Người đàn ông của Tháng Giêng
Đừng có đặt chân vào văn phòng của tôi. Đó là quy định của ba. Nhưng điện thoại đã đổ chuông hai mươi lăm lần. Người bình thường sẽ thôi gọi sau mười hay mười một lần, trừ phi đó là vấn đề sống còn. Phải không nhỉ? Ba đã có máy trả lời tự động giống như máy của James Garner trong phim Hồ sơ Rockford (The Rockford Files), có những cuộn băng to đùng. Nhưng gần đây ba không bật nó lên. Điện thoại reo tới ba mươi lần rồi. Trên căn phòng áp mái, chắc Julia chẳng nghe thấy bởi bài Don’t you want me? (Anh không cần em sao?) của Human League đang mở đến điếc tai. Bốn mươi hồi, mẹ cũng chẳng nghe thấy bởi chiếc máy giặt đang rú ầm ĩ, mẹ lại còn đang hút bụi cho phòng khách nữa. Năm mươi hồi. Chẳng phải bình thường rồi! Hay là ba bị một chiếc xe tải lớn cán trên xa lộ M5 rồi, và cảnh sát chỉ còn số điện thoại phòng này bởi tất cả giấy tờ đã cháy hết? Có khi chúng tôi mất cả cơ hội cuối cùng thấy cha được hỏa thiêu ấy chứ.
Thế là tôi đi vào, trong đầu nghĩ về chuyện cô dâu đi vào buồng của một anh chàng chiều vợ sau khi đã được nhắc nhở không làm thế (nhưng để ý mà xem, anh chàng chiều vợ đang mong chuyện ấy xảy ra). Phòng của ba đầy mùi tiền giấy, cả mùi giấy và kim loại. Rèm đang kéo xuống nên trong phòng như buổi tối chứ chẳng phải 10 giờ sáng. Có một chiếc đồng hồ trên tường, giống chiếc đồng hồ ở trường. Có một tấm ảnh chụp ba bắt tay Craig Salt khi ba được trao chức giám đốc bán hàng khu vực của Greenland (Greenland là chuỗi siêu thị chứ không phải quốc gia). Chiếc máy tính hiệu IBM của ba đặt trên bàn sắt. Những chiếc IBM giá vài ngàn bảng đấy. Chiếc điện thoại trong văn phòng có màu đỏ như máy dùng cho đường dây nóng về vấn đề hạt nhân, nó có các nút bấm chứ không phải đĩa quay số như điện thoại thường.
Nhưng dù thế nào, tôi hít một hơi sâu, nhấc ống nghe lên và đọc số máy của văn phòng[2]. Ít ra tôi có thể đọc kiểu đó mà không bị lắp. Thường là như vậy.
Nhưng người ở đầu dây bên kia chẳng trả lời.
— Alô, tôi nói. Alô?
Họ thở như thể đang tự cắt mình ra rồi trải lên giấy vậy.
— Có nghe thấy tôi nói không? Tôi không nghe thấy bên ấy.
Rất nhỏ. Tôi nhận ra tiếng nhạc của chương trình Phố Sesame (Sesame Street).
— Nếu nghe thấy tôi nói - tôi nhớ lại một bộ phim của Quỹ dành cho phim trẻ em có tình huống này - hãy vỗ ống nghe một lần.
Chẳng có tiếng vỗ nào, chỉ nghe thấy tiếng nhạc rõ hơn của chương trình Phố Sesame.
— Có lẽ bạn nhầm số rồi - tôi nói và trong lòng tự hỏi liệu có đúng như vậy không.
Có tiếng trẻ con khóc ré lên rồi tiếng ống nghe dập xuống.
Khi nghe, họ sẽ thấy tiếng động do nghe phát ra.
Tôi đã nghe thấy họ, nên họ cũng nghe thấy tôi nói.
“Tội nặng mà không xử thì lần sau người ta sẽ phạm tội nặng hơn”, cô Throckmorton đã dạy chúng tôi điều ấy từ rất lâu rồi. Vì tôi đã có lý do để vào căn phòng bị cấm, tôi nhòm qua rèm cửa ra khu đất của nhà thờ, qua những cây gà con, qua những cánh đồng tới đồi Malvern. Buổi sáng nhợt nhạt, bầu trời lạnh ngắt, đất đồi phủ lớp băng giá nhưng không hề có tuyết, tệ quá! Chiếc ghế xoay của ba giống như tháp la-de trong Thiên niên kỷ Falcon (Millenium Falcon) vậy. Tôi đã bắn những chiếc MiG của Nga bay đầy bầu trời phía trên đồi Malvern. Chẳng mấy chốc những người sống giữa khu vực này và Cardiff chịu ơn cứu mạng của tôi. Khu đất nhà thờ rơi đầy thân máy bay và những chiếc cánh đen sạm. Khi các phi công Xô Viết bật dù, tôi sẽ bắn họ bằng tên tẩm thuốc ngủ. Thủy quân lục chiến của chúng tôi sẽ tóm họ. Tôi sẽ từ chối mọi huy chương. “Cảm ơn, nhưng không có gì phải cảm ơn cả”, tôi sẽ nói với bà Margaret Thatcher[3] và Ronald Reagan[4] như vậy khi mẹ mời họ vào nhà, “tôi chỉ làm công việc của mình thôi mà!”.
Ba đã gắn chiếc gọt bút chì vào góc bàn. Nó đủ làm cho bút chì sắc đến mức đâm thủng áo giáp. Bút chì H sắc nhất, ba thích loại đó. Tôi thì thích chì loại 2B.
Chuông cửa reo. Tôi kéo rèm xuống như cũ, kiểm tra để đảm bảo không có dấu vết nào về vụ đột nhập của mình, lẻn ra, phi nhanh xuống cầu thang xem ai, sáu bậc cuối tôi liều chết phi qua chỉ bằng một bước.
Moron, vẫn toe toét như mọi lần. Để ý xem, lông tơ trên mép nó đang mỗi ngày một dầy hơn - Mày chẳng bao giờ đoán được đâu.
— Đoán cái gì?
— Mày có biết cái hồ trong rừng không?
— Làm sao?
— Nó chỉ - Moron ngó nghiêng để chắc chắn không bị ai nghe trộm - biến mất và đóng băng hết rồi. Bây giờ một nửa trẻ con trong làng ra đó. Chỗ trú hay quá chứ gì nữa?
— Jason! Mẹ từ bếp ló ra - con đang làm khí lạnh tràn vào đấy! Một là mời Dean vào nhà - chào cháu, Dean - hai là đóng cửa lại.
— Ơ...con chỉ ra ngoài một lúc thôi mà mẹ.
— Hừm...đi đâu?
— Chỉ ra ngoài hít thở không khí trong lành thôi.
Đó là sai lầm quá lớn. - Con định làm gì?
Tôi định nói “Không làm gì”, nhưng Gã treo cổ[5] quyết định chặn tôi lại - Tại sao con cứ phải làm việc chứ? - Tôi tránh ánh mắt soi mói của mẹ trong khi mặc chiếc áo khoác len thô kiểu hải quân.
— Mẹ hỏi được không, cái mũ len trùm đầu mới màu đen có gì khiến con không hài lòng?
Tôi vẫn không thể nói “Không có gì”. (Sự thật thì màu đen nghĩa là ta thích tự coi mình là một kẻ nghèo hèn. Người lớn không thể hiểu nổi). “Cái áo len thô của con ấm hơn, ngoài trời thì lạnh cóng”.
— Ăn trưa vào đúng 1 giờ - mẹ nói và vào thay bình hút bụi - Ba sẽ về ăn trưa. Nhớ đội mũ len vào, không thì đầu con đóng băng đấy.
Mũ len màu xám, nhưng lát nữa tôi có thể nhét vào túi áo.
— Tạm biệt cô Taylor, Moron nói.
— Tạm biệt Dean, mẹ nói.
Mẹ chưa bao giờ thích Moron.
Moron cao ngang với tôi và Chúa ơi, nó ám mùi nước sốt thịt kinh khủng. Nó mặc một cái áo có vạt dài tới mắt cá mua ở cửa hàng từ thiện, sống trong một căn nhà xây bằng gạch cũng hôi phát khiếp ở khu Drugger’s End. Tên thật của nó là Dean Moran (vần với Warren) nhưng trong tuần học đầu tiên, thầy giáo dạy thể dục Carver lại gọi nó là Moron, thế là từ đấy cái tên của nó cứ giữ như vậy. Tôi gọi nó là Dean khi chỉ có chúng tôi với nhau, nhưng những cái tên không chỉ là tên. Đứa trẻ nào nổi trội thường được gọi bằng tên, thế nên Nick Yew luôn là Nick. Những đứa hơi nổi như Gilbert Swinyard thì được nhận biệt danh đáng tôn trọng là Yardy. Xuống thấp hơn là những đứa như tôi, gọi nhau bằng họ. Dưới nữa là những đứa có biệt hiệu không muốn nhận như Moran Moron, hay Nickolas Briar bị gọi là Knickerless Bra. Với đám con trai, tất cả đều có ngôi thứ, tương tự như quân đội vậy. Nếu tôi mà gọi Gilbert Swinyard chỉ là Swinyard, hắn sẽ đá vào mặt tôi. Còn nếu tôi gọi Moron là Dean trước mặt các bạn, tôi sẽ tự hạ thấp vị trí của mình. Vậy nên cần phải cảnh giác.
Bọn con gái ít khi làm chuyện ấy trừ Dawn Madden - một thằng con trai bị lấy mất chức năng trong vụ thí nghiệm nào đó. Con gái cũng chẳng đánh nhau nhiều như con trai. (Chuyện thế này: ngay trước kỳ nghỉ Giáng sinh Dawn Madden và Andrea Bozard bắt đầu hét “Đồ chó!”, “Đồ đĩ!” trong khi đang xếp hàng chờ xe buýt từ trường về. Thụi ngực, giật tóc và làm bất cứ điều gì có thể). Đôi lúc tôi ước mình là con gái, bởi bọn nó có vẻ văn minh hơn. Nhưng nếu tôi thừa nhận ước muốn đó thành lời, tủ đồ của tôi sẽ bị vẽ ngay chữ THỢ HÀN LỖ ĐÍT. Điều ấy đã xảy ra với Eloyd Chaceley, khi nó thú nhận thích nhà soạn nhạc Johann Sebastian Bach. Nhớ nhé, nếu biết thực ra tôi là Eliot Bolivar - người có thơ đăng ở tạp chí của giáo xứ Black Swan, bọn nó sẽ lấy đồ mộc cùn đập tôi đến chết ở sân ten-nít và sau đó rắc biểu tượng của hãng đồ chơi tình dục lên bia mộ tôi.
Trong lúc tôi và Moron đi ra hồ, nó kể cho tôi về bộ đồ chơi điện tử nó được tặng nhân dịp Giáng sinh. Vào ngày lễ Boxing[6], bộ chuyển nguồn bị cháy, suýt xóa sổ cả nhà nó. “Ừ, chắc chắn thế rồi”, tôi bảo. Nhưng Moron thề trên mộ của bà nó là điều ấy có thật. Thế nên tôi bảo nó viết thư cho chương trình Đó là cuộc sống (That’s Life) trên đài BBC nhờ Esther Rantzen[7] buộc nhà sản xuất bồi thường. Nhưng Moron nghĩ điều đó thật khó bởi ba nó mua bộ đó từ một Brummie ở chợ Tewkesbury trong đêm Giáng sinh. Tôi chẳng dám hỏi Brummie nghĩa là gì bởi hỏi như thế nghĩa là tôi mít đặc. “Ừ”, tôi nói, “hiểu ý mày rồi”. Moron hỏi tôi được tặng gì nhân dịp Giáng sinh. Thực ra tôi đã được tặng phiếu mua sách trị giá 13,50 bảng và một bức tranh lớn của Middle Earth. Thế nhưng sách chán quá nên tôi nói về Trò chơi cuộc đời (Game of Life) được hai bác Brian và Alice tặng. Đó là trò chơi trên bảng, người thắng sẽ là người đầu tiên cho chiếc xe nhỏ chạy đến cuối cuộc đời và có nhiều tiền nhất. Hai đứa đi qua đoạn đường cắt cạnh làng Thiên nga đen và đi vào rừng. Tôi ước mình đã bôi kem va-dơ-lin vào môi bởi lúc trời lạnh thế này nó sẽ nứt toác cả ra.
Chẳng mấy chốc chúng tôi nghe thấy tiếng bọn trẻ kêu thét vọng qua những hàng cây - Đứa nào đến hồ sau cùng là thằng thộn - Moron hét lên rồi vọt đi trước khi tôi kịp sẵn sàng. Ngay trước mặt tôi, nó trượt qua vết xe phủ băng, bay người lên rồi nện đít xuống. Tin Moron đi - Tớ nghĩ mình bị choáng rồi, nó bảo.
— “Choáng” là mày phải đập đầu xuống chứ. Trừ phi óc của mày nằm dưới đít mới thế.
Tiếc quá, chẳng có ai quanh đó nghe thấy điều đó cả.
Hồ trong rừng thật tuyệt. Những bong bóng bị đóng trong băng như cảnh trong phim của hãng Fox. Neal Brose có bộ đồ trượt băng đạt tiêu chuẩn Olympic, nó cho thuê 5 bảng một lần trượt nhưng Pete Redmarley lại được dùng miễn phí nên bọn trẻ nhìn nó trượt vòng quanh và cũng mong được trượt một lần. Chỉ đứng vững trên mặt băng đã đủ khó rồi. Trước khi biết trượt bằng giày của mình, tôi đã ngã rất nhiều. Ross Wilcox xuất hiện cùng đứa em họ là Gary Drake và Dawn Madden. Cả ba đều có đồ trượt tốt. Bây giờ cả Drake và Wilcox đều cao hơn tôi. (Bọn nó cho ngón tay khỏi găng để khoe những vết sẹo khi chơi trò Scabby Queen-Nữ hoàng hèn hạ. Nhưng nếu tôi làm vậy thì có lẽ mẹ sẽ giết tôi). Squelch ngồi ở hòn đảo nổi lên giữa hồ - nơi những con vịt thường sống và hét lên: “Đít lộn lên đầu! Đít lộn lên đầu” với bất kỳ đứa nào ngã. Squelch trông thật buồn cười, bởi nó đẻ non nên chẳng đứa nào dám thụi nó một quả, mà có thụi cũng chẳng dám mạnh tay. Grant Burch thì cười chiếc xe đạp hiệu Raleigh Chopper của Philip Phelps (thằng hầu của nó) trên mặt băng. Nó giữ thăng bằng được mấy giây nhưng khi nhấc một bánh thì chiếc xe giật lên. Đến khi hạ xuống đất, trông chiếc xe như bị Uri Geller[8] tra tấn đến chết. Phelps cười một cách yếu ớt. Tôi dám cá là nó đang phân vân là sẽ phải về giải thích với bố nó thế nào. Rồi Pete Redmarley và Grant Burch cho rằng mặt hồ đóng băng là chỗ rất ổn để chơi trò Chó bull Anh. Nick Yew nói: “OK, tao đồng ý” thì chuyện được quyết. Tôi ghét trò Chó bull Anh. Lúc cô Threckmorton cấm trò này ở trường sau khi Lee Biggs gãy ba cái răng, tôi đã mừng phát điên. Nhưng sáng nay bất kỳ đứa nào không công nhận thích trò Chó bull Anh sẽ bị coi là đồ con gái yếu đuối. Nhất là những đứa ở khu Kingfisher Meadows như tôi.
Khoảng hai mươi, hai lăm thằng con trai chúng tôi cộng thêm Dawn Madden đứng tụm lại để chờ được chọn như trong chợ bán nô lệ. Grant Burch và Nick Yew cùng chỉ huy một nhóm. Pete Redmarley và Gilbert Swinyard là chỉ huy nhóm còn lại. Ross Wilcox và Gary Drake đều được Pete Redmarley chọn trước tôi, nhưng tôi được Grant Burch chọn ở lượt thứ sáu - chưa muộn tới mức mất mặt. Moron và Squelch là hai đứa cuối cùng còn lại. Grant Burch và Pete Redmarley đùa “Không, mày có thể lấy cả hai thằng đó. Bọn tao cần thắng mà”, Moron và Squelch phải cười to như thể chúng cũng thấy điều ấy hay ho lắm. Có khi Squelch nghĩ thế thật. (Moron thì không. Khi tất cả nhìn đi chỗ khác, gương mặt của nó y như lúc tất cả bọn tôi bảo nó rằng đang chơi trò trốn tìm, nó được cứ đi trốn. Phải mất một tiếng nó mới hiểu rằng chẳng có đứa nào tìm mình hết). Sau khi Nick Yew thắng trò sấp ngửa để giành quyền lựa chọn, bọn tôi là những kẻ Chạy trốn còn nhóm của Pete Redmarley là Chó bull. Những áo khoác không quá cần thiết của cả bọn được xếp ở hai đầu hồ như cửa gôn để chạy qua, bên kia sẽ ngăn chặn. Bọn con gái (trừ Dawn Madden) cùng bọn nhãi con bị đuổi khỏi mặt băng. Bọn Chó bull của Pete Redmarley hợp thành nhóm ở giữa còn bọn Chạy trốn chúng tôi thì trườn về mục tiêu. Cả Chó bull và bọn Chạy trốn đều cúi thấp người như những vận động viên chạy nước rút. Bọn chỉ huy thì hô hiệu lệnh.
— Chó bull Anh. Một... hai... ba!
Thét lên như quân cảm tử, bọn tôi nhảy xổ vào nhau. Tôi trượt về phía trước (cố ý làm ra vẻ vô tình) ngay trước khi hàng đầu tiên của Chó bull đâm vào Chạy trốn, Điều ấy sẽ làm những Chó bull khỏe nhất va chạm với đám Chạy trốn ở hàng đầu tiên của bọn tôi. (Chó bull phải đè cả hai vai của kẻ Chạy trốn xuống băng đủ lâu để hét hết câu “Chó bull Anh. Một, hai, ba!”). Nếu may mắn, chiến thuật của tôi sẽ tạo được vài khoảng trống để chạy xuyên qua đối thủ về phía mục tiêu. Ban đầu kế hoạch này thành công ngay. Anh em nhà Tookey và Gary Drake đều đâm sầm vào Nick Yew. Chân của một đứa đá vào chân tôi nhưng tôi vẫn vượt qua mà chẳng hề ngã. Nhưng rồi Ross Wilcox nhắm vào tôi. Tôi cố tìm cách vượt qua nhưng Wilcox nắm chặt được tay rồi cố kéo tôi xuống. Nhưng thay vì giật để thoát ra, tôi lại nắm lấy cổ tay nó và quăng thẳng về phía Ant Little và Darren Croome. Là thế nào nhỉ? Trò chơi và thể thao chẳng đơn giản là chuyện tham gia hay thắng thua. Trò chơi và thể thao thực ra là làm mất mặt địch thủ. Lee Biggs tìm cách tấn công tôi kiểu bóng bầu dục nhưng tôi đẩy nó ra mà chẳng vấn đề gì. Thằng này quá lo lắng tính toán xem mình còn lại bao nhiêu chiếc răng nên phải làm Chó bull hiền lành mà. Tôi là kẻ Chạy trốn thứ tư về tới đích. Grant Burch hét “Làm tốt lắm, nhóc Jacey!”. Nick Yew cũng thoát được anh em nhà Tookeys và Gary Drake rồi chạy về đích. Khoảng một phần ba số Chạy trốn bị bắt và buộc làm Chó bull trong lượt tiếp. Tôi không thích điều đó ở Chó bull Anh. Nó buộc ta phải làm kẻ phản bội.
Nhưng dù thế nào, tất cả chúng tôi cùng hét “Chó bull Anh. Một...hai...ba!” và lại đâm bổ vào nhau, nhưng lần này tôi không có cơ hội. Ross Wilcox, Gary Drake và Dawn Madden nhằm vào tôi ngay từ đầu. Dù tôi có cố tránh va chạm thế nào cũng vô ích. Chưa chạy được nửa hồ thì bọn chúng đã đuổi kịp. Ross Wilcox túm lấy chân tôi, Gary Drake vật tôi xuống, còn Dawn Madden dùng đầu gối ấn hai vai tôi xuống. Tôi chỉ biết nằm yên, để chúng biến mình thành Chó bull. Trong tim mình, tôi vẫn là kẻ Chạy trốn. Không biết vô tình hay cố ý, Gary Drake khiến một chân tôi không thể cử động. Dawn Madden có đôi mắt ghê gớm như một bà hoàng Trung Quốc, đôi lúc chỉ liếc ở trường một lần cũng khiến tôi nghĩ về nó cả ngày. Ross Wilcox thì nhảy lên và huơ huơ tay chân trong không khí như thể nó vừa ghi được bàn thắng ở sân Old Trafford[9] vậy. Đồ đần độn. “Rồi, rồi, Wilcox” tôi nói, “ba đánh một, được đấy!”. Wilcox lấy hai ngón tay làm dấu chữ V[10] với tôi rồi bỏ đi, tìm một đối thủ khác. Grant Burch và Nick Yew đến, tấn công một đám Chó bull, một nửa bọn này ngã bổ chửng ra.
Rồi Gilbert Swinyard hét lên bằng tất cả hơi trong cổ họng mình: “L...l...l...lập...kh...kh...kh...khối!”. Đó là tín hiệu cho tất cả bọn Chạy trốn và Chó bull trên hồ nhảy vào lập thành một kim tự tháp lớn dần làm bằng người uốn éo, hò hét, kêu than. Trò chơi đã bị lãng quên. Tôi tụt lại, vờ khập khiễng vì một chân không cử động được. Rồi chúng tôi nghe thấy tiếng cưa máy trong rừng, dọc theo con đường, hướng thẳng về cả bọn.
Đó không phải một chiếc cưa máy. Đó là Tom Yew cưỡi trên chiếc xe đua 150 phân khối hiệu Suzuki. Pluto Noak bám chặt phía sau, đầu không có mũ bảo hiểm. Trò Chó bull Anh bị quên ngay bởi Tom Yew là một huyền thoại ở làng Thiên nga đen. Anh là lính hải quân hoàng gia, làm trên một tàu khu trục có tên HMS Coventry. Tom Yew có hết mọi đĩa hát của ban nhạc Led Zep và có thể chơi ghi-ta đoạn dạo của bài Stairway to Heaven. Tom Yew còn từng được bắt tay Peter Shilton - thủ môn đội tuyển Anh nữa. Pluto Noak thì không nổi tiếng bằng, năm ngoái anh ta ra trường mà không có bằng. Bây giờ anh làm nghề cạo lông lợn trong một nhà máy ở Upton upon Severn. (Có tin đồn Pluto Noak từng hút bồ đà nhưng rõ ràng đó không phải loại làm não nở ra và khiến người ta nhảy từ nóc nhà xuống hàng rào). Tom Yew dừng xe máy ở chiếc ghế ngay đầu hẹp của hồ rồi vẫn ngồi yên trên xe, gạt chân chống bên. Pluto Noak vỗ lưng cảm ơn anh ta rồi đến nói chuyện với Colette Turbot - người mà theo lời Kelly, chị gái của Moron - đã ngủ với anh ta. Đám trẻ có thứ bậc cao thì ngồi ở chiếc ghế quay mặt về phía anh ta như những tông đồ của chúa Giê-su và truyền thuốc lá cho nhau. (Bây giờ Ross Wilcox và Gary Drake đang hút thuốc. Tệ hơn là Ross Wilcox hỏi Tom Yew về bộ giảm thanh của xe Suzuki và Tom Yew trả lời như thể thằng ấy cũng 18 tuổi vậy). Grant Burch thì sai Phelps đi lấy gói lạc Yorkie và một hộp bia hiệu Top Deck ở cửa hàng ông Rhydd, còn quát sau lưng nó “Chạy đi, tao nói với mày rồi mà!” để lấy le với Tom Yew. Hạng trung bình như chúng tôi thì ngồi quanh chiếc ghế, trên mặt đất đông cứng. Bọn thứ bậc cao bắt đầu nói chuyện về những chương trình hay nhất trên truyền hình dịp Giáng sinh và năm mới. Tom Yew nói rằng anh xem phim Cuộc đào thoát vĩ đại, mọi đứa đều đồng ý rằng những thứ khác đều vớ vẩn nếu so với Cuộc đào thoát vĩ đại, nhất là đoạn Steve McQueen bị bọn phát-xít bắt trên hàng rào dây thép gai. Nhưng rồi Tom Yew cho rằng bộ phim đó hơi dài, và tất cả mọi người đều nghĩ đó là bộ phim kinh điển, nhưng nó dài lê thê đến hàng thế kỷ. (Tôi không xem phim này vì ba mẹ xem Chương trình Hai bé Ronny đặc biệt dịp Giáng sinh. Nhưng tôi chú ý để đến buổi học tới vào thứ hai, và giả vờ như đã xem rồi).
Vì một số lý do, câu chuyện chuyển sang chủ đề chết thế nào đáng sợ nhất.
— Bị một con rắn mamba xanh cắn - Gilbert Swinyard nói - Loại rắn độc nhất thế giới. Các bộ phận trên người nổ tung nên nước tiểu hòa với máu. Đau đớn khủng khiếp!
— Đau khủng khiếp, chắc rồi - Grant Burch khịt mũi. Nhưng thế thì chết còn rất nhanh. Bị lột hết cả da khỏi người như một đôi tất, còn đáng sợ hơn. Người da đỏ Apache làm điều đó. Những kẻ giỏi nhất làm việc đó nhưng vẫn để nạn nhân vẫn sống trọn một đêm.
Tất cả nhìn Tom Yew đợi câu trả lời - Tao hiểu giấc mơ ấy - Anh hít một hơi thuốc dài rồi tiếp - Tao đã ở cùng với những người sống sót cuối cùng sau một cuộc chiến nguyên tử. Bọn tao đi dọc một xa lộ, không có xe, chỉ có cỏ dại. Lần nào ngó về phía sau tao cũng thấy số người ít hơn lần trước. Lần lượt từng người, bọn mày hiểu chứ, bị phóng xạ giết chết - Anh liếc nhìn Nick rồi nhìn mặt hồ đóng băng: Cái chết không làm tao sợ. Tao sợ mình sẽ là người cuối cùng còn lại.
Tất cả im lặng một lúc.
Ross Wilcox xoay về phía chúng tôi. Nó rít một hơi thuốc dài đầy vẻ điệu bộ rồi nói - Nếu không có Winston Churchill, có lẽ bây giờ bọn mày nói tiếng Đức cả rồi.
Chắc chắn rồi. Cũng như chuyện Ross Wilcox lẽ ra thoát khỏi cảnh bị tóm rồi chỉ huy một nhóm chống đối vậy. Tôi ước có thể được nói với thằng ngu ấy rằng thực ra nếu Nhật không ném bom Trân châu cảng, nước Mỹ đã chẳng bao giờ tham gia chiến tranh, nước Anh sẽ bị vây cho đói tận đến khi đầu hàng và Winston Churchill sẽ bị hành quyết như một tội phạm chiến tranh. Nhưng tôi biết mình chẳng thể làm vậy. Sẽ có một loạt từ nói lắp, trong tháng giêng này Gã treo cổ tàn nhẫn lắm. Thế nên tôi chỉ nói mình chẳng tin vào cuộc chiến, rồi đứng dậy đi ra đường trở về làng. Gary Drake hét “Này, Taylor! Hãy lắc của quý của mày hơn hai lần, mày đang chơi với nó đấy”, điều ấy khiến Neal Brose và Ross Wilcox cười phá lên. Tôi đưa tay qua vai làm dấu chữ V. Lúc này những chuyện về lắc hòn dái hơn hai lần quả là rối rắm. Chẳng có ai đủ tin tưởng để tôi hỏi thế nghĩa là gì.
Sau con người, cây cối giúp ta nhẹ nhõm hơn. Có thể Neal Brose và Ross Wilcox nói xấu tôi, nhưng khi những tiếng nói đó bớt đi tôi lại càng không muốn quay lại. Tôi căm ghét chính mình vì đã không chỉnh Ross Wilcox về chuyện nói tiếng Đức lúc nãy, nhưng nói lắp ở đó thì ngượng đến chết mất. Lớp băng đóng trên các cành cây nhọn bắt đầu tan, nhưng giọt nước to đang nhỏ xuống lộp độp. Chúng làm lòng tôi dịu bớt phần nào. Tại những nơi khuất mà ánh mặt trời không tới được, vẫn còn một ít tuyết nhưng không đủ đắp một đống. (Nero thường giết các vị khách bằng cách bắt họ ăn thức ăn làm từ thủy tinh, nhưng đó chỉ là chuyện cười). Tôi nhìn thấy một con chim cổ đỏ, một con gõ kiến, một con ác là, một con két và tôi nghĩ mình nghe thấy tiếng của một con sơn ca ở phía xa, mặc dù tôi không chắc có thể thấy chúng trong tháng giêng này. Rồi tới chỗ con đường từ Ngôi nhà trong rừng nối với con đường ra hồ, tôi nghe thấy tiếng một thằng bé thở gấp gáp đang chạy vội vã trên con đường này. Tôi kéo vài chạc thông để không ai nhìn thấy mình. Phelps lao qua, tay cầm chặt gói lạc Yorkie và một lon Tizer. (Chắc chắn hàng nhà ông Rhydd đã hết bia Top Deck). Phía sau những hàng thông hình như là một lối dẫn lên dốc. Mình biết hết các lối đi trong khu rừng này, tôi nghĩ thế. Nhưng không phải lối này. Khi Tom Yew đi, Grant Burch và Pete Redmarley sẽ tiếp tục khởi động lại trò Chó bull Anh. Nhưng đó không phải lý do chính để quay trở lại. Để biết lối đi này dẫn tới đâu, tôi đi theo.
Chỉ có một ngôi nhà trong rừng nên chúng tôi gọi nó là Ngôi nhà trong rừng. Nghe nói có một bà già sống trong căn nhà ấy nhưng tôi không biết tên, cũng chưa bao giờ thấy mặt. Ngôi nhà có bốn cửa sổ và một ống khói, giống như tranh vẽ của bọn trẻ con. Bao quanh căn nhà là bức tường gạch cao ngang đầu tôi, những bụi cây hoang mọc ngày càng cao. Những lần đánh trận giả của bọn tôi không bao giờ chạm tới căn nhà này. Không phải vì nó có câu chuyện ma nào hay chuyện gì khác. Đơn giản vì chỗ này không hợp với đánh trận giả.
Nhưng sáng nay căn nhà trông tươm tất và cửa khóa, tôi không hiểu có ai sống trong đó hay không. Hơn nữa bọng đái như muốn vỡ tung đến nơi, khiến tôi bớt cảnh giác. Vậy nên tôi tè thẳng vào bức tường còn đóng băng. Tôi vừa mới hoàn thành việc đánh dấu bằng thứ nước vàng bốc khói thì cánh cổng han gỉ mở ra, có tiếng rít khe khẽ, đứng đó là một bà già cáu kỉnh. Bà ta chỉ đứng đó và nhìn tôi chằm chằm.
— Chúa ơi! Cháu xin lỗi - Tôi kéo khóa quần, chờ bị quở mắng. Mẹ tôi sẽ lột da bất kỳ đứa nào đái vào hàng rào rồi cho nó vào thùng ủ phân. Tôi làm thế cũng phải chịu vậy - Cháu không biết có người sống ở...đây.
Bà già cáu kỉnh vẫn nhìn tôi.
Vài giọt nước nhỏ xuống quần lót của tôi.
— Ta và em trai sinh ra trong căn nhà này - rốt cuộc bà ta cũng lên tiếng, họng sệ xuống như họng thằn lằn - Chúng ta không có ý định chuyển đi.
— Ồ..., - tôi vẫn không chắc liệu bà ấy có sắp phun lửa vào mình không - Hay đấy ạ!
— Đám trẻ các cậu thật mất trật tự!
— Cháu xin lỗi.
— Cậu thật bất cẩn khi làm em ta thức giấc.
Miệng tôi như bị dán keo - Không phải mình cháu gây tiếng ồn. Thật đấy!
— Có những ngày - bà già vẫn không chớp mắt - em ta yêu bọn trẻ. Nhưng có những ngày như hôm nay, các cậu khiến ông ấy rất bực.
— Cháu đã nói cháu rất tiếc.
— Rồi các cậu sẽ thấy tiếc hơn - bà già trông có vẻ cáu - khi ông ấy tóm được các cậu.
Lúc này hình như những thứ vốn yên ắng lại nghe quá to, những thứ ồn ào thì lại chẳng nghe thấy gì.
— Ông ấy... ông ấy... đang đi vắng ạ? Bây giờ ấy? Ý cháu hỏi em của bà ấy?
— Phòng ông ấy vẫn y nguyên như khi ông ấy đi.
— Ông ấy bị ốm?
Bà ta hành động như thể chẳng nghe thấy tôi nói gì.
— Giờ cháu phải về nhà.
— Các cậu sẽ thấy tiếc hơn... - bà ta nhai rào rạo theo kiểu người già vẫn làm để nước dãi khỏi chảy ra - khi băng nứt ra.
— Băng? Ở trên hồ? Nó vẫn cứng.
— Các cậu luôn nói thế. Ralph Bredon cũng đã nói thế.
— Ông ấy là ai?
— Ralph Bredon. Con của người bán thịt.
Có vẻ không được ổn lắm - Cháu phải về bây giờ.
Bữa trưa ở số 9 Kinghsher Meadows, làng Thiên nga đen, Worcestershire có dăm bông Findus và bánh kếp giòn có pho mát, khoai tây miếng nướng lò và rau non. Rau non có mùi như thức ăn vừa bị nôn ra, nhưng mẹ bảo tôi phải ăn ít nhất năm miếng mà không kêu ca gì, nếu không sẽ chẳng có kẹo đun từ bơ và đường hiệu Angel Delight kẹp vào bánh pút-đinh. Mẹ bảo sẽ không để bàn ăn trở thành nơi xem xét những “bất bình của đám thanh niên”. Hồi trước Giáng sinh tôi hỏi mẹ việc không thích mùi rau non có liên quan gì đến “bất bình của đám thanh niên”. Mẹ cảnh cáo tôi dừng ngay việc làm Cậu học trò nhỏ thông minh. Lẽ ra phải im lặng nhưng tôi lại bảo rằng chẳng bao giờ ba bắt mẹ ăn dưa hấu (thứ mà mẹ ghét) và mẹ chẳng bao giờ bắt ba ăn tỏi (thứ mà ba ghét). Mẹ nổi đóa và đuổi tôi về phòng. Khi ba về tôi phải ngồi nghe một bài thuyết giảng về tính ngạo mạn.
Và tuần đó cũng chẳng có đồng tiêu vặt nào.
Thế nên vào bữa trưa nay, tôi xắt rau non thành những miếng thật nhỏ rồi rưới nước sốt cà chua lên - Ba ơi?
— Jason?
— Nếu ba chết đuối thì chuyện gì xảy ra với người ba?
Julia trợn mắt lên như chúa Giê-su bị đóng đinh trên thập giá.
— Đó là chủ đề không thích hợp trong bữa ăn - Ba nhai một nĩa đầy bánh kếp giòn có pho-mát - Mà sao con hỏi thế?
Tốt nhất không nên nói tới cái hồ đã đóng băng cứng - Dạ, trong quyển Phiêu lưu ở Bắc cực có hai anh em Hal và Roger Hunt bị tên xấu Kaggs săn đuổi, hắn bị rơi xuống...
Ba giơ tay lên ra hiệu - Đủ rồi - Hừm, theo quan điểm của ba thì tên Kaggs bị cá ăn thịt. Ăn sạch.
— Ở Bắc cực có cá hổ không hả ba?
— Cá ăn bất kỳ thứ gì đủ mềm. Mà này, nếu hắn rơi xuống sông Thames, người hắn chẳng tồn tại lâu đâu. Sông Thames luôn mang lại chết chóc.
Việc đánh lạc hướng của tôi coi như hoàn thành - Vậy nếu hắn rơi xuyên qua mặt băng xuống hồ, chuyện gì sẽ xảy ra với hắn? Hắn có bị đóng băng không?
— Đồ ấy - Julia rên rỉ - thật kỳ cục khi nhà mình ăn cơm, mẹ à.
Mẹ cuộn khăn ăn lại - Nhà Lorenzo Hussingtree vừa có gạch lát mới đấy, Michael. (Việc thắng được bà chị khiến tôi nở một nụ cười thắng lợi thật nhanh). Michael?
— Gì cơ, Helena?
— Em nghĩ trên đường tới Worcester bọn mình nên ghé qua phòng trưng bày của Lorenzo Hussingtree. Có gạch lát mới. Tinh tế lắm.
— Chẳng nghi ngờ gì, như thế thì Lorenzo Hussingtiee cũng sẽ đòi giá cả “tinh tế”?
— Nhà mình cũng đang thuê thợ. Vậy tại sao mình không làm việc một lần luôn cho tiện? Bếp nhà mình đang xuống cấp tới mức phát ngại.
— Helena, tại sao?
Đôi lúc Julia biết ba mẹ sẽ cãi nhau - Con xuống nhà được không ạ?
— Con yêu - mẹ có vẻ thực sự bị tổn thương - còn kẹo đun từ bơ và đường Angel Delight.
— Mẹ yêu, đêm nay con ăn được không? Con phải ôn lịch sử về Robert Peel và Whigs thời Khai sáng. Với lại đồ ấy làm con ăn mất ngon rồi.
— Uống đầy rượu vang hồng Cadbury với Kate Alfrick - tôi phản công - mới làm chị ăn không ngon.
— Thế sô-cô-la cam của hàng Terry đi đâu, đồ ấy?
— Julia, mẹ thở dài - Mẹ mong con đừng gọi Jason như vậy. Con chỉ có một đứa em trai thôi mà.
Julia bảo “Một là quá nhiều” rồi đứng dậy.
Ba nhớ ra điều gì đó - Ai trong hai con đã vào văn phòng?
— Không phải con - Julia ngập ngừng dừng lại ở cửa, như đã đánh hơi thấy mùi máu - Chắc là đứa em trai thật thà, dễ bảo, dễ mến của con rồi!
Sao ba biết nhỉ?
Đó là câu hỏi đơn giản. Ba đã có bằng chứng rõ ràng. Người lớn duy nhất lừa gạt trẻ con mà tôi biết là Nixon - thầy hiệu trưởng.
Cái bút chì! Khi Dean Moran bấm chuông tôi đã để lại nó trong chiếc gọt bút chì. Moron chết tiệt! - Điện thoại của ba reo lâu lắm, phải bốn hay năm phút, nói thật, nên...
— Quy định - ba không quan tâm - về việc không vào văn phòng của ba thế nào?
— Nhưng con nghĩ có chuyện khẩn cấp nên nhấc máy và có...Gã treo cổ chặn mất từ “một số”...một người ở đầu kia nhưng...
— Ba tin - lòng bàn tay của ba cho thấy tín hiệu dừng ngay - Ba chỉ hỏi con một câu thôi.
— Vâng, nhưng...
— Ba chỉ hỏi con câu hỏi nào?
Rồi Julia có một câu nói thật lạ - Thế thật buồn cười.
— Ba chẳng thấy ai cười cả.
— Không, vào ngày Boxing, ba và mẹ đưa đồ ấy đi Worcesters, chuông điện thoại trong văn phòng reo. Nó reo rất lâu nên con không thể tập trung ôn bài được. Con tự bảo mình rằng đó không phải cú điện gọi từ nhân viên cứu thương đang tuyệt vọng hay cái gì đó thì nó càng có vẻ vậy. Cuối cùng nó khiến con phát điên. Con nói “Alô” nhưng họ chẳng nói gì, nên con gác máy, phòng trường hợp bên kia là kẻ đồi bại.
Ba đã im lặng nhưng nguy hiểm vẫn chưa qua.
— Chuyện đó giống hệt con - tôi bạo dạn - Nhưng con không dập máy ngay vì con nghĩ có thể họ không nghe tiếng con. Có tiếng của trẻ con không, Julia?
— Thôi được rồi, cả hai con làm thám tử tư thế đủ rồi. Nếu kẻ đùa cợt nào đó có những cuộc gọi khó chịu, ba không muốn hai con trả lời. Nếu chuyện ấy xảy ra lần nữa, ba sẽ rút dắc ra. Hiểu chứ?
Mẹ chỉ ngồi yên lặng. Có vẻ chẳng ổn chút nào.
“Có nghe ba nói không?”, câu hỏi của ba như một viên gạch ném thẳng vào cửa sổ. Cả tôi và Julia như nhảy dựng lên - Có, thưa ba.
Ba, mẹ và tôi ăn kẹo đun từ bơ và đường Angel Delight mà không ai nói lời nào. Tôi còn chẳng dám nhìn ai. Tôi không thể xin phép xuống nhà vì Julia đã làm thế rồi. Lý do tôi im lặng thì đã rõ. Nhưng có Chúa mới biết tại sao ba và mẹ lại im lặng với nhau như vậy. Sau khi ăn thìa kẹo cuối cùng, ba lên tiếng - Cám ơn em yêu, anh và Jason sẽ rửa bát đĩa, được không Jason?
Mẹ chỉ bảo “Không có gì” rồi đi lên gác.
Ba rửa bát đĩa và ậm ừ một bài hát chẳng có nội dung gì. Tôi bỏ những đĩa bát bẩn vào ngăn bồn rửa rồi vào bếp lau các thứ cho khô. Lẽ ra tôi cần yên lặng nhưng tôi nghĩ mình có thể làm ngày hôm nay bình thường và an toàn khi nói điều phù hợp - Ba có nghe tiếng - Gã treo cổ thích làm tôi đau khổ vì từ này - sơn ca trong tháng giêng không? Sáng nay con nghe thấy tiếng chim trong rừng đấy.
Ba đang lấy ngón tay cạy gì đó trong chiếc chảo - Làm sao ba biết được?
Tôi tiếp tục. Thông thường ba thích nói chuyện về tự nhiên - Con chim đó ở chỗ ông hấp hối. Ba bảo đó là chim sơn ca.
— Hừ, thật lạ là con nhớ điều đấy - Ba nhìn qua ô cỏ sau nhà, xoáy vào những cột băng ở căn nhà nghỉ hè. Rồi ba nói như thể đang tham dự cuộc thi Người đàn ông đau khổ nhất thế giới năm 1982: “Hãy chỉ tập trung vào mấy cái cốc đó đi Jason, trước khi đánh rơi cái nào đó”. Rồi ba bật kênh 2 đài phát thanh để nghe dự báo thời tiết và bắt đầu dùng kéo cắt Sách hướng dẫn đi đường năm 1981. Ba mua Sách hướng dẫn đi đường 1982 ngay từ khi mới xuất bản. Đêm nay nhiệt độ ở cả vùng British Isles[11] sẽ xuống dưới 0°C. Những lái xe ở Scotland và phía Bắc cần cảnh giác với băng trên đường còn ở vùng Midlands dự báo sẽ có sương giá lan rộng.
Trở về phòng, tôi chơi Games of life nhưng một mình đóng vai cả hai người chơi chẳng thích thú chút nào. Cô bạn Kate Alfrick đã gọi Julia đi ôn bài. Nhưng họ chỉ tán gẫu về chuyện ở lớp 6[12] ai hẹn hò với ai, rồi chơi trò cảnh sát. Hàng tỷ vấn đề của tôi cứ trồi lên hụp xuống như thể xác người trong thành phố bị lụt vậy. Nào là chuyện ba với mẹ lúc ăn trưa. Gã treo cổ gây trở ngại cho việc phát âm. Đến mức này tôi chắc phải học ngôn ngữ cử chỉ. Rồi Gary Drake và Ross Wilcox. Thực ra chưa bao giờ chúng là bạn tốt nhất của tôi, nhưng hôm nay chúng bắt tay nhau chống tôi. Neal Brose cũng vậy. Cuối cùng, bà già cáu kỉnh trong rừng làm tôi lo ngại. Sẽ thế nào đây?
Ước gì có lỗ nào mà chui, bỏ lại tất cả những thứ đó sau lưng. Tuần tới tôi sẽ 13 tuổi nhưng có vẻ 13 tệ hơn 12. Julia không ngớt mồm kêu ca vì đã 18 tuổi nhưng 18 tuổi, tuyệt chứ, từ hoàn cảnh tôi mà nhìn thì thế. Không bị quy định giờ đi ngủ, tiền tiêu vặt tăng gấp đôi, và khi 18 tuổi, chị ấy lại còn được đến hộp đêm Tanya ở Worcester với cả ngàn lẻ một đứa bạn. Hộp đêm Tanya có dàn đèn la-de cho sàn disco duy nhất ở châu Âu! Cái đó mới tuyệt làm sao?
Ba đã lái xe một mình rời Kingfisher Meadows.
Mẹ vẫn trong phòng, càng ngày mẹ càng ở trong phòng nhiều hơn.
Tự cho mình vui lên, tôi đeo chiếc đồng hồ Omega của ông. Vào ngày lễ Boxing, ba gọi tôi vào văn phòng và bảo muốn trao cho tôi một vật quan trọng do ông để lại. Ba đã giữ chiếc đồng hồ cho đến khi tôi đủ lớn để tự bảo quản nó. Đó là đồng hồ đeo tay, hiệu Omega Seamaster DeVille. Năm 1949, ông đã mua nó từ một người Ả rập, ở một cảng có tên Aden. Aden là cái tên Ả rập, một thời thuộc Anh. Ngày nào ông cũng đeo chiếc Omega, đến tận lúc mất. Điều đó làm nó đặc biệt chứ không đáng sợ. Mặt đồng hồ làm bằng bạc, to cỡ đồng 50 xu nhưng nó chỉ mỏng như một miếng nhựa. “Dấu hiệu của một chiếc đồng hồ tuyệt hảo là độ mỏng của nó. Không phải thứ đồ nhựa mà bọn thanh niên, thiếu niên ngày nay đeo để khoe mẽ đâu” ba nói với giọng đầy trang nghiêm.
Nơi tôi giấu chiếc Omega là một nơi thật kín, độ an toàn chỉ xếp sau hộp chơi cờ ca-rô trên lớp ván sàn. Dùng con dao Stanley, tôi khoét cuốn sách có tên Cách đi rừng cho các cậu bé và đặt nó trên giá sách của tôi giữa các cuốn khác. Julia thường rình mò, nhòm ngó phòng tôi nhưng chưa bao giờ phát hiện chỗ cất giấu ấy. Tôi biết bởi phía cuối cuốn sách tôi đã nhét một đồng 50 xu để đánh dấu. Hơn nữa nếu Julia biết, chắc chắn bà ấy sẽ bắt chước ý tưởng tuyệt vời của tôi. Tôi đã xem giá sách của Julia xem có gáy sách giả nào không nhưng chẳng hề thấy.
Tôi nghe thấy tiếng xe hơi lạ ở bên ngoài. Một chiếc VW Jetta đang bò dọc lề đường như thể người lái đang tìm số nhà. Đến ngõ cụt nhà tôi, lái xe - là một phụ nữ - lùi và tiến để quay đầu, bị chết máy một lần rồi lái ra khỏi Kingfisher Meadows. Lẽ ra tôi nên ghi nhớ biển số xe, phòng khi nó có trong danh sách truy nã của cảnh sát.
Trong số các ông bà của tôi, ông nội là người mất sau cùng và ông cũng là người duy nhất tôi nhớ, nhưng không nhiều lắm. Những con đường cho chiếc xe đồ chơi Corgi của tôi được vẽ ở lối vào vườn của ông. Xem phim Thunderbirds (Thần điểu) trong lều của ông ở Grange-over-Sands và uống loại nước có ga tên Bồ công anh Trung Quốc và Ngưu bàng.
Tôi lên dây cho chiếc Omega đã chết và chỉnh kim cho chỉ hơn 3 giờ.
Thằng em sinh đôi chưa hề ra đời[13] thì thầm “Hãy ra hồ”.
Một cành cây đu làm con đường chạy xuyên qua rừng hẹp lại một chút. Ngồi trên mẩu cây ấy là Squelch. Tên thật của Squelch là Mervyn Hill nhưng một lần chúng tôi thay đồ để học thể dục, nó tụt quần xuống và chúng tôi thấy nó vẫn đóng bỉm trong khi nó đã 9 tuổi rồi. Grant Burch là kẻ đặt biệt danh Squelch và thời điểm nó được gọi là Mervyn đã xưa lắm rồi. Việc thay con ngươi còn dễ dàng hơn nhiều so với thay biệt hiệu của mình.
Squelch đang vuốt cái gì đó có lông màu xám nhạt đặt trên khuỷu tay gập lại - Người tìm được là kẻ giữ, người mất là kẻ khóc.
— Được rồi, Squelch. Thế mày có cái gì vậy?
Squelch nhe mấy cái răng xỉn:
— Không cho xem đâu.
— Thôi nào. Cho chúng tao xem được mà.
Squelch lầm bầm - KitKat[14].
— KitKat? Một thanh sô-cô-la?
Squelch cho tôi nhìn thấy đầu một con mèo đang ngủ - Mèo con! Người tìm được là kẻ giữ, người mất là kẻ khóc.
— Ôi! Một con mèo! Mày thấy nó ở đâu thế?
— Bên hồ. Lúc trời vừa sáng, khi chưa có bất kỳ ai ra hồ. Tao đã giấu nó trong một cái hộp khi cả bọn chơi trò Chó bull Anh.
— Sao mày không cho ai xem?
— Vì bọn ác Burch, Swinyard với Redmarley sẽ bắt mất nó ngay chứ sao! Người tìm được là kẻ giữ, người mất là kẻ khóc. Tao đã giấu nó đi. Bây giờ tao quay lại.
Với Squelch thì chẳng biết thế nào - Nó nằm im, phải không?
Squelch chỉ hít hà con mèo.
— Tao bế nó được không, Merv?
— Nếu mày không mở mồm với ai - Squelch nhìn tôi hồ nghi - mày có thể vuốt ve nó. Nhưng phải bỏ găng tay ra, điệu quá.
Tôi bỏ đôi găng tay thủ môn và tiến đến sờ vào con mèo.
Squelch ném con mèo sang tôi - Bây giờ nó là của mày rồi nhé!
Ngạc nhiên, tôi ôm lấy nó.
— Của mày - Squelch chạy về làng, vừa chạy vừa cười - Của mày!
Con mèo đã lạnh và cứng như một miếng thịt trong tủ lạnh. Đến lúc này tôi mới nhận thấy rằng nó đã chết. Tôi thả tay ra và nó rơi uỵch xuống.
— Người tìm được - tiếng Squelch vọng lại - là kẻ giữ.
Dùng hai chiếc que, tôi nâng con mèo đưa vào một ụ tuyết.
Nó vẫn nằm yên. vẻ đẹp cao quý. Tôi đoán là nó chết trong đợt băng giá đêm qua.
Những gì đã chết cho ta thấy một ngày ta sẽ thế nào.
Không có ai ra mặt hồ đóng băng, tôi nghĩ thế. Và cũng chẳng có linh hồn nào. Trên tivi đang chiếu Siêu nhân 2 (Superman 2), tôi đã xem phim này ở rạp Malvern vào sinh nhật Neal Brose cách đây ba năm. Phim không tệ nhưng không đáng làm tôi bỏ chiếc hồ đóng băng lúc này. Clark Kent đã từ bỏ quyền lực chỉ để được ngủ với Lois Lane trên chiếc giường tráng lệ. Ai lại đánh đổi ngu ngốc thế chứ? Nếu tôi có thể bay thì sao nhỉ? Sẽ làm chệch hướng các tên lửa hạt nhân cho chúng bay lên trời? Cho thời gian trở lại bằng cách xoay trái đất theo hướng ngược lại? Khi không có đứa nào khác nhìn, tôi chẳng ngã lần nào. Tôi cứ trượt vòng quanh hồ ngược chiều kim đồng hồ, như viên đá ở đầu một sợi dây. Những cành cây phía trên cố xòe ngón chạm lấy đầu tôi. Đám quạ kêu inh ỏi, cũng như những người già vốn thường quên rằng tại sao mình lên gác.
Một kiểu thôi miên.
Chiều đã xuống và bầu trời đã trở lại khoảng không bao la thì tôi nhìn thấy một thằng bé trên hồ. Nó trượt cùng với tốc độ của tôi, cùng theo vòng như tôi nhưng luôn ở phía bên kia hồ. Nên nếu tôi ở 12 giờ thì nó ở 6 giờ. Khi tôi ở 11 giờ, nó ở 5, và cứ thế, luôn ngang nhau. Ban đầu tôi nghĩ đây là một đứa trong làng đi lêu lổng. Tôi còn nghĩ đó là Nick Yew vì trông nó chắc nịch. Nhưng điều lạ lùng là nếu tôi nhìn thẳng thằng bé này lâu một chút, bóng tối sẽ nuốt lấy nó ngay. Một đôi lần tôi nghĩ nó đã về nhà. Nhưng chỉ sau nửa vòng hồ, nó đã trở lại, ngay trong tầm nhìn của tôi. Một lần tôi trượt ngang hồ để chặn nó, thằng bé biến mất trước khi tôi tới hòn đảo nằm giữa hồ. Khi tôi tiếp tục trượt vòng quanh hồ, nó lại xuất hiện.
“Về nhà đi”, Maggot[15] trong người tôi bảo. “Nhỡ nó là ma thì sao?”
Thằng em sinh đôi chưa hề ra đời không chịu Maggot: “Nó là ma thì đã sao?”
— Nick - tôi gọi, giọng tôi nghe như trong nhà - Nick Yew à?
Thằng bé vẫn tiếp tục trượt.
Tôi gọi - Ralph Bredon?
Mất cả vòng trượt, câu trả lời của nó mới đến tai tôi.
Con của người bán thịt.
Nếu một bác sĩ bảo tôi rằng thằng bé chỉ do tôi tưởng tượng ra, những lời nói do tôi nghĩ ra, tôi sẽ chẳng cãi. Nếu Julia bảo tôi đang tự thuyết phục rằng Ralph Bredon ở đó để tôi thấy mình đặc biệt hơn, tôi sẽ chẳng cãi. Nếu một người nghiên cứu những vấn đề thần bí bảo tôi rằng một thời điểm cụ thể tại một nơi cụ thể có thể như một ăng-ten quét những vết tích lờ mờ của những người đã chết.
— Trời thế nào? - Tôi hỏi - có lạnh không?
Lại mất cả vòng trượt nữa, câu trả lời của nó mới đến tai tôi.
Cậu đã quen với cái lạnh.
Hay những đứa trẻ chết đuối những năm qua không thích tôi trượt trên mái nhà của chúng? Chúng muốn bọn trẻ rơi xuyên qua lớp băng? Chúng muốn có bạn? Chúng ghen tức với bọn đang sống? Thậm chí với tôi?
Tôi lại gọi to - Nói với tớ được không? Nói cho tớ xem thế nào!
Mặt trăng đã bơi vào chiếc hồ trên bầu trời.
Chúng tôi trượt một vòng nữa.
Một con cú vỗ cánh bay thấp ngang hồ.
— Này - tôi gọi - Cậu có nghe thấy tớ không? Tớ muốn biết...
Băng hất tung chân tôi. Trong một khoảnh khắc, tôi lơ lửng trên không ở độ cao nào đó. Bruce Lee[16] ra đòn đá karate cao tầm đó. Tôi biết mình sẽ chẳng rơi nhẹ nhàng nhưng không nghĩ rằng cú va đập lại đau như vậy. Cảm giác đau như bị gãy làm tê dại từ mắt cá tới quai hàm và các khớp của tôi, giống như một viên nước đá rơi tõm xuống khối mềm ấm. Không, phải lớn hơn viên đá. Một chiếc gương rơi từ độ cao của trạm vũ trụ không gian. Chỗ nó chạm vào trái đất, vỡ các mảnh sắc nhọn và các hạt không nhìn thấy được chính là mắt cá của tôi.
Tôi lảo đảo, cả người trượt về phía ven hồ, người run bắn lên.
Giờ đây, tất cả những gì tôi có thể làm là nằm yên, chịu cái đau khủng khiếp. Ngay cả đô vật khổng lồ Haystack cũng sẽ phải thút thít: “Đồ xấu xa độc ác” còn tôi thì thở hổn hển cố ngăn nước mắt: “Đ...đ...đ...đồ xấu xa đ...đ...độc ác”. Qua hàng cây cứng cáp, tôi có thể nghe thấy tiếng người ngoài con đường chính nhưng chẳng có cách nào giúp tôi đi bộ ra xa thế. Tôi cố đứng dậy nhưng rồi lại ngã nện mông xuống đất, chịu thêm cái đau khác và không thể cử động. Tôi sẽ chết vì viêm phổi nếu cứ ở đây. Nhưng tôi chẳng biết mình phải làm gì.
— Cậu - bà già cáu kỉnh thở dài. - Chúng ta đoán cậu sẽ sớm đến gõ cửa lần nữa mà.
— Cháu bị đau - giọng của tôi như méo đi - Mắt cá cháu bị đau.
— Ta thấy rồi.
— Cháu chết mất.
— Ta cũng dám nói thế.
— Cháu gọi nhờ điện thoại cho ba cháu đến đón được chứ?
— Chúng ta không thích điện thoại.
— Bà đi gọi người giúp cháu được không? Làm ơn được không ạ?
— Chúng ta không bao giờ rời khỏi nhà. Không phải vào ban đêm. Không phải nơi này.
— Làm ơn đi - cơn đau lại dội lên như tiếng ghi-ta điện - Cháu không đi nổi.
— Ta biết về xương khớp. Tốt nhất cậu nên vào trong nhà.
Trong nhà lạnh hơn bên ngoài, then cửa chốt vào, khóa bập lại - Cậu đi xuống phòng khách - bà già khó tính nói. Ta sẽ trở lại ngay khi chuẩn bị xong thuốc chữa cho cậu. Nhưng dù làm bất kỳ điều gì, tôi cần yên lặng. Cậu sẽ hối tiếc nếu đánh thức ông em của ta.
— Vâng..., tôi liếc nhìn đi chỗ khác - Lối nào xuống phòng khách hả bà?
Nhưng bóng tối lại trùm xuống, bà già khó tính đã đi khỏi.
Phía dưới lối đi có một vệt sáng mờ, nên tôi tập tễnh theo hướng đó. Có Chúa mới hiểu được với mắt cá chân đau như thế này tôi có thể đi bộ thế nào trên con đường vòng vèo đầy rễ cây từ chiếc hồ đóng băng. Nhưng tôi đã phải hoàn thành công việc ấy để tới đây. Tôi đi qua một số bậc cầu thang, ánh trăng len lỏi đủ cho tôi nhận thấy một bức ảnh cũ treo trên tường. Một chiếc tàu ngầm ở bến cảng trông giống như Bắc cực. Các thủy thủ đứng trên boong, tất cả đang vẫy chào. Tôi bước tiếp. Vệt sáng mờ chẳng thấy gần hơn.
Phòng khách chỉ lớn hơn chiếc tủ quần áo một chút, chất đầy các thứ đồ đáng để ở bảo tàng. Một chiếc lồng vẹt trống không, một chiếc máy cán là, một chiếc chạn hình tháp, một lưỡi hái. Tất cả đều là đồ cũ bỏ đi. Một bánh xe đạp cong queo, một chiếc giày đá bóng lấm đầy bùn đất. Một đôi giày trượt băng cổ lỗ treo trên giá móc áo khoác. Chẳng có thứ gì hiện đại. Chẳng có lửa. Chẳng có thứ gì dùng điện trừ một bóng điện màu nâu trơ trọi. Những cây đầy lông đâm các rễ bợt màu khỏi những chiếc chậu nhỏ xíu. Chúa ơi, lạnh quá! Chiếc ghế sô-pha lún xuống dưới người tôi và xì...xì...Một cửa treo rèm làm bằng những hạt được xâu thành chuỗi. Tôi gắng tìm một chỗ ngồi cho mắt cá đỡ đau nhưng chẳng thấy.
Thời gian vẫn trôi...
Bà già khó tính bưng một chiếc bát trong tay, tay kia cầm một chiếc cốc đục - Cậu cởi tất ra.
Mắt cá chân của tôi sưng phồng và mềm ra. Bà già dựng một bắp chân tôi tì lên ghế rồi quỳ bên cạnh. Váy của bà kêu sột soạt. Ngoài máu chảy ở tai và hơi thở đứt quãng của tôi, chẳng còn âm thanh nào khác. Rồi bà thò một tay vào chiếc bát và bôi thứ nhão như bột mì vào mắt cá tôi.
Mắt cá tôi giật lên.
— Đây là một loại thuốc đắp - bà già khó tính giữ lấy cẳng chân tôi - để làm tan chỗ sưng.
Thuốc đắp hơi ngứa nhưng chỗ đau của tôi quá ghê, tôi lại đang quá vất vả để chống chọi với cái lạnh. Bà già khó tính bôi tiếp thứ thuốc cho tới khi mắt cá chân tôi được bọc kín. Bà đưa cho tôi chiếc cốc đục và nói - Uống thứ này!
— Nó có mùi...bánh hạnh nhân.
— Nó là thứ để uống, không phải để ngửi!
— Nhưng nó là cái gì?
— Nó giúp khỏi đau đớn.
Sắc mặt bà ấy cho thấy tôi không được quyền lựa chọn. Tôi uống một hơi hết sạch thứ thuốc lỏng như uống sữa ma-giê vậy. Nó có mùi xi-rô đặc nhưng lại không có vị như thế. Tôi hỏi - Em trai bà đang ngủ trên gác phải không?
— Ông ấy còn ở đâu khác nữa, Ralph? Bây giờ thì yên lặng đi!
— Tên cháu không phải là Ralph - tôi nói với bà nhưng hình như bà chẳng hề nghe thấy, cố gắng xóa những hiểu lầm sẽ là nỗ lực quá sức. Bây giờ tôi không di chuyển, tôi chẳng thể chống lại cái lạnh nữa. Điều buồn cười là khi tôi đã chịu thua, thì một giấc ngủ lơ mơ thật tuyệt kéo tôi xuống. Tôi thấy ba, mẹ và Julia ngồi xem Chương trình ảo thuật của Paul Daniels nhưng gương mặt của họ tan ra, như những hình hiện trên đáy thìa.
Cái lạnh khiến tôi tỉnh dậy. Tôi không biết mình là ai, đang ở đâu, mấy giờ rồi. Hai tai như bị cắn, và tôi có thể nhìn thấy hơi thở của mình. Tôi nhìn thấy một bát sứ đặt trên ghế, mắt cá chân tôi được bọc một lớp gì đó cứng và có mùi hôi. Rồi tôi nhớ lại tất cả và ngồi dậy. Cảm giác đau đớn ở chân tôi đã hết nhưng đầu thì chưa ổn, như thể có con quạ bay vào nhưng chẳng thể bay ra được. Tôi lau chỗ thuốc đắp khỏi chân bằng một chiếc khăn tay buộc nút. Không thể tin nổi, mắt cá chân tôi có thể xoay đi xoay lại, khỏi hoàn toàn như có phép thần vậy. Tôi kéo tất và giày lên rồi đứng dậy, kiểm tra khả năng chịu sức nặng của mình. Chỉ hơi đau một chút (nhưng chẳng qua là tôi cố nghĩ rằng có). Tôi hướng về phía cửa che rèm và lên tiếng - Xin chào!
Nhưng không có câu trả lời. Tôi rẽ đám hạt nhăn nheo và bước vào căn bếp nhỏ xíu có một bồn rửa bằng thép và một lò nướng rất to, đủ cho một đứa trẻ chui vào. Cửa bếp vẫn để mở nhưng bên trong tối đen. Tôi muốn cảm ơn bà già khó tính vì đã chữa mắt cá chân cho tôi.
“Phải chắc chắn là cửa sau mở”, Thằng em chưa hề ra đời cảnh cáo.
Nhưng cửa không mở. Cả cửa sổ có khung kính trượt và bám đầy tuyết cũng vậy. Các chốt và bản lề đã được sơn từ rất lâu nên muốn mở ít ra phải cần đến một cái đục. Tôi tự hỏi lúc này là mấy giờ rồi liếc nhìn chiếc Omega của ông để lại, nhưng căn bếp nhỏ và tối quá nên không nhìn thấy gì. Có khi là gần đêm? Tôi sẽ về nhà, chén trà được đậy bằng một chiếc đĩa Pyrex đang đợi tôi. Ba và mẹ sẽ bực phát điên nếu tôi không về đúng giờ uống trà. Hay bây giờ là nửa đêm? Hay cảnh sát đã được thông báo? Chúa ơi! Hay là tôi đã ngủ hết một ngày và qua cả đêm hôm sau? Tờ Malvern Gazetteer và Midlands today đã đăng ảnh chụp tôi ở trường và kêu gọi các nhân chứng cung cấp thông tin. Chúa ơi! Squelch sẽ nói đã thấy tôi đi ra hồ đóng băng. Lúc này có thể những người nhái đang lặn tìm tôi ở hồ.
Đó là một giấc mơ tệ hại.
Không, còn tệ hơn thế. Khi tôi trở lại phòng khách, nhìn chiếc Omega và biết rằng chẳng thể biết được giờ nữa. Giọng tôi run run “Không!!!”. Mặt kính, kim giờ và kim phút đã biến mất, chỉ còn lại kim giây cong queo. Chắc chắn điều này xảy ra khi tôi ngã xuống mặt băng. Vỏ của nó đã nứt, một nửa bộ phận bên trong lòi ra ngoài.
Suốt bốn mươi năm qua, chiếc Omega của ông chưa khi nào hỏng, thế mà chưa tới nửa tháng, tôi đã phá hỏng nó.
Run rẩy vì sợ, tôi bước lên lối đi và leo lên các bậc thang. “Xin chào?” Nhưng vẫn yên lặng như đêm Kỷ băng hà. “Cháu phải đi!” Nỗi lo về chiếc đồng hồ Omega còn át cả sự sợ hãi về việc ở trong căn nhà này, nhưng tôi vẫn không dám hét lên vì sợ sẽ làm em của bà già tỉnh giấc. “Bây giờ cháu phải về!”, tôi nói, giọng to hơn một chút. Vẫn không có ai trả lời. Tôi quyết định chỉ ra bằng cửa trước. Ban ngày tôi sẽ quay lại để cám ơn bà ấy. Chốt cửa trượt ra khá dễ nhưng cái khóa kiểu cổ lại là chuyện khác. Nếu không có chìa khóa thì không mở được cửa. Thế đấy! Tôi sẽ phải lên gác gọi bà già dậy để mượn chìa khóa, nếu bà ấy khó chịu chắc cũng không đến nỗi. Cần phải làm gì đó, với thảm họa hỏng đồng hồ. Chúa biết phải làm gì, nhưng tôi không thể làm gì trong Căn nhà trong rừng.
Cầu thang cong hơn và dốc hơn. Tôi phải dùng hai tay bám lấy các bậc phía trên cho khỏi ngã. Làm thế nào mà bà già đi lên đi xuống được với chiếc váy rộng nhỉ. Cuối cùng, tôi cũng lê được người lên mặt sàn có hai cửa. Một cửa sổ hẹp để lọt vào tia sáng le lói. Phía bên phải là cửa phòng của bà già khó tính, cửa kia là của phòng ông em.
Bên trái có những sức mạnh mà bên phải không có, vì vậy tôi siết nắm đấm sắt của cánh cửa bên trái. Nó hút hơi ấm của bàn tay, cánh tay và máu của tôi.
Kít...kít.
Tôi cứng cả người.
Két...két.
Một con bọ thức đêm trông người chết? Chuột trên gác xép? Ống nước lạnh bị co lại?
Phòng nào có tiếng “kít, kít” đó phát ra?
Nắm cửa sắt phát ra tiếng kêu két két khi tôi xoay nó.
Ánh trăng xuyên qua lớp rèm bám tuyết rọi vào khiến cho căn phòng áp mái sáng lên. Tôi đã đoán đúng. Bà già khó tính đắp một cái chăn, bộ răng giả để trong cái lọ bên giường, im như một bà quận chúa tạc bằng cẩm thạch đặt trong mộ nhà thờ. Tôi lê chân qua sàn, lo lắng vì có thể làm bà thức giấc. Liệu b?