← Quay lại trang sách

Phần VIII

18.

Điện thoại đổ chuông.

Nằm gà gật trên chiếc ghế mây, tôi nhìn quyển sách để mở bằng đôi mắt mơ màng. Cơn mưa chiều buông nặng hạt, ướt đẫm cây lá ngoài vườn, sau đó tạnh hẳn. Rồi cơn gió nam ẩm ướt mang theo vị biển bắt đầu thổi, nhẹ chuyển lay lũ lá cành trong dải chậu kiểng xếp thẳng hàng dưới hiên, phơ phấp bức mành.

“Chào,” cô lên tiếng. Giọng cô nói như thể người ta đang đặt một chiếc ly mỏng manh lên mặt bàn dao động dễ lung lay. “Còn nhớ tôi chứ?”

Tôi thoáng giả vờ hồi tưởng.

“Việc buôn bán đĩa than thế nào rồi?”

“Không tốt lắm. Hẳn là do đang suy thoái. Chẳng ai nghe đĩa than nữa.”

“Ừm.”

Cô gõ gõ móng tay vào tay cầm điện thoại.

“Tìm số điện thoại của anh cũng phiền phức gớm.”

“Sao vậy?”

“Tôi đến quán Jay’s Bar hỏi. Người trong quán lại hỏi bạn anh. Cái người cao cao, quái quái ấy. Anh ta đang đọc Molière[1].”

“Oh, vậy sao.”

Im lặng.

“Mọi người đều nhớ anh. Họ bảo hẳn anh đang ốm vì suốt tuần rồi không đến quán.”

“Tôi không biết là mình nổi tiếng đến thế.”

“… Anh giận tôi sao?”

“Sao lại phải giận?

“Vì tôi đã nói những lời bất nhã với anh. Do đó tôi muốn xin lỗi.”

“Này, cô không cần phải bận lòng vì tôi đâu. Nhưng nếu vẫn thấy áy náy thì cứ đến công viên rải đậu cho lũ chim bồ câu ấy.”

Cô thở dài, tôi nghe tiếng cô châm thuốc phía bên kia tay cầm điện thoại. Bản nhạc Nashville Skyline của Bob Dylan nghe vang từ phía sau. Có lẽ cô đang gọi điện từ cửa tiệm.

“Vấn đề không phải là anh cảm thấy thế nào. Mà tôi thấy đáng ra mình không nên nói với anh như vậy,” cô nói nhanh.

“Cô quá nghiêm khắc với bản thân đấy.”

“Ừ. Tôi luôn nghĩ là mình muốn vậy.”

Rồi cô im lặng.

“Chúng ta có thể gặp nhau tối nay không?”

“Được thôi.”

“20.00 giờ ở Jay’s Bar. Được chứ?”

“Cứ vậy đi.”

“… Này, tôi đã trải qua rất nhiều chuyện bực mình, biết chứ”

“Tôi hiểu mà.”

“Cảm ơn.”

Cô cúp máy.

19.

Nếu kể ra thì rất dài dòng, cốt yếu là ít lâu nữa tôi sẽ bước qua tuổi hai mươi mốt.

Quả thật vẫn còn rất trẻ, nhưng không trẻ như trước đó nữa. Nếu thấy không hạnh phúc với điều đó, thì chẳng còn cách nào khác ngoài việc nhảy xuống từ đỉnh Empire State Building vào một sáng Chúa nhật.

Tôi từng nghe câu nói đùa thế này trong một phim khá xưa lấy bối cảnh về cuộc đại khủng hoảng.

“Anh biết không, mỗi lần ngang qua Empire State Building tôi luôn phải che ô. Vì có quá nhiều người từ trên trời rơi xuống.”

Bây giờ tôi đã hai mươi mốt tuổi, ít ra lúc này tôi chưa có ý định sẽ chết. Cho đến giờ tôi đã ngủ với ba người phụ nữ. Người đầu tiên là bạn đồng học thời phổ thông, lúc đó chúng tôi mới chỉ mười bảy tuổi và vẫn đinh ninh rằng chúng tôi yêu nhau. Một chiều sau bụi cây rậm rạp, cô cởi bỏ đôi giày nâu, đôi vớ bông trắng, chiếc đầm xanh diệp lục, chiếc áo ngực rõ ràng là to quá cỡ, và sau một thoáng chần chừ cô tháo cả đồng hồ ra. Rồi chúng tôi ôm ấp nhau trên tấm báo Asahi số ra Chúa nhật.

Rồi đột ngột chúng tôi chia tay chỉ vài tháng sau khi tốt nghiệp phổ thông. Tôi đã quên mất vì lý do gì, ừ chỉ là một lý do có thể dễ dàng quên lãng vậy thôi. Kể từ đó, tôi chưa lần nào gặp lại cô ấy. Đôi lúc tôi cũng nghĩ về cô trong những đêm trằn trọc. Chỉ vậy mà thôi.

Người phụ nữ thứ hai là một cô gái hippie tôi gặp trong ga điện ngầm Shinjuku. Cô ta mười sáu tuổi, hoàn toàn rỗng túi và không có cả chỗ ngủ, và tệ hơn nữa là gần như không có ngực. Tuy nhiên cô có đôi mắt đẹp tỏa cái nhìn thông minh sắc sảo. Đêm đó là thời điểm cuộc biểu tình đang nổ ra rầm rộ ở Shinjuku đến nỗi tàu điện, xe buýt, và tất cả mọi phương tiện giao thông đều ngừng hoạt động hoàn toàn.

“Cứ lang thang ở đây thì em sẽ bị cảnh sát tóm đấy,” tôi nói. Cô ngồi xổm gần quầy vé đã đóng cửa, đang đọc tờ báo thể thao nhặt được từ thùng rác.

“Nhưng nếu cảnh sát bắt, họ thường sẽ cho ăn.”

“Nhưng em cũng sẽ bị đánh đập.”

“Cũng đã quen quá rồi.”

Tôi châm thuốc và đưa cô một điếu. Mắt tôi dính phải khói cay, đau buốt như bị kim châm.

“Em ăn gì chưa?”

“Chưa, từ sáng giờ.”

“Chốc nữa tôi sẽ mua đồ ăn cho. Quan trọng là giờ chúng ta phải rời khỏi đây trước đã.”

“Sao anh lại muốn mua đồ ăn cho tôi?”

“Chả biết nữa.” Không biết vì sao, chính tôi cũng chẳng rõ lý do. Tôi kéo cô ra khỏi quầy vé rồi đi dọc con đường vắng lặng hướng về Mejiro.

Cô gái câm lặng đó ở lại chung cư của tôi suốt khoảng một tuần. Mỗi ngày cô tỉnh giấc khi đã quá trưa, ăn, hút thuốc, mơ màng đọc sách, xem tivi, và thi thoảng làm tình với tôi dù không chút gì hứng thú. Hành lý của cô độc mỗi chiếc túi vải bố màu trắng, bên trong có chiếc áo khoác windbreaker[2] dày, hai chiếc T-shirt, quần jean xanh, ba chiếc quần lót cáu bẩn, cùng một hộp băng vệ sinh.

“Quê em ở đâu?”

Một ngày nọ tôi hỏi cô như thế.

“Một nơi anh không biết đến.”

Sau khi trả lời vậy, cô không nói gì thêm nữa.

Rồi một ngày, khi tôi từ siêu thị trở về mang theo một túi thức ăn, cô đã đi mất. Chiếc túi vải trắng cũng chẳng còn đó. Ngoài ra, vài món đồ cũng biến mất. Một ít tiền xu tôi quẳng trên bàn, một cây thuốc lá, và chiếc T-shirt tôi vừa mới giặt sạch. Trên mặt bàn có mảnh giấy ghi chú vài chữ “Phiền quá đi”. Hẳn là nói tôi.

Người phụ nữ thứ ba là sinh viên khoa Văn Học Pháp tôi quen trong thư viện đại học. Kỳ nghỉ hè năm tiếp theo cô treo cổ tự vẫn chết trong cánh rừng nhỏ nằm cạnh sân bóng quần. Không một ai phát hiện ra xác cô mãi đến khi học kỳ mới bắt đầu, và suốt hai tuần đấy cái xác cứ đong đưa trong gió. Bây giờ, một khi trời bắt đầu choạng vạng, chẳng ai dám đến gần khu rừng đó cả.

20.

Cô đang ngồi bồn chồn bên quầy quán Jay’s Bar, dùng ống hút khuấy đáy ly ginger ale đã tan gần hết đá.

“Tôi đã nghĩ anh sẽ không đến.” Cô nói, thoáng nhẹ nhõm khi tôi đến ngồi xuống bên cạnh.

“Tôi chưa bao giờ thất hẹn. Tôi đến trễ vì vừa nãy có chút việc.”

“Việc gì?”

“Giày. Trước đó tôi phải lau giày.”

“Giày chơi bóng rổ của anh kia sao?” Cô chỉ đôi giày thể thao của tôi nghi ngờ dò hỏi.

“Làm gì có. Giày của cha tôi. Việc này đã thành lệ trong nhà. Con cái có nghĩa vụ phải lau giày cho cha mình. Lệ là vậy.”

“Sao phải thế?”

“Chả biết nữa. Có thể đôi giày tượng trưng một điều gì đó. Quan trọng là mỗi đêm cha tôi sẽ về nhà lúc 20.00 giờ, như đã ấn định và lên khuôn sẵn. Rồi tôi sẽ lau giày cho ông, sau đó đi uống bia.”

“Thói quen tốt đấy chứ.”

“Cô nghĩ vậy à?”

“Ừ. Anh phải biết ơn cha mình.”

“Tôi luôn biết ơn vì cha tôi chỉ có mỗi hai chân mà thôi.”

Cô cười khúc khích.

“Hẳn gia đình anh tuyệt lắm nhỉ.”

“Ừ. Một gia đình tốt và không có tiền, thật sự khiến tôi muốn rơi lệ.”

Cô tiếp tục dùng đầu ống hút khuấy đều ly ginger ale của mình.

“Mà nhà tôi còn nghèo hơn nhiều.”

“Sao cô biết?”

“Nhờ mùi. Tương tự như người giàu có thể phân biệt kẻ giàu sang bằng cánh ngửi mùi, người nghèo cũng có thể đánh hơi để biết người nghèo.”

Tôi rót bia Jay vừa đưa vào ly.

“Cha mẹ cô ở đâu?”

“Tôi không muốn nói về họ.”

“Tại sao?”

“Người tốt thì chẳng bêu rếu chuyện xấu trong nhà cho người ngoài biết. Đúng không?”

“Cô là người tốt?”

Cô suy nghĩ mất mười lăm giây.

“Tôi muốn làm người tốt. Nghiêm túc đấy. Ai chả muốn vậy đúng không?”

Tôi quyết định không trả lời câu hỏi.

“Nhưng chẳng có gì sai trái nếu cô kể ra,” tôi nói.

“Tại sao?”

“Thứ nhất, trước sau gì cô cũng sẽ phải kể chuyện này với một ai đó. Thứ hai, tôi sẽ không kể ai khác biết chuyện này.”

Cô bật cười rồi châm thuốc. Suốt ba lần phả khói thuốc, cô vẫn lặng im ngắm nhìn khối gỗ đính trên mặt quầy.

“Cha tôi mất năm năm trước vì khối u não. Ông đã chịu nhiều đau đớn. Suốt hai năm dài khổ sở. Trong khi đó, gia đình tôi đã tiêu tốn hết tiền chữa chạy cho ông. Sạch trơn! Không sót lại đồng nào. Tệ hơn nữa, mọi người trong nhà đều thấy mệt mỏi rồi cuối cùng ly tán hết cả. Chuyện như vậy rất thường xảy ra. Đúng không?”

Tôi gật đầu. “Còn mẹ cô thì sao?”

“Bà vẫn còn sống, nhưng chẳng rõ đang ở đâu nữa. Chỉ biết mỗi năm bà luôn gửi thiệp chúc Tết.”

“Có vẻ cô không thích mẹ mình lắm nhỉ.”

“Thì là vậy.”

“Anh chị em?”

“Tôi có một đứa em gái song sinh. Chỉ vậy thôi.”

“Em cô giờ đang ở đâu?”

“Xa lắm, đâu chừng ba mươi năm ánh sáng.”

Sau khi nói vậy, cô bật cười ngần ngại và kéo ly ginger ale sang một bên.

“Bêu rếu chuyện gia đình thật chẳng hay ho gì. Cảm giác khó chịu làm sao ấy.”

“Đừng nghĩ linh tinh. Ai cũng phải có những khó khăn của riêng mình.”

“Anh cũng vậy sao?”

“Ừ. Tôi luôn bật khóc mỗi lần cầm lọ kem cạo râu.”

Cô bật cười giòn tan. Tiếng cười như thể đã hàng năm dài kiềm nén.

“Sao lại uống ginger ale?” Tôi hỏi. “Chẳng phải cô đang kiêng rượu đó sao?”

“Ừm, muốn thì muốn vậy, nhưng thôi bỏ đi cho rồi.”

“Muốn uống gì đây?”

“Vang trắng có đá.”

Tôi gọi Jay và yêu cầu bia mới cùng rượu vang trắng.

“Này, có em gái song sinh thì cảm giác thế nào?”

“Sao nhỉ. Cảm giác lạ lắm đấy. Gương mặt chúng tôi giống hệt, IQ tương đồng, cỡ áo ngực cũng giống, hừ, điều đó khiến tôi phát chán.”

“Hẳn nhiều người gọi nhầm lắm?”

“Ừ, mãi đến năm tám tuổi. Vì năm đó ngón tay tôi chỉ còn lại chín ngón, không ai gọi nhầm nữa.”

Sau khi nói vậy, cô xếp gọn hai tay và đặt lên mặt quầy, như thể người nghệ sĩ dương cầm đang tập trung tâm tưởng trong buổi hòa nhạc. Tôi nâng bàn tay trái của cô lên rồi ngắm nó thật gần dưới ánh đèn mờ tỏa. Bàn tay cô bé nhỏ lạnh lẽo tựa ly cocktail. Trên đó có bốn ngón tay thư thái xếp thẳng hàng, rất tự nhiên như sinh ra đã vậy. Sự tự nhiên đó gần như một điều kỳ diệu, vâng, ít nhất nó có sức thuyết phục hơn nhiều nếu so với việc có sáu ngón tay xếp hàng trên đấy.

“Năm tám tuổi, ngón tay tôi bị máy vacuum cleaner cắt đứt. Bay vụt mất, ngón tay của tôi ấy.”

“Hiện giờ đang ở đâu?”

“Cái gì?”

“Ngón út của cô.”

“Tôi quên mất rồi,” cô nói, bật cười nắc nẻ. “Anh là người đầu tiên hỏi như vậy.”

“Có lúc nào cô phiền lòng vì mình thiếu mất ngón út không?”

“Có. Khi mang găng tay.”

“Ngoài ra?”

Cô lắc đầu.

“Sẽ dối lòng nếu bảo tôi hoàn toàn chẳng lúc nào nghĩ ngợi. Nhưng đại loại cũng như những người phụ nữ khác phiền lòng nếu cổ họ quá to hay lông chân quá rậm mà thôi.”

Tôi gật đầu.

“Anh làm nghề gì?”

“Tôi đang học. Ở Tokyo.”

“Ồ, vậy lúc này anh đang về quê nghỉ hả?”

“Là vậy.”

“Anh học ngành gì?”

“Sinh học. Tôi thích động vật.”

“Tôi cũng vậy.”

Tôi uống hết chỗ bia còn sót lại trong ly rồi nhón lấy vài miếng khoai tây chiên.

“Này… cô có biết con báo đen nổi tiếng ở Bhagalpur, Ấn Độ, đã ăn hết 350 người trong ba năm không.”

“Thật sao?”

“Đại tá người Anh Jim Corvett được triệu tập đến để tiêu diệt con vật, đã giết hết 125 con báo đen và hổ trong khoảng thời gian tám năm, bao gồm cả con báo đen tôi đã nhắc đến. Dù là vậy, cô vẫn cứ thích động vật sao?”

Cô dụi tắt điếu thuốc, nhấp một ngụm vang, rồi thoáng ngắm gương mặt tôi như thấy khâm phục.

“Anh quả thật có hơi quái lạ nhỉ.”

Chú thích:

[1] Tên khai sinh là Jean-Baptiste Poquelin. Nhà biên kịch và diễn viên người Pháp được xem như bậc thầy hài kịch trong văn học phương Tây.

[2] Áo khoác được thiết kế để chịu gió và mưa không quá lớn.