đạp cả trăm năm nay và tôi nghĩ nó là một trong những phát minh vĩ đại đích thực của con người.
Đôi khi thay đổi là để tốt hơn, nhưng cũng có lúc thay đổi chẳng mang lại điều gì tốt hơn cả. Những toilet hiện đại với cần xả nước chắc chắn là tốt hơn rồi. Dịch vụ tự thanh toán thì chắc chắn không. Đôi khi có thứ là sự thay đổi vừa tốt hơn lẫn tệ đi, như internet chẳng hạn. Hay đàn organ điện. Hay tỏi băm sẵn. Hay thuyết tương đối.
Và đời người cũng vậy. Chẳng cần phải sợ thay đổi, hay nhất thiết phải chào đón nó, khi ta chẳng có gì để mất. Đời vốn là cuộc bể dâu. Đó là sự bất biến duy nhất mà tôi biết.
Tôi thấy Camille đi đến xe cô. Người phụ nữ tôi đã nhìn thấy trong công viên. Và trên hành lang, hôm qua, mà chúng tôi chẳng nói gì nhiều nhặn. Khi tôi cảm thấy sợ không gian kín và cần phải rời đi.
Nhưng giờ thì chẳng có lối thoát nào cả. Cô đã tới chỗ xe mình. Tra chìa khóa vào ổ trong khi tôi đánh vật với xe tôi. Chúng tôi chạm mắt nhau.
“Chào anh.”
“Ô, chào cô.”
“Anh chàng lịch sử.”
Anh chàng lịch sử.
“Vâng,” tôi nói. “Đang gặp chút rắc rối với cái chìa khóa ấy mà.”
“Anh có thể quá giang nếu muốn.”
“Thôi,” tôi đáp, hơi quá nhanh. “Tôi... à...”
(Bạn sống bao lâu không quan trọng. Những cuộc nói chuyện xã giao vẫn cứ rối rắm y như nhau.)
“Rất vui được gặp lại anh. Tôi là Camille. Camille Guerin. Pháp. Ý tôi là, tôi dạy môn đó. Cũng là quốc tịch của tôi luôn, dù ai lại để quốc tịch định nghĩa mình chứ? Trừ những kẻ ngốc.”
Tôi không biết tại sao, nhưng tôi lại buột miệng, “Tôi sinh ra ở Pháp.” Tiết lộ này phản thùng hồ sơ xin việc của tôi, mà Daphne chỉ cách có vài mét. Mi đang làm gì vậy? Tại sao mi lại muốn cho cô ấy biết chuyện này chứ?
Một giáo viên khác - người này tôi chưa được giới thiệu - đi ra, Camille liền nói với người đó “Mai gặp lại, và người đó đáp lại.
“Vậy,” cô hỏi tôi, “anh nói được tiếng Pháp à?”
“ Oui [1] . Nhưng tiếng Pháp của tôi hơi lạc hậu rồi... un peu vieillo [2] .”
Cô nghiêng đầu, nhíu mày. Tôi biết dáng vẻ này.
Đó là sự nhận ra. “ C’est drôle. J’ai L’impression de vous reconnaître [3] . Tôi đã gặp anh ở đâu rồi nhỉ? Tôi biết là trong công viên rồi, nhưng mà trước đó cơ, giờ tôi cảm thấy chắc chắn đấy.”
“Có lẽ là hiện tượng song trùng chăng. Mặt tôi thuộc kiểu dễ nhầm lẫn với người khác.”
Tôi mỉm cười, vẫn lịch sự, nhưng xa cách. Cuộc đối thoại này thực tình sẽ chỉ mang đến rắc rối. Nó cũng không làm đầu óc tôi cảm thấy dễ chịu hơn chút nào.
“Tôi bị cận thị. Thế nên phải đeo kính. Nhưng tôi đã kiểm tra một lần rồi,” cô nói, giờ thêm vẻ kiên quyết. “Kết quả tôi là một người ‘siêu nhận dạng’. Năng khiếu của tôi đấy. Cách mà thùy thái dương của tôi xử lý tín hiệu. Tôi thuộc top một phần trăm, về mặt nhận dạng hình ảnh. Não dị lắm.”
Tôi muốn cô ngừng nói. Tôi muốn được tàng hình. Tôi muốn là một người bình thường không có gì phải che giấu. Tôi quay đi. “Hay nhỉ.”
“Lần gần nhất anh ở Pháp là khi nào thế?”
“Lâu lắm rồi,” tôi đáp, không tin là cô có thể sống đủ lâu để nhớ ra tôi từ thập niên 1920. Xe đạp của tôi đã được sổ lồng. “Hẹn gặp cô ngày mai.”
“Tôi sẽ làm sáng tỏ chuyện đó,” cô vừa cười nói vừa chui vào chiếc Nissan nhỏ. “Tôi sẽ làm sáng tỏ anh.”
“Ha!” tôi đáp. Rồi, khi cửa xe cô đóng lại, tôi nói, “Rõ khỉ.”
Cô bấm còi khi đi qua tôi, vẫy tay nhanh một cái. Tôi vẫy lại và đạp xe đi, nghĩ bụng muốn lặn mất tăm vào ngày mai cũng chẳng khó gì. Đề đạt với Hendrich và biến mất lần nữa. Nhưng một phần trong tôi - một phần nhỏ mà nguy hiểm - lại muốn biết cô đã gặp tôi ở đâu. Hoặc, có lẽ, một phần nhỏ đơn giản là muốn được làm sáng tỏ.
Lát sau, tôi đang ở nhà thì Hendrich gọi điện.
“Vậy London thế nào?” ông ta hỏi.
Tôi đang ngồi tại chiếc bàn IKEA nhỏ, nhìn đăm đăm vào đồng xu thời Elizabeth tôi đã mang theo mình hàng thế kỷ. Thường tôi chỉ cất nó trong ví, trong một túi ni lông nhỏ có mép dán, nhưng giờ tôi lấy nó ra để lên bàn. Tôi đăm đăm nhìn mặt phù hiệu đã bạc và nhớ Marion từng nắm khư khư nó trong tay ra sao. “Cũng được.”
“Còn công việc của cậu? Cậu... đã quen chưa?”
Có gì đó trong giọng điệu của ông ta khiến tôi thấy chướng tai. Vẻ kẻ cả. Cách ông ta nói câu “quen” theo kiểu hơi thích chí. “Nghe này, Hendrich, thứ lỗi cho tôi, nhưng tôi bị đau dầu. Tôi biết giờ này với ông là bữa nửa buổi, nhưng ở đây thì muộn rồi, mai tôi còn phải dậy sớm chuẩn bị bài vở nữa. Giờ tôi thực sự muốn đi ngả lưng nếu điều đó...”
“Cậu vẫn bị đau đầu à?”
“Thỉnh thoảng.”
“Bình thường thôi. Tất cả chúng ta đều bị thế trong khoảng giữa cuộc đời. Nỗi đau ký ức ấy mà. Cứ cẩn thận là được. Cuộc sống hiện đại chẳng giúp ích gì đâu. Bớt dán mắt vào màn hình lại. Mắt của chúng ta không kham được ánh sáng nhân tạo đâu. Không có mắt nào kham được thứ đó cả. Rặt bước sóng xanh dương. Gây nhiễu nhịp sinh học của chúng ta.”
“Phải. Đúng rồi. Chính xác. Nhịp sinh học của chúng ta. Thôi, tốt hơn là tôi cúp máy đây.”
Gần như chưa đầy một giây sau: “Đây có thể xem như là vô ơn đấy, cậu biết chứ?”
“Đây gì?”
“Thái độ dạo này của cậu.”
Tôi cất đồng xu vào túi và dán mép lại. “Thái độ gì chứ. Chẳng có thái độ nào cả.”
“Gần đây tôi đã nghĩ rất nhiều.”
“Về chuyện gì?”
“Sự khởi đầu.”
“Khởi đầu của cái gì?”
“Của chúng ta. Khi tôi nghe về vị bác sĩ. Khi tôi đánh điện cho Agnes. Khi cô ấy tới nhặt cậu về. Khi tôi gặp cậu lần đầu. 1891. Tchaikovsky. Khu Harlem. Bánh mì xúc xích. Sâm panh. Nhạc ragtime. Tất cả những thứ đó. Tôi đã biến mỗi ngày thành sinh nhật của cậu. Tôi vẫn đang biến mỗi ngày thành sinh nhật của cậu. Hoặc có thể làm thế, nếu cậu không quá ám ảnh với việc sống cuộc đời vô vị nhất mình chào mời. Nếu cậu có thể vượt qua ám ảnh phải tìm bằng được Marion.”
“Con bé là con gái tôi.”
“Chuyện đấy có thể hiểu được. Nhưng nhìn xem cậu có những gì đi. Nhìn xem những cuộc đời tôi đã cho cậu...”
Giờ thì tôi đang ở trong bếp. Tôi để điện thoại bật loa ngoài còn mình thì đi lấy một cốc nước. Tôi uống nước, tu ừng ực từng ngụm lớn, lòng nghĩ đến mẹ tôi, dưới làn nước, trút hơi thở cuối cùng. Rồi, khi Hendrich vẫn thao thao bất tuyệt, tôi ra mở laptop.
“Nói trắng ra thì tôi là bà tiên đỡ đầu của cậu, đúng chứ? Cậu là Lọ Lem, đóng móng ngựa hoặc bất cứ việc gì cậu làm lúc đó, và giờ nhìn cậu xem. Cậu có xe ngựa, giày thủy tinh, bất kỳ thứ gì cậu muốn.”
Tôi đăng nhập Facebook. Tôi đã lập một trang cho riêng mình. Thời buổi này mà không có Facebook thì còn gây nghi ngờ hơn là có, thế nên Hendrich cũng tán thành ý tưởng này (ngay cả ông ta, hay vai bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ về hưu mà ông ta đang đóng, cũng có một trang).
Hiển nhiên, thông tin hồ sơ là bịa đặt. Đằng nào cũng chẳng chọn được năm 1581 làm năm sinh.
“Cậu có đang nghe tôi nói không đấy?”
“Có chứ, Hendrich, tôi đang nghe đây. Tôi đang nghe mà. Ông là bà tiên đỡ đầu của tôi.”
“Chỉ là tôi lo cho cậu thôi. Lo lắm, Tom à. Tôi đã nghĩ mãi từ khi cậu đến đây, là có gì đó trong mắt cậu. Thứ gì đó làm tôi lo lắng. Kiểu như khao khát.”
Tôi bật ra một tiếng cười mệt mỏi. “Khao khát ư?”
Và rồi tôi chú ý tới một thứ.
Tôi có một lời mời kết bạn trên Facebook. Là cô ấy. Camille Guerin. Tôi chấp nhận lời mời. Rồi - trong khi Hendrich vẫn lải nhải - thì tôi dạo qua tường nhà cô.
Cô cập nhật trang cá nhân bằng một sự kết hợp tiếng Pháp, tiếng Anh và biểu tượng cảm xúc. Cô trích dẫn Maya Angelou, Françoise Sagan, Michelle Obama, JFK và Michel Foucault. Cô có một người bạn ở Pháp đang gây quỹ cho bệnh nhân Alzheimer và cô dẫn đường link tới trang quyên góp đó. Cô viết mấy bài thơ ngắn. Tôi đọc một bài tên là “Nhà chọc trời” và một bài khác có tên “Khu rừng”. Tôi thích chúng. Rồi, hầu như không nghĩ ngợi gì, tôi nhấp chuột xem một lượt kho ảnh của cô. Tôi muốn biết thêm về cô và làm cách nào mà cô lại có thể biết tôi. Có thể cô là một hải âu. Có thể tôi đã gặp cô từ xưa . Nhưng không. Lướt nhanh qua kho ảnh của cô, có thể thấy hồi năm 2008, thời điểm cô bắt đầu dùng Facebook, nom cô, ừm, trẻ hơn cả chục tuổi. Hồi ấy trông cô như đang độ hai mươi. Cô còn ở bên một người đàn ông. Erik Vincent. Một gã ưa nhìn đến phát bực. Trong một bức ảnh, anh ta đang ngụp lặn trên sông. Trong bức khác anh ta mặc áo chạy bộ có số. Anh ta được gắn thẻ vào các bức ảnh. Trong hầu hết mọi bức ảnh đại diện cho tới năm 2011, rồi không thấy đâu nữa cho đến tận năm 2014. Tôi tự hỏi chuyện gì đã xảy ra với Erik. Tôi xem lại bài thơ “Khu rừng” và nhận ra nó được viết để tưởng nhớ anh ta. Trang cá nhân của anh ta không còn nữa.
Tôi cảm giác mình không phải bí ẩn duy nhất cần làm sáng tỏ.
“Cậu không thể hạ mỏ neo được, Tom à. Cậu nhớ quy tắc đầu tiên chứ Tom? Cậu có nhớ những gì tôi đã nói với cậu, trong tòa Dakota, cậu có nhớ quy tắc đầu tiên không?”
Trong một bức ảnh từ năm 2015, Camille chỉ u buồn nhìn vào ống kính máy ảnh. Cô ngồi ngoài quán cà phê vỉa hè đâu đó ở Paris, ly vang đỏ trước mặt. Đây là bức ảnh đầu tiên chụp cô đeo kính. Cô mặc áo khoác len màu đỏ tươi, khép chặt áo quanh mình. Một buổi tối lạnh hơn cô tưởng tượng. Môi cô nở nụ cười, nhưng là một nụ cười gượng ép.
“Quy tắc đầu tiên,” tôi uể oải nói, “là không được sa vào lưới tình.”
“Đúng rồi, Tom. Không được. Đó là một việc làm hết sức ngu xuẩn.”
“Tôi không có ý khiếm nhã đâu nhưng mà ông gọi điện làm gì vậy? Ông biết việc đó có ích mà, để nhập vai ấy.”
“Vai phù du?”
“Phải.”
Ông ta thở dài. Khẽ đằng hắng. “Tôi từng biết một kẻ đi trên dây. Một phù du. Tên ông ta là Cedar. Giống tên loài cây - tuyết tùng. Tên lạ. Người cũng kỳ. Từng làm việc cho một khu vui chơi ở đảo Coney. Ông ta rất giỏi đi trên dây. Đố cậu làm sao ta biết một người đi trên dây có cừ khôi hay không?”
“Làm sao?”
“Người ấy vẫn còn sống.”
Ông ta cười trước câu chuyện hài của chính mình rồi mới nói tiếp. “Rồi thì ông ta tiết lộ cho tôi bí quyết kiểm soát sợi dây. Ông ta nói mọi người đã nhầm khi cho rằng bí quyết nằm ở việc thả lỏng và quên đi khoảng rơi bên dưới. Bí quyết hoàn toàn ngược lại. Bí quyết là đừng bao giờ thả lỏng. Bí quyết là đừng bao giờ tin là bạn giỏi. Đừng bao giờ quên khoảng rơi . Cậu có hiểu tôi đang nói gì không? Cậu không thể là phù du, Tom ạ. Cậu không thể thả lỏng được. Khoảng rơi quá lớn.”
Tôi cầm điện thoại đi vào nhà tắm và đi tiểu vào bồn cầu sao cho thật khẽ khàng, tránh chỗ nước. “Khoảng rơi. Rồi. Tôi vẫn không hiểu tại sao ông gọi cho tôi, Hendrich.”
Tôi soi gương và nhận thấy một thứ. Một thứ tuyệt vời và thú vị, ngay trên tai trái. Một sợi tóc bạc! Đây là sợi thứ hai của tôi. Sợi đầu tiên tôi có là vào năm 1979. Biết đâu đến năm 2100, tôi sẽ có nhiều sợi bạc đến mức người khác nhìn ra được. Tôi cảm thấy phấn khích khôn tả khi nhận ra một thay đổi như vậy (hy hữu lắm mới có mà). Tôi để lát nữa mới xả nước và ra khỏi nhà tắm, lòng lâng lâng cảm giác người phàm.
“Khi nào muốn gọi thì tôi gọi. Và cậu nghe máy. Bằng không tôi sẽ lo lắng. Và cậu biết là cậu không muốn làm tôi lo lắng mà, bởi khi ấy tôi sẽ phải làm gì đó. Thế nên là, hãy nhớ vị trí của mình. Hãy nhớ hội đã giúp cậu nhiều đến thế nào. Này, chúng tôi cũng muốn tìm thấy con gái cậu lắm chứ. Nhưng hãy nhớ cả những việc khác nữa. Nhớ là trước năm 1891 cậu từng lạc lối. Cậu không có tự do. Cậu không có lựa chọn. Câu chỉ là một gã hoang mang, suy sụp vì đau khổ, một kẻ không biết mình là ai. Tôi đã cho cậu bản đồ. Tôi đã giúp cậu tìm thấy bản thân.”
Tôi vẫn chưa tìm thấy bản thân đâu, tôi không nói ra lời. Còn khuya tôi mới làm được việc đó.
“Hãy nhớ năm 1891, Tom à. Nhớ cho kỹ đấy.”
Và khi cuộc điện thoại kết thúc, tôi làm theo những gì ông ta bảo. Khi nhấp chuột tắt ảnh của Camille, tôi nhớ về năm 1891, tôi nhớ lại khoảnh khắc mà cuộc đời mình không còn như cũ nữa mà sang trang mới, và tôi cố gắng hiểu nó. Tôi cố gắng tìm hiểu xem liệu mình đã dấn thân vào một cạm bẫy hay đến với tự do, hoặc phải chăng, là cả hai cùng một lúc.
Nhà chọc trời
Tôi
Thích
Cái cách
Khi ta
Nghiêng nghiêng
Những bài thơ
Sang bên
Chúng
Trông tựa
Những thành phố
Mô hình
Nhìn từ
Xa
Rất xa.
Những tòa nhà chọc trời
Làm
Bằng
Ngôn từ.
Khu rừng
Em muốn anh
Chậm lại
Em những muốn tất thảy
Đều chậm lại;
Em muốn tạo ra một khu rừng
Từ một khoảnh khắc
Và sống trong khu rừng ấy
Mãi mãi
Trước khi anh đi.
[1]
Vâng. (tiếng Pháp)
[2]
Hơi lạc hậu, hơi cũ. (tiếng Pháp)
[3]
Lạ nhỉ. Tôi có cảm giác anh quen quen. (tiếng Pháp)