← Quay lại trang sách

Vịnh Byron, Australia, hiện tại

Ta có thể nghe tiếng sóng vỗ khá rõ trên đường Broken Head. Nơi chúng đập vào vách đá. Khá dễ để che đậy tiếng xăng tạt vào gỗ. Tôi ngửi thấy mùi trước cả khi thấy ông ta đang làm gì.

“Hendrich,” tôi cất tiếng, “dừng lại!”

Trong bóng tối, trông ông ta gần như già đúng tuổi. Lưng còng, gầy đét và tàn tạ, tựa một tác phẩm điêu khắc của Giacometti trong chiếc quần jean và áo sơ mi Hawaii. Một tay ông ta thõng xuống, co quắp, lóng ngóng xoay xở với trọng lượng của can xăng. Nhưng động tác của ông ta lại như được tiếp một thứ sức lực gấp gáp.

Ông ta dừng lại trong giây lát và nhìn tôi với đôi mắt vô hồn. Ông ta không cười. Tôi để ý điều này vì hiếm khi thấy nụ cười vắng bóng trên mặt Hendrich.

“Cậu nói với tôi cậu không thể xuống tay đốt nhà hắn ở Tahiti. Cậu chưa bao giờ là một kẻ kết liễu thực thụ cả, phải không Tom? Ừm, lịch sử có cách để sửa chữa sai lầm đấy.”

“Đùng làm thế. Omai không phải mối nguy hiểm.”

“Khi cậu già đi, cậu không chỉ có được năng lực cảm nhận nhất định với con người, Tom à, cậu còn có cái nhìn sâu sắc về chính thời gian nữa. Có thể cậu chưa đến giai đoạn đó nhưng có những khoảnh khắc mà sự hiểu biết thấu suốt đến mức ta nhìn thời gian theo cả hai cách. Tiến và lùi. Khi người ta nói ‘để hiểu được tương lai, ta phải tường tận quá khứ, tôi nghĩ họ không biết sự thật đích thực mà nó ẩn chứa, Tom à. Cậu thực sự có thể nhìn thấy tương lai. Không phải toàn bộ. Chỉ là những mảnh ghép. Ánh sáng chớp nháy. Giống như ký ức ngược. Dường như ngay khi quên đi một phần quá khứ là ta sẽ quên một phần tương lai. Nhưng tôi đã thấy đủ rồi. Tôi biết cậu không còn đáng tin cậy để hoàn thành nhiệm vụ nữa. Tôi đã cảm thấy điều đó được một thời gian rồi. Tôi biết chuyện này sẽ dẫn đến đâu.”

“Chẳng quan trọng. Chẳng có gì quan trọng cả.”

“Tất nhiên là có quan trọng chứ. Chúng ta cần tự bảo vệ mình.”

“Chết tiệt, Hendrich. Toàn chuyện tào lao không. Ý ông là bảo vệ chính bản thân ông thì có. Từ trước đến nay ý ông chỉ có vậy thôi. Hội chỉ là hội của một người. Thôi nào, Hendrich. Đây không còn là thập niên 1800 nữa. Ông biết về Marion. Ông đã nói dối tôi.”

Ông ta lắc đầu. “Tôi đã làm một việc vốn rất khó đối với cậu. Tôi đã giữ lời. Tôi nói với cậu là tôi sẽ tìm thấy con bé và tôi tìm thấy nó rồi còn gì. Một việc mà cậu không thể làm. Tôi giữ cho mọi người được an toàn.”

“Bằng cách đốt nhà họ à?”

“Cậu gí sát mũi vào toan vẽ rồi, Tom ạ. Lùi lại để thấy bức tranh toàn cục đi. Chúng ta đang bị đe dọa hơn bao giờ hết. Berlin, công nghệ sinh học, mọi thứ. Mọi chuyện không trở nên tốt đẹp hơn đâu. Nhìn thế giới đi Tom. Tất cả đều thối nát. Phù du không sống đủ lâu để học được các bài học. Họ sinh ra, họ lớn lên, họ mắc phải những sai lầm giống nhau, hết lần này đến lần khác. Tất cả là một vòng tròn lớn, quay xung quanh, mỗi lần lại phá hủy nhiều hơn. Hãy nhìn nước Mỹ đi. Hãy nhìn châu Âu đi. Nhìn Internet. Nền văn minh chưa từng tồn tại lâu trước Đế chế La Mã lại một lần nữa sa sút. Thói mê tín dị đoan trở lại. Những lời dối trá trở lại. Những cuộc săn phù thủy trở lại. Chúng ta đang lún trở lại Thời kỳ Tăm tối, Tom ạ. Chúng ta chưa thực sự thoát khỏi nó đâu. Chúng ta cần nằm trong vòng bí mật.”

“Nhưng tất cả những gì ông làm là thay thế sự mê tín bằng sự mê tín hơn. Ông nói dối. Ông đã tìm thấy con gái tôi mà lại sai con bé đến giết tôi.”

“Tôi không phải người duy nhất nói dối, Tom ạ, phải vậy không nhỉ?”

Ông ta lấy chiếc bật lửa crôm từ trong túi ra. Vẫn là chiếc bật lửa đã dùng vào lần đầu tiên tôi gặp ông ta, ở tòa Dakota. “Bỏ thuốc nhiều năm rồi. Ở LA họ xử ta chẳng vì lý do gì. Nhưng tôi vẫn giữ kỷ vật này. Cậu biết mà, giống cậu với đồng xu ngu ngốc đó. Còn xăng, ừ thì, xăng thì tôi phải mua.”

Ông ta bật lửa. Đột nhiên, tôi hiểu ra chuyện này là thật. Thực sự không có gì ngạc nhiên khi Hendrich sẵn sàng giết Omai, hoặc tôi, hay khi ông ta giữ bí mật về tung tích của Marion. Từ khi gia nhập hội, tôi đã biết ông ta có thể làm những gì. Ngạc nhiên là ở chỗ ông ta sẵn sàng phơi bày bản thân như thế này, gây nguy hiểm cho chính mình, gần sức nóng đến thế.

“Omai!” tôi hét lên. “Omai! Omai! Ra khỏi nhà đi!”

Rồi chuyện xảy ra.

Đỉnh điểm của cao trào. Một dòng thác tuôn trào hết thảy. Tất cả các con đường của cuộc đời tôi giao nhau ở một điểm.

Khi tôi bắt đầu chạy về phía Hendrich, một giọng nói vang lên, xuyên thủng màn đêm: “Dừng lại!”

Tất nhiên, đó là Marion.

Và Hendrich khựng lại, trong giây lát, dường như đột nhiên trở nên mong manh yếu đuối, như cậu bé lạc trong rừng. Ông ta hết liếc Marion rồi lại nhìn tôi. Cùng lúc, Omai bước chân trần ra khỏi nhà, bế theo người con gái đã già của anh.

“Nhìn này. Chẳng phải là rất ngọt ngào sao? Cha và con gái trùng phùng. Đó là điểm yếu của cậu, cậu thấy đấy. Đó là điều khiến cậu khác tôi. Khao khát được giống như họ. Những phù du. Tôi chưa bao giờ có khao khát đó. Tôi đã biết, trước khi có được tài sản đầu tiên, nhiều năm trước khi bán được bông tulip đầu tiên, rằng cách duy nhất để được tự do là không có ai bên mình cả.”

Một phát súng vang lên. Âm thanh rung chuyển từ trên trời dội xuống. Khuôn mặt Marion cứng đanh - phải, cứng như quả óc chó - nhưng đôi mắt con bé ầng ậc nước còn tay thì run rẩy.

Con bé đã nhắm trúng đích. Những dòng máu đen ngòm chảy từ vai xuống cánh tay ông ta. Nhưng ông ta lại nâng can xăng lên, nghiêng miệng can, đổ thứ chất lỏng lên khắp người mình.

“Cuối cùng, hóa ra tôi lại là Icarus.”

Ông ta buông rơi cái can trong lúc đưa ngọn lửa lại gần ngực mình. Tôi nghĩ, hoặc tưởng tượng, đã thấy một nụ cười thấp thoáng, một tín hiệu yếu ớt của sự mãn nguyện chấp nhận, trong khoảnh khắc trước khi ông ta bùng cháy dữ dội. Cơ thể rực lửa của ông ta loạng choạng đi xa khỏi ngôi nhà. Ông ta tiếp tục đi qua bãi cỏ về phía biển. Vách đá.

Ông ta đang tiến đến rìa vách đá, chân sục qua đám cỏ dại mọc dày hơn nơi gần rìa. Cỏ bốc khói, cháy sém, và sáng lên ở phần ngọn, như cả trăm con đom đóm nhỏ. Ông ta tiếp tục bước; không một khoảnh khắc ngập ngừng hay suy nghĩ, nhưng cũng chẳng có tiếng hét đau đớn nào. Chỉ có đà đi đáng kinh ngạc. Một quyết tâm, một hành động kiểm soát cuối cùng.

“Hendrich?” tôi gọi. Tôi không biết tại sao tên ông ta lại bật ra thành câu hỏi. Có lẽ bởi, ngay cả trong những giây phút cuối đời, ông ta vẫn là một bộ sưu tập bí ẩn. Tôi đã sống lâu nhưng lại chưa bao giờ đủ lâu để hoàn toàn không cảm thấy bất ngờ.

“Ôi trời,” Omai lắp bắp liên hồi. “Ôi trời ơi, ôi trời ơi...”

Và bản năng người tốt của anh thúc đẩy anh đến chỗ ông ta. Anh bèn đặt con gái mình xuống bãi cỏ.

“Không!” Marion nói. Vẫn lăm lăm khẩu súng. Giờ tôi cảm thấy Hendrich không chỉ là người muốn con bé giết tôi, mà còn là kẻ đã nhổ nước bọt vào mặt mẹ nó, kẻ mà con bé muốn được nhìn thấy ruột lòi ra như thế nào. Ông ta là William Manning chưa bị đền tội. Ông ta là mọi con người đã làm tổn thương nó, và tôi cảm thấy có rất nhiều kẻ như thế. “Mặc kệ ông ta. Đồ chết bầm. Lùi lại. Ở yên đó. Mặc kệ ông ta.”

Vậy là chúng tôi mặc kệ ông ta. Xung quanh im ắng như tờ. Không có xe nào chạy qua, không ai nhìn thấy gì. Như mọi khi, chỉ có duy nhất mặt trăng ngỡ ngàng sửng sốt, đồng minh của chúng tôi, là chứng kiến được cảnh này. Ngọn đuốc sống Hendrich thẳng đứng tiếp tục bước và rồi không còn bước nữa. Ông ta ra đi rồi. Mặt đất nãy còn rực sáng và nhảy nhót trong ánh lửa giờ chìm trong bóng tối đột ngột. Ông ta đã ngã xuống. Khoảng cách thời gian giữa lúc ông ta bước đi và khi không còn ở đó nữa diễn ra chóng vánh đến mức chẳng thể nhận ra.

Có một thế giới trong đó ông ta sống và một thế giới trong đó ông ta đã chết. Và sự di chuyển giữa hai thế giới đã diễn ra mà không có cú nẩy bật lại nào, chỉ có tiếng sóng biển rì rào vỗ vào những tảng đá xa xa.

✽ ✽ ✽

Và, cũng như chỉ cần một khoảnh khắc là đủ để chết, ta cũng chỉ cần một khoảnh khắc là đủ để sống. Ta chỉ cần nhắm mắt lại và để mọi nỗi sợ hãi vô bổ biến mất. Và sau đó, trong trạng thái mới này, không còn sợ hãi, ta tự hỏi mình: ta là ai? Liệu ta có thể sống mà không nghi ngờ mình sẽ làm gì đây? Liệu ta có thể cư xử tử tế mà không sợ bị bạc đãi? Liệu ta có thể yêu mà không sợ bị tổn thương? Liệu ta có thể nếm vị ngọt của ngày hôm nay mà không nghĩ đến việc mình sẽ để mất hương vị đó vào ngày mai? Liệu ta có thể không sợ thời gian trôi qua và không sợ nó sẽ đánh cắp người nào? Phải. Ta sẽ làm gì? Ta sẽ quan tâm đến ai? Ta sẽ chiến đấu trong trận chiến nào? Ta sẽ bước xuống những con đường nào? Ta cho phép mình tận hưởng những niềm vui nào? Ta sẽ làm sáng tỏ những bí ẩn bên trong nào? Tóm lại, ta sẽ sống như thế nào?

Vậy là, tôi chỉ mất 437 năm, nhưng cuối cùng tôi đã nhận ra cách tìm kiếm câu trả lời cho tất cả chuyện này. Không hẳn tôi biết câu trả lời là gì, nhưng tôi biết quá trình đó ra sao. Một quá trình không phải để biết câu trả lời, mà là thoải mái với chuyện đó. Tôi biết nỗi sợ đã ngăn cản tôi. Và giờ đã đến lúc phải sống. Tôi đã ở vạch xuất phát và vạch đích, và như vậy, ở đó, trong đêm Australia ấy, khi chúng tôi nói lời từ biệt Omai và ra sân bay, tôi đã không còn cảm thấy nỗi sợ mà lẽ ra tôi nên cảm thấy nữa. Không sợ cho tôi, cũng không sợ cho Marion, đứa con gái khó hiểu của tôi. Chúng tôi là những kẻ sống sót, và chính vì vậy, chúng tôi sẽ sống sót. Những điều khả tri đã qua và những điều bất khả tri đang chờ đợi - câu chuyện kết thúc và câu chuyện lại bắt đầu, cứ thế cứ thế, khi chúng tôi dao động không ngừng trong hiện tại. Chẳng còn gì để thêm vào, ấy vậy mà vẫn luôn có thêm một chút nữa. Cuộc sống cứ thế tràn trề.