London, hiện tại
Marion.
Con gái tôi. Con gái Rose.
Nó vẫn là cô bé con ngày nào.
Người ta hay nói vậy phải không? Về những đứa trẻ đã lớn. Ừm, thật ra với Marion thì không nói thế được. Nó không còn là cô bé con ngày nào nữa.
Phải, vẫn là tính cách mãnh liệt. Sự thông minh nhạy cảm. Mọt sách. Khao khát - từng chỉ đơn thuần là mộng tưởng của một đứa trẻ - thực hiện một cuộc báo thù đẫm máu với những kẻ đã làm điều sai trái với nó.
Nhưng giờ đã có hàng ngàn cái mới.
Rốt cuộc, chúng ta không chỉ là con người như đã được sinh ra. Chúng ta là con người mà ta đã trở thành. Chúng ta là những gì mà dòng đời đưa đẩy. Và con bé, sinh ra bốn trăm năm trước, đã có rất nhiều điều đó, đã có rất nhiều trải nghiệm sống.
Chẳng hạn như, con bé sợ Abraham. Nó có “vấn đề với chó”. Tôi không dám hỏi đã có chuyện gì xảy ra.
Abraham thích con bé ngay lập tức, từ khoảnh khắc chúng tôi đón nó ở chỗ người trông chó về, nhưng Marion lại ngồi cách xa, phấp phỏng nhìn về phía nó.
Con bé rất cởi mở về những gì nó đã trải qua.
Nó kể tôi nghe về những nơi nó đã sống, ngoài London, Heidelberg và LA. Rouen, chuyến đi nước ngoài đầu tiên của nó. Rồi Bordeaux. Nó biết tiếng, và cả hai đều có mối liên kết mạnh mẽ với Montaigne, vậy nên điều đó đã dẫn lối con bé. Nhưng gần đây hơn còn có những nơi khác: Amsterdam, Vancouver, Scotland. Có vẻ như con bé đã sống ở Scotland khoảng một trăm năm, từ thập niên 1840 trở đi. Nó bay nhảy khắp nơi. Vùng cao nguyên Scotland. East Neuk ở Fife. Shetland. Edinburgh. Con bé từng làm thợ dệt. Nó có một khung cửi. “Một khung cửi du lịch,” nó nói và cất tiếng cười hiếm hoi.
Con bé đang dùng thuốc Citalopram để điều trị trầm cảm. “Thuốc khiến con đờ đẫn, nhưng con cần nó.” Con bé nói nó luôn có những giấc mơ quái lạ và thường lên cơn hoảng loạn. Đôi khi nó hoảng loạn vì việc bị hoảng loạn. Những vòng luẩn quẩn. Lúc trên máy bay nó cũng lên cơn hoảng loạn một lần, trên đường từ Australia về, nhưng tôi hầu như còn không nhận ra, chỉ thấy nó trầm lặng hẳn đi.
Chúng tôi thuận lợi rời Australia. Trước đó con bé không bay cùng Hendrich, và thi thể của ông ta vẫn chưa được phát hiện, thế nên chúng tôi không bị vặn vẹo gì cả. Tất nhiên, ông ta đã thay đổi danh tính để đến Australia, vì vậy theo một nghĩa nào đó, ông ta không hề tồn tại. Ông ta đã ngụy trang cuộc đời của mình khéo đến mức cái chết của ông ta, giống như mọi chuyện khác liên quan, lại biến thành một bí mật nữa.
Tôi đã chào tạm biệt Omai. Tôi nói với anh rằng đến một lúc nào đó thì di chuyển cũng là ý hay và anh đáp sẽ suy nghĩ xem sao, và chấm hết. Anh sẽ không đi đâu cả. Anh sẽ ở lại và, ừm, chỉ có tương lai mới biết điều đó có nghĩa gì.
Tôi viết một email. Tôi soạn thư và đã mấy lần suýt ấn vào nút “gửi”. Email được gửi cho Kristen Curial, người đứng đầu Stop Time, công ty công nghệ sinh học tiên phong được chính phủ tài trợ một phần hiện đang nghiên cứu tìm hiểu cách thức ngăn chặn tổn thương tế bào do bệnh tật và lão hóa. Một trong những thứ mà Hendrich hoang tưởng.
Kristen thân mến,
Tôi 439 tuổi. Và tôi có thể chứng minh điều đó. Tôi tin rằng mình có thể giúp ích cho công việc nghiên cứu của cô.
Tom
Rồi tôi đính kèm bức ảnh ở quán Ciro và ảnh selfie của tôi hiện tại, có cả vết sẹo ở cánh tay cho trọn vẹn. Tôi nhìn chằm chằm vào bức email mà thấy nó mới nực cười làm sao, bèn lưu vào mục thư nháp. Có lẽ để sau vậy.
✽ ✽ ✽
Marion không nói nhiều lắm. Nhưng một khi đã nói thì nó chửi thề còn nhiều hơn. Việc chửi thề mang lại cho con bé niềm vui thích mà tôi ngờ rằng được thừa hưởng từ dì Grace của nó. Nó đặc biệt thích từ “chết bầm” (không phải từ này phổ biến ở thời dì nó hay gì). Cái gì cũng chết bầm. Chẳng hạn như, ti vi chết bầm. (”Cái đồ chết bầm này chả bao giờ có gì hay ho cả.”) Giày của con bé đúng là chết bầm. Tổng thống Mỹ chết bầm. Dệt sợi trên khung cửi chết bầm. Lịch sử triết học phương Tây của Bertrand Russell là thứ chết bầm.
Con bé cũng kể với tôi rằng nó từng dùng ma túy nặng đô một “thời gian ngắn” từ năm 1963 đến 1999.
“Ồ,” tôi thốt lên, cảm giác như mình đã không còn đủ sự tháo vát cần có của một người cha. “Thì... ừ...”
Con bé sẽ ở với tôi ít hôm. Lúc này nó đang ngồi trên ghế, cách xa Abraham, hút thuốc lá điện tử và ngâm nga một giai điệu xưa. Rất xưa. “Flow My Tears” của John Dowland. Giai điệu tôi từng chơi trên đàn luýt khi con bé còn nhỏ, trước cả khi nó học thổi sáo. Con bé không nhắc gì đến chuyện đó, và tôi cũng vậy. Giọng nó run run. Nhè nhẹ. Bên dưới lớp vỏ vẫn là một cái hạt mềm.
“Bố có nhớ mẹ không?” con bé hỏi tôi.
“Ngày nào bố cũng nhớ mẹ con. Kể cả sau ngần ấy năm. Buồn cười nhỉ?”
Nó cười buồn, đoạn rít thuốc lá điện tử. “Bố có ai khác chưa?”
“Chưa... Nhìn chung là thế.”
“Nhìn chung á?”
“Ừm, không có. Suốt hàng thế kỷ. Nhưng rồi ở trường xuất hiện một người. Camille. Bố thích cô ấy. Nhưng bố có cảm giác mình đã làm rối tung mọi chuyện.”
“Tình yêu là thứ chết bầm.”
Tôi thở dài. “Thì rõ.”
“Bố cứ làm tới đi. Nói với cô ấy rằng bố đã làm rối tung mọi chuyện. Nói cho cô ấy biết tại sao bố lại làm rối tung lên. Thật chân thành. Sự chân thành sẽ được đền đáp xứng đáng. Ừm, sự chân thành khiến ta bị nhốt trong phòng bệnh tâm thần. Nhưng đôi khi cũng được đền đáp xứng đáng.”
“Sự chân thành chết bầm,” tôi nói, và nó bật cười.
Con bé im lặng một lúc. Chừng như nhớ ra gì đó. “Tôi không nói lên nhiều sự thật như tôi mong muốn, nhưng đã nói hết những gì tôi dám, và sẽ dám thêm chút nữa khi tôi trưởng thành hơn.’’
“Có phải là...?”
“Chính là Montaigne.”
“Chà. Con vẫn thích ông ấy à?”
“Một vài thứ không còn phù hợp với ngày nay nữa, nhưng con vẫn thích. Ông ấy là người thông thái.”
“Thế còn con? Con có ai không?”
“Đã từng. Có ạ. Vài người. Nhưng với con, một mình vẫn ổn. Khi ở một mình con hạnh phúc hơn. Chuyện luôn trở nên quá phức tạp. Bố biết đấy, chuyện tuổi tác ấy mà. Nói chung con thấy đàn ông khá là đáng thất vọng. Montaigne nói rằng mục đích của cuộc sống là sống cho bản thân mình. Con lấy đó làm tôn chỉ. Đọc sách, vẽ tranh, chơi piano. Bắn bỏ mấy lão già chín trăm tuổi.”
“Con chơi piano à?”
“Con thấy nó có nhiều thứ hay ho hơn sáo thiếc.”
“Bố cũng vậy.” Tôi đang tận hưởng khoảnh khắc này. Đây là cuộc nói chuyện đúng nghĩa thực sự đầu tiên kể từ sau vụ Australia. “Con xỏ khuyên môi từ bao giờ thế?”
“Khoảng ba mươi năm trước ạ. Trước khi ai ai cũng xỏ.”
“Có bao giờ đau không?”
“Không ạ. Bố đang phán xét con đấy à?”
“Bố là bố của con. Bố ở đây để làm thế mà.”
“Con còn xăm mình nữa cơ.”
“Bố thấy rồi.”
“Con có một hình trên vai. Bố muốn xem không?” Con bé kéo trễ áo len xuống và chỉ cho tôi một cái cây. Bên dưới là dòng chữ: “Under the Greenwood Tree”. “Con xăm nó để nhớ đến bố. Bố đã dạy con bài đó, bố nhớ không?”
Tôi mỉm cười. “Bố nhớ.”
Con bé vẫn hơi mệt vì lệch múi giờ. Tôi cũng vậy. Tôi muốn con bé ở lại nhưng nó nói London khiến nó lên cơn hoảng loạn và nó không muốn trở lại bệnh viện. Nó nói rằng có một ngôi nhà ở Fetlar, một hòn đảo thuộc quần đảo Shetland nơi nó đã sống hồi thập niên 1920, ngôi nhà vẫn còn đó và bị bỏ hoang. Con bé nói nó muốn quay trở lại đó. Nó bảo có ít tiền mặt đây rồi. Và rằng đến cuối tuần sau - sau tuần tôi trở lại trường - thì nó sẽ đi. Tôi thấy buồn khi nghe vậy, nhưng tôi hiểu và hứa sẽ đến thăm nó ngay khi có thể.
“Thời gian ở đó không trôi,” con bé nói. “Trên các hòn đảo. Nó từng khiến con cảm thấy mình bình thường. Bao quanh là thiên nhiên bất biến. Thành phố thì mệt hơn. Ở thành phố nhiều chuyện lắm.”
Tay con bé hơi run lên. Tôi tự hỏi nó đã trải qua những chuyện khủng khiếp nào. Những chuyện nó giấu không kể. Tôi tự hỏi về tương lai, về những gì sẽ xảy ra với nó, và với tôi, khi giờ đây, rất có khả năng bí mật về các hải âu sẽ bị tiết lộ. Khi giờ đây, có thể chúng tôi, hoặc Omai, chính là người tiết lộ điều đó.
Nhưng vấn đề là: ta nào biết trước được tương lai. Ta xem tin tức và thấy nó thật đáng sợ. Nhưng ta không bao giờ có thể chắc chắn. Tương lai là vậy đấy. Ta không biết được. Đến một lúc nào đó ta phải chấp nhận rằng ta không biết. Ta phải ngừng lật giở và chỉ tập trung vào trang sách mình đang đọc.
Abraham trượt khỏi sofa và biến vào bếp. Marion đến ngồi bên tôi. Tôi muốn vòng tay ôm nó, như một người cha ôm con gái. Tôi nghĩ nó không muốn tôi làm vậy, nhưng nó lại ngả đầu lên vai tôi và không nói gì. Tôi nhớ con bé cũng đã ngả đầu lên vai tôi như vậy, hồi nó mười tuổi, trên chuyến xe ngựa đêm đó. Khi ấy, có cảm giác như đó là dấu chấm hết cho tất cả mọi chuyện. Giờ đây, nó mang lại cảm giác như khởi đầu mới.
Thời gian đôi khi có thể khiến ta ngạc nhiên.
Tôi đạp xe đến trường.
Tôi thấy Anton một mình đi vào khu nhà chính. Nó đeo tai nghe và đang đọc sách. Tôi không nhìn được tên nhưng đích thị là một cuốn sách. Hễ thấy ai đang đọc sách, nhất là người tôi không ngờ tới, tôi lại cảm thấy nền văn minh trở nên an toàn hơn một chút. Thằng bé ngước lên. Nhìn thấy tôi. Giơ tay lên.
Tôi thích công việc này. Giờ tôi không thể nghĩ ra một mục đích sống nào cao đẹp hơn việc làm giáo viên. Sự nghiệp giảng dạy khiến ta cảm thấy mình là người bảo vệ chính bản thân thời gian, bảo vệ hạnh phúc tương lai của thế giới thông qua những tâm hồn vẫn chưa định hình. Không phải là chơi đàn luýt cho Shakespeare, hay chơi piano ở quán Ciro, nhưng việc này cũng tốt đẹp không kém. Và sự tốt lành có hòa âm riêng của nó.
Chắc chắn là, tôi không biết mình sẽ sống với một danh tính trong bao lâu, một khi tôi công khai về con người mình. Tôi có thể làm công việc này trong một tuần hoặc một tháng hoặc một thập kỷ. Tôi không biết. Nhưng chẳng quan trọng. Tất thảy mọi sự trên đời đều không chắc chắn. Đó là cách ta biết mình đang tồn tại trên đời, sự không chắc chắn. Cố nhiên, đây là lý do tại sao đôi khi ta muốn quay trở lại quá khứ, bởi ta biết nó, hoặc ta nghĩ ràng mình biết. Đó là một bài hát mà ta từng nghe.
Và thật tốt khi nghĩ về quá khứ.
Những ai không biết ghi nhớ quá khứ, như triết gia George Santayana đã nhận định hồi năm 1905, buộc phải lặp lại quá khứ. Và ta chỉ cần bật chương trình thời sự là có thể thấy những sự lặp lại đáng sợ, những bài học khủng khiếp chưa được tiếp thu, thế kỷ hai mốt dần trở thành một phiên bản lặp lại thô sơ của thế kỷ hai mươi.
Nhưng, dẫu có thể nhìn vào quá khứ, ta không thể ghé thăm nó. Không hẳn. Tôi không thể ngồi bên một cái cây trong rừng mà nghe mẹ hát. Tôi không thể men theo đường Fairfield để lại trông thấy Rose và em gái nàng bán trái cây trong giỏ. Tôi không thể băng qua cầu London cũ để đến Southwark thời Elizabeth. Tôi không thể quay lại và nói nhiều lời an ủi hơn với Rose trong ngôi nhà tối tăm ở phố Chapel. Tôi không bao giờ có thể nhìn thấy Marion là một cô bé nữa. Tôi không thể quay lại thời điểm người ta chưa biết đến bản đồ thế giới. Tôi không thể đi trên những con phố phủ tuyết, dọc hai bên là những ngọn đèn đường tuyệt đẹp thời Victoria và chọn cách không đến chỗ bác sĩ Hutchinson. Tôi không thể quay lại năm 1891 và bảo mình đừng theo Agnes lên tàu Etruria.
Con chim vàng đậu trên bệ cửa sổ một lúc rồi bay đi mất. Đó là bản chất. Có những việc tôi đã trải qua mà không bao giờ có thể trải nghiệm lần đầu tiên nữa: tình yêu, nụ hôn, Tchaikovsky, hoàng hôn ở Tahiti, nhạc jazz, bánh kẹp xúc xích, một ly Bloody Mary. Đó là bản chất của sự vật. Lịch sử đã là - vốn là - con đường một chiều. Ta phải tiếp tục tiến về phía trước. Nhưng không phải lúc nào ta cũng cần nhìn thẳng. Đôi khi ta có thể nhìn xung quanh và trải nghiệm hạnh phúc ngay tại nơi ta đang ở.
Tôi không còn đau đầu nữa. Sau khi tôi trở về từ Australia, những cơn đau đầu đã biến mất. Tuy nhiên, tôi vẫn thấy lo lo.
Tôi có thể thấy Camille đang chăm chú nhìn tôi qua cửa sổ phòng giáo vụ. Cô đang cười rồi sau đó nhận ra tôi và ánh mắt bỗng trở nên giận dữ hoặc sợ hãi; khó mà nói chắc được. Tôi đứng đó chờ đợi. Tôi sẽ nói chuyện với cô. Tôi sẽ giải thích mọi chuyện. Tôi sẽ cho cô biết bữa đó tôi nói chuyện điện thoại với ai. Tôi sẽ kể cho cô về Hendrich. Tôi sẽ kể cho cô về Marion. Có lẽ một hôm nào đó chúng tôi có thể ngồi trên một băng ghế khác trong công viên. Tôi không biết nữa. Tôi không thể biết được.
Nhưng từ giờ trở đi, tôi sẽ tồn tại một cách quang minh chính đại. Tôi sẽ không để những bí mật làm tổn thương người khác thêm nữa.
Phải.
Đã đến lúc rồi.
Đã đến lúc tôi phải sống.
Nghĩ vậy, tôi bèn hít hà bầu không khí phía Đông London, cảm giác trong lành hơn thường lệ, rồi bước đi, giữa đám thiếu niên, tiến vào tòa nhà trường học được xây dựng hồi thập niên 1960 khá tẻ nhạt, trong lòng dấy lên một cảm giác xa lạ bị lãng quên từ lâu.
Tôi cảm thấy mình đang ở điểm khởi đầu nào đó.
Tôi cảm thấy sẵn sàng quan tâm và bị tổn thương và chấp nhận rủi ro để được sống.
Và chưa đầy hai phút sau, tôi đã gặp cô. Camille.
“Chào anh,” cô nói. Đậm chất công việc, xã giao.
Từ ánh mắt cô, tôi có thể thấy cô muốn tôi nói gì đó. Và tôi sẽ nói đây. Trong khoảnh khắc sau đây, tôi sẽ cố gắng làm một điều vốn luôn rất khó khăn.
Tôi sẽ cố gắng giải thích. Và một cảm giác kỳ lạ nhen lên khi tôi ở ngay trước mặt cô. Đó là một cảm giác thấu hiểu, như thể bên trong khoảnh khắc này, tôi có thể thấy mọi khoảnh khắc khác. Không chỉ những khoảnh khắc đã qua mà cả những khoảnh khắc đang chờ ở phía trước. Toàn bộ vũ trụ trong một hạt cát. Đây là những gì Agnes đã nói ở Paris cách đây gần một thế kỷ. Cả Mary Peters nữa. Cuối cùng tôi đã có cái trải nghiệm thấu hiểu thời gian. Hiện tại, quá khứ, và tương lai. Chỉ là một tích tắc, nhưng bên trong nó tôi cảm thấy như thể, chỉ cần đắm nhìn vào mắt Camille, tôi có thể thấy mãi mãi.