← Quay lại trang sách

Ma quỷ

Thế là tôi đã ở đây, buộc dây sợi vào búa gõ cửa nhà ông Blake, vừa làm vừa sợ. Búa gõ cửa là một con sư tử bằng đồng đang gầm. Đây là kẻ vụng về nên đi ngủ. Còn đây là con sư tử sẽ cắn cụt đầu hắn ta. Phía sau tôi, trên sân chơi, Ross Wilcox có ý để tôi hoàn thành việc ấy. Dawn Madden ngồi cạnh nó trên khung gỗ cho trẻ con leo, cái đầu đẹp đẽ của nó được ánh đèn đường chiếu sáng. Ai mà biết được nó đang nghĩ gì. Gilbert Swinyard và Pete Redmarley thì từ từ xoay cái mũ phù thủy và theo dõi việc làm của tôi. Trên đỉnh của ván bập bênh là Dean Moran, phía thấp là Pluto Noak. Điếu thuốc của hắn đang cháy đỏ. Pluto Noak chính là lý do khiến tôi làm việc này. Lúc ông Blake thu quả bóng sau khi Gilbert Swinyard sút nó vào vườn trước của ông ấy, Pluto Noak bảo “Nếu mày hỏi, tao sẽ bảo rằng lão già ấy đáng bị (hắn liếm môi để chọn từ) chọn gõ cửa”. Chọn gõ cửa nghe có vẻ tử tế nhưng vẻ tử tế thường che đậy sự hỗn láo. Gõ cửa rồi bỏ chạy trước khi nạn nhân kịp trả lời có vẻ là trò nghịch ngợm vô hại. Nhưng chọn gõ cửa lại có ý thế này Chúng ta là gió, hay trẻ con, hay chúng ta đến đế giết ngươi khi vẫn nằm trong giường? Nó sẽ có ý Trong tất cả các nhà trong làng, tại sao nhà của ngươi trở thành mục tiêu?

Hỗn láo thật.

Hoặc nguyên nhân là Ross Wilcox. Nếu nó không mút lưỡi Dawn Madden thì tôi đã bỏ về nhà từ khi nghe Pluto Noak nói đến chuyện chọn gõ cửa. Thế thì tôi đã không khoe khoang về việc ông anh họ Hugo buộc một đầu dây sợi vào búa gõ cửa và khiến nạn nhân tức điên khi anh ấy giật nó từ khoảng cách an toàn.

Lúc đó Wilcox cố phản bác ý tưởng ấy - Họ sẽ nhìn thấy sợi dây.

— Không - tôi cãi - sẽ không thế nếu mày dùng dây đen và sau khi giật thì thả cho nó lỏng, nó sẽ nằm trên mặt đất.

— Làm thế nào mà mày biết, Taylor? Mày chưa bao giờ làm thế.

— Tao làm thật rồi mà, ở nhà anh họ của tao. Ở Richmond.

— Richmond ở chỗ chó nào?

— Gần sát London. Mà trò đó hay lắm.

— Chắc thành công đấy - Pluto Noak nói - khó nhất là buộc dây lúc đầu.

— Khó chơi lắm đấy - Dawn Madden mặc quần jeans kiểu da rắn - sẽ thế đấy.

— Không - tôi dính chân vào - chuyện nhỏ thôi.

Nhưng buộc dây vào búa gõ cửa dù mình vụng về có nghĩa là chết chỉ là chuyện nhỏ. Ông Blake đang xem Bản tin 9 giờ. Từ cửa sổ bay ra mùi hành rán và tin về cuộc chiến ở Beirut. Có tin đồn ông Blake có một khẩu súng hơi. Trước đây ông ấy làm việc cho nhà máy sản xuất thiết bị khai mỏ ở Worcester nhưng bị sa thải, từ đó không làm việc nữa. Vợ ông ấy chết vì bệnh bạch cầu. Martin, con trai ông ấy bây giờ khoảng 20 tuổi nhưng một đêm (Kelly Moran kể vậy), hai bố con đánh nhau và từ đó người ta không còn thấy anh ta xuất hiện nữa. Ai đó đã nhận được một lá thư từ giàn khai thác dầu ngoài biển Bắc, một lá khác từ nhà máy đóng hộp ở Alaska.

Cái đó không quan trọng, Pluto Noak, Gilbert Swinyard và Pete Redmarley đều chẳng đủ can đảm nên bọn chúng bất ngờ khi tôi bảo mình sẽ buộc dây. Nhưng những ngón tay tôi run cầm cập như tay bà lão.

Xong rồi.

Cổ họng tôi khô đắng.

Hết sức cẩn thận, tôi hạ búa gõ cửa xuống con sư tử đồng.

Điều sống còn lúc này là không được để hỏng việc, không được hoảng sợ, không được nghĩ xem ông Blake và ba mẹ sẽ xử thế nào nếu tôi bị bắt.

Tôi rút lui, cố gắng không để làm sỏi đá trên lối đi phát tiếng kêu, tay nhả dần ống dây.

Những cây cổ thụ của ông Blake tạo bóng tối trông như những con hổ.

Những bản lề han gỉ trên cánh cổng kêu như tiếng kính vỡ.

Cửa sổ nhà ông Blake đột ngột mở bung.

Một khẩu súng hơi thò ra và một viên đạn bắn trúng cổ tôi

Chỉ khi tiếng từ tivi tắt hẳn tôi mới nhận ra rằng cửa sổ đã đóng sập lại. Viên đạn hẳn phải là một con bọ bay hay cái gì đó - Lão ấy chắc đã nhìn thấy mày khi cửa sổ mở - Ross Wilcox gầm gừ khi tôi trở lại khung gỗ cho trẻ con leo - Trông như mày sợ ỉa ra quần rồi.

Nhưng chẳng có đứa nào khác chêm vào.

Pete Redmarley nhổ bọt - Ít ra nó cũng làm được rồi, Wilcox.

— Mày phải - Gilbert Swinyard khạc đờm - lấy hết can đảm đấy nhỉ.

Dean Moran bảo - Làm tốt, Jace.

Bằng thần giao cách cảm, tôi nói với Dawn Madden.

>- Giải lao, thằng nhóc - Puto Noak nhảy khỏi cầu trượt và Moran ngã nhào xuống, ngã vào đất và kêu oai oái - Đưa sợi dây đây, Jason. (Lần đầu tiên nó gọi tôi bằng một danh từ khác ngoài “Taylor” và “mày”). Chúng ta hãy gọi lão già ngu xuẩn một lần.

Phấn khởi vì sự ca ngợi của nó, tôi đưa ống dây.

— Để bọn tao trước, Ploot - Pete Redmarley nói - đó là dây của tao.

— Đồ trộm cắp gian dối, không phải của mày, mày thó của bà già mày thì có - Pluto Noak nhả thêm dây khi hắn leo lên ván trượt - Dù sao cũng phải có kỹ thuật đúng không, sẵn sàng chưa?

Tất cả chúng tôi gật đầu rồi ra vẻ như những kẻ vô can.

Pluto Noak cuộn dây vào rồi đột ngột giật mạnh.

Con sư tử đồng trả lời. Một, hai, ba.

— Khéo lắm - Pluto Noak lầm bầm. Cái khéo ấy hướng đến tôi.

Bầu không khí im lặng trùm lấy cả khu sân chơi.

Pluto Noak, Swinyard và Redmarley nhìn nhau.

Rồi chúng cũng nhìn tôi, như thể tôi là một trong số bọn chúng.

— Ai đó? - Ông Blake hiện ra trong khung cửa chiếu ánh sáng vàng - Xin chào?

Cái này, tôi nghĩ khi máu nóng lên và loãng ra, có thể gây phản tác dụng tệ hại.

Ông Blake bước về phía trước - Có ai ở đó không? - Cái nhìn của ông ấy dừng ở chúng tôi.

— Bố của Nick Yew - Pete Redmarley nói như thể bọn tôi đang bàn dở điều gì đó - sẽ bán con Suzuki phân khối lớn của Tom cho Grant Burch.

— Burch? - Wilcox xì mũi. - Bán cho thằng què ấy làm gì?

— Tao không nghĩ thế. Gãy một tay - Gilbert Swinyard bảo nó - không khiến người ta trở thành kẻ què quặt.

Wilcox chẳng dám cãi lại. Tôi thấy khoái.

Trong lúc bọn tôi nói chuyện đó, ông Blake nhìn chúng tôi chằm chằm đầy vẻ căm tức. Cuối cùng ông ấy đi vào.

Pluto Noak xịt mũi khi cánh cửa đóng lại - Cái sự ghê gớm chết tiệt hay gì nhỉ?

— Ghê gớm - Dean Moran nhại lại.

Dawn Madden cắn môi dưới và lén nhếch mép cười với tôi.

Tao sẽ buộc năm mươi sợi dây - tôi dùng thần giao cách cảm truyền suy nghĩ cho nó -

>- Lào già khù khờ - Ross Wilcox lầm bầm - phải mù như dơi. Hình như lào ấy đã dẫm lên sợi dây.

— Tại sao - Gilbert Swinyard trả lời - lão ta lại tìm một sợi dây chứ?

— Để bọn tao làm đi, Ploot - Pete Redmarley nói.

— Không được làm, thằng ăn trộm Pete. Cái này quá vui. Lần hai nhé?

Cái búa gõ cửa nhà ông Blake gõ một, hai...

Ngay lập tức cánh cửa mở toang và ống dây bị giật khỏi tay Pluto Noak. Nó kêu lọc cọc trên mặt đường nhựa dưới cái đu.

— Được lắm, mày... - ông Blake gắt lên với đứa chọn gõ cửa không lộ mặt và cũng chẳng sợ rúm người đang ở ngưỡng cửa nhà ông ấy hay chỗ nào đó.

Tôi đã có những khoảnh khắc kỳ lạ, khi hiện tại không phải hiện tại.

Ông Blake đi quanh vườn, cố tìm đứa nào đang lẩn trốn.

— Thế - Gilbert Swinyard hỏi Pete Redmarley bằng giọng nói to và đầy vẻ ngây thơ - nhà Yew đòi bán cho nhà Burch cái xe ấy giá bao nhiêu?

— Không biết - Pete Redmarley nói - chắc phải vài trăm.

— Hai trăm rưỡi - Dean Moran bơm vào. - Kelly nghe thấy Isaac Pye nói với “Con lửng” Harris như thế ở làng Thiên nga đen.

Ông Blake bước tới cổng. (Tôi cố giấu một nửa mặt và hy vọng ông ấy đừng biết mình) - Giles Noak, có lẽ tao biết rồi đấy. Muốn ngủ đêm nữa ở đồn cảnh sát Upton hả?

Pluto Noak nghiêng sang một bên ván trượt và nhổ một bãi nước bọt to.

— Thằng cứt nghịch ngợm, Giles Noak.

— Ông nói chuyện với cháu à? Cháu nghĩ ông truy tìm đứa gõ cửa và chạy mất ấy.

— Vớ vẩn! Chính là mày.

— Cháu bay từ cửa nhà ông trở lại chỗ này bằng một cú nhảy lớn sao?

— Vậy thì ai?

Pluto Noak cười thầm thật đáng ghét - Ai là thế nào ạ?

— Được! - Ông Blake lùi lại một bước - Tao sẽ gọi cảnh sát.

Pluto Noak nhại điệu bộ của ông Blake: “Sĩ quan Roger Blake đây. Vâng, kẻ đánh trẻ con thất nghiệp nổi tiếng ở làng Thiên nga đen. Nghe này, thằng bé này cứ liên tục gõ cửa nhà tôi rồi bỏ chạy. Không, tôi không biết nó. Không, thực ra tôi cũng không trông thấy nó, nhưng hãy đến và bắt nó. Thằng ấy đáng bị nện một trận nhớ đời bằng dùi cui cứng. Tôi nhất định muốn tự tay làm việc ấy”.

Thật kinh khủng là việc chọn gõ cửa của tôi dẫn đến chuyện này.

— Sau chuyện xảy ra với thằng bố vô tích sự của mày - giọng ông Blake trở nên cay độc - mày sẽ biết chất thải của con người đổ đi đâu.

Moran hắt xì hơi một cái thật to.

Đây là câu chuyện có thật về Giles “Pluto” Noak. Mùa thu năm ngoái, bạn gái Collete Turbot của nó được thầy dạy nghệ thuật Dunwoody của trường tôi mời tới Câu lạc bộ nghệ thuật. Câu lạc bộ hoạt động ngoài giờ học và chỉ dành cho những đứa được thầy Dunwoody mời. Collete Turbot đến và biết rằng chỉ có nó với thầy Dunwoody. Thầy ấy bảo nó để hở ngực trong phòng tối cho thầy ấy chụp ảnh. Collete bảo “Em không nghĩ thế, thưa thầy”. Dunwoody bảo Collete rằng nếu nó phí phạm những quà tặng của thiên nhiên, nó sẽ phí cuộc đời khi cưới những tay khốn và làm việc ở các quầy thu tiền. Collete Turbot bỏ về. Ngày hôm sau, Pluto Noak cùng một đứa bạn khác trong nhà máy cạo lông lợn ở Upton xuất hiện tại khu đậu xe của giáo viên và nhân viên. Một đám đông túm lại, Pluto Noak và bạn của hắn bê một góc chiếc Citroen của thầy Dunwoody và lật ngửa nó ra. HÀY NÓI VỚI BỌN LỢN ĐIỀU TAO ĐÃ LÀM, nó lấy hết sức hét vào cửa sổ phòng hội đồng, VÀ TAO SẼ NÓI VỚI BỌN LỢN VÌ SAO TAO LÀM THẾ!

Nhiều người bảo “Tôi không quan tâm”. Nhưng với Pluto Noak, không quan tâm gì là sự sùng bái.

Dù thế nào, ông Blake đã lùi một, hai bước để đề phòng trước khi Pluto Noak tiến đến cổng nhà ông ấy - Ông đã nói về cha của ai đó như thế, Roger. Thế nên chúng ta hãy xử lý việc này với tư cách là những người đàn ông. Tôi và ông, ngay bây giờ. Ông không sợ, đúng không? Martin bảo ông thực sự có tài bóp nát bọn thanh niên ngang bướng.

— Mày - ông Blake đã thấy giọng của mình hơi run và có chút hoảng sợ - mày không biết cái chó gì về điều mình đang nói đâu.

— Nhưng Martin thì biết rõ, đúng không?

— Tao không chạm một ngón tay nào tới thằng nhỏ đó.

— Không phải một ngón tay - phải mất một lúc tôi mới nhận thấy rằng giọng nói tiếp theo của Dean Moran - dùi nung giấu trong vỏ gối mới là kiểu của ông, đúng không? - chẳng thể nào biết trước chuyện gì về Dean Moran - cho khỏi để lại dấu vết gì, đúng chứ?

Pluto Noak tiếp tục ưu thế của mình - Những ngày vinh quang, hả? Rog?

— Bọn rửa hố xí độc địa! - ông Blake bước trở lại nhà mình - Tất cả chúng mày! Cảnh sát sẽ sớm tóm chúng mày...

— Ông già của tôi có những sai lầm và tôi không nói rằng ông ấy không có lỗi - Pluto Noak gọi với theo - nhưng ông ấy chưa từng làm điều gì với tôi như điều ông đã làm với Martin!

Cửa nhà ông Blake đóng ầm như một phát súng.

Ước gì tôi chưa hề khơi mào chuyện ngu ngốc về sợi dây.

Pluto Noak quay trở lại, đầy vênh váo - Tỉa hay lắm, Moran. Làm một ván Thiên thạch với tao ở làng Thiên nga đen nhé. Đi chứ?

Nhưng lời mời chỉ hướng về Gilbert Swinyard và Pete Redmarley. Cả hai trả lời “OK, Ploot”. Khi bọn chúng đi Pluto Noak gật đầu với tôi như khen “Tốt lắm”.

— Nhưng - Ross Wilcox phải nói điều gì đó - sáng mai lão Blake sẽ thấy sợi dây.

Pluto Noak nhổ bọt về phía mặt trăng - Tốt.

Giờ giải lao ở trường thường đáng sợ. Đứa nào chơi một mình sẽ bị coi là kẻ bại trận không bạn bè. Cố tìm cách nhập vào bọn hàng cao hơn như Gary Drake hay David Ockeridge có thể bị khinh miệt “Mày muốn gì?”. Còn chơi với bọn hàng thấp như Floy Chacelace hay Nicholas Briar thì bị coi là một trong số loại thấp hèn đó. Đám con gái như đám lộn xộn trong phòng giữ đồ Avril Bredon thì cũng không được. Nói thật, chẳng phải thể hiện gì nhiều với lũ con gái, chúng lại chắc chắn có mùi dễ chịu hơn đám con trai. Nhưng chẳng mấy chốc sẽ có kẻ nào đó tung tin đồn là ta thích một đứa trong số đó. Hình trái tim và chữ viết tắt tên sẽ xuất hiện trên bảng.

Tôi cố gắng tiêu thời gian giải lao ở các điểm đến liên tục thay đổi, thế nên ít nhất tôi cũng có vẻ là có chỗ nào đó để chơi.

Nhưng hôm nay thì khác, bọn trẻ đến tìm tôi. Chúng muốn biết có thật tôi đã buộc dây vào cửa trước nhà ông Roger Blake. Chút tiếng tăm của một đứa “cứng cỏi”, nhưng thầy cô biết được thì còn lâu mới “cứng” được nữa. Thế nên tôi bảo từng đứa: “À, mày có thể tin mọi thứ mày nghe thấy, mày biết đấy”. Đó đúng là một câu trả lời khéo léo. Nó có nghĩa là Tất nhiên chuyện đó đúng cũng như Sao tao lại muốn nói với mày về chuyện đó?

Quá giỏi, chúng nói với tôi. Nói như thế nghĩa là bây giờ phát điên mất.

Trong cửa hàng bán bánh kẹo, Neal Brose đang cùng mấy đứa lớp trưởng lớp sáu đứng sau quầy hàng. (Neal Brose đã được đặc cách nhờ thuyết phục thầy Kempsey rằng nó muốn tìm hiểu thế giới kinh doanh). Cả học kỳ này Neal Brose làm mặt lạnh với tôi nhưng hôm nay thì gọi to - Khỏe không hả Jason?

Sự thân thiện của nó làm tôi quên sạch tất cả - Double Decker nhé?

Một thanh Double Decker bay thẳng về phía mặt tôi. Tôi đưa một tay lên chụp lấy. Thanh sô-cô-la nằm đó dính chặt vào tay tôi, hoàn hảo.

Có một lũ chứng kiến việc ấy.

Neal Brose giơ ngón tay cái ra hiệu cho tôi trả tiền. Nhưng khi tôi thò ra đồng 15 xu, nó chỉ cười láu cá rồi ép cho những ngón tay của tôi che kín đồng xu như thể nó đã nhận tiền. Nó đóng cửa trước khi tôi kịp nói bất kỳ điều gì. Từ trước tới giờ chưa có thanh Double Decker nào ngon như lần này. Chưa có thanh kẹo nào mềm như vậy. Chưa có miếng nho nào giòn và ngọt như thế.

Rồi Duncan Priest và Mark Badbury xuất hiện với một quả bóng ten-nít. Mark Badbury hỏi “Chơi ném bóng chứ?”, như thể tôi với chúng là bạn tốt nhất của nhau từ bao năm rồi.

— OK - tôi trả lời.

— OK! - Duncan Priest nói. Chơi ném bóng ba người vẫn hay hơn.

Dạy môn nghệ thuật vẫn là thầy Dunwoody - người có xe bị Pluto Noak lật ngửa hồi năm ngoái. Vụ đó thầy Dixon nhảy vào giải cứu để tránh bê bối, Julia nghĩ thế. Chẳng có gì xảy ra với Pluto Noak và thầy Dunwoody phải tới trường nhờ xe cô Gilver tới tận khi chiếc Citroen được sửa lại. Họ sẽ thành đôi vợ chồng tốt, chúng tôi đoán thế, cả hai đều căm ghét loài người.

Khuôn mặt thầy Dunwoody bao quanh cái mũi quá khổ. Người thầy nồng nặc mùi thuốc xịt mũi của hãng Vick. Chỉ một kẻ nói lắp mới có thể nhận ra đôi môi nhỏ bé của thầy khi nói những từ có âm “T”. Phòng nghệ thuật của thầy có mùi đất sét, vì lý do gì đó. Chúng tôi không bao giờ dùng đất sét. Thầy Dunwoody dùng một cái lò làm tủ đựng chén bát, căn phòng tối là một khu vực bí hiểm chỉ có những thành viên Câu lạc bộ nghệ thuật được nhìn. Từ cửa sổ phòng nghệ thuật có thể nhìn bao quát các sân chơi, thế nên những đứa có thứ hạng cao chiếm những chỗ đó. Alaistair Nurton giữ cho tôi một ghế. Hệ mặt trời gồm từ những quả bóng bay bơm khí nóng bay trên đồi Malvern, trong buổi chiều hoàn hảo.

Bài học hôm nay về nguyên lý cân bằng. Một người Hy Lạp tên Archimedes, thầy Dunwoody nói, đã tìm ra điểm phù hợp để có thể đưa một cái cây và đường chân trời vào bất kỳ bức tranh nào. Thầy Dunwoody dạy chúng tôi cách đạt được sự cân bằng bằng cách tính tỷ lệ và sử dụng một chiếc thước kẻ, nhưng chẳng đứa nào thực sự làm được, kể cả Clive Pike. Thầy Dunvvoody tỏ thái độ kiểu Tại sao tôi lại phí cuộc đời mình chứ? Thầy nắm lấy sống mũi rồi xoa hai thái dương - Mất bốn năm ở học viện hoàng gia cho điều này. Ra khỏi đây với đống bút chì và đống thước kẻ của các cô cậu.

Trong túi đựng bút, tôi tìm thấy một mẩu giấy khiến cho phòng nghệ thuật quay cuồng:

Một con số và bốn từ làm thay đổi đời tôi.[73]

Khi ta 13 tuổi, các băng nhóm chỉ kiểu trẻ con, như ngôi nhà ghép đồ chơi. Nhưng Ma quỷ là một tổ chức bí mật. Bố Dean Moran bảo tôi rằng Ma quỷ có từ nhiều năm trước, là một liên minh bí mật của các tá điền. Nếu người chủ không chịu trả nợ, Ma quỷ sẽ đến để thực thi công lý. Thời đó, một nửa số đàn ông của làng Thiên nga đen là thành viên của nó. Từ đó nó đã thay đổi nhưng cực kỳ bí mật. Những tay Ma quỷ thực sự không bao giờ nói về nó. Pete Redmarley và Gilbert Swinyard phải là thành viên của nó, tôi và Dean Moran đoán vậy, còn Pluto Noak phải là một thủ lĩnh. Ross Wilcox huênh hoang rằng hắn là một thành viên, thế nghĩa là không phải thế. John Tookey thì có. Một lần hắn bị mấy tay đầu trọc xô đẩy trong một tiệm nhảy ở Malvern Link. Thứ sáu tuần sau đó khoảng hai chục tay Ma quỷ trong đó có Tom Yew đi xe máy và xe đạp tới chỗ ấy. Có nhiều lời kể khác nhau nhưng kết cục đều giống nhau ở chỗ bọn đầu trọc đó bị bắt liếm giày của John Tookey. Đó mới chỉ là một chuyện trong hàng trăm chuyện khác.

Sự dũng cảm của tôi đêm qua đã tác động tới những người tác động, hình như có Pluto Noak. Nhưng ai đã chuyển cho tôi mẩu giấy này? Tôi đút nó vào túi áo và nhình quanh lớp một lượt xem có gặp ánh mắt nào ra hiệu. Chẳng có tín hiệu gì từ Gary Drake hay Neal Brose. David Ockeridge và Duncan Priest có vẻ quen thuộc nhưng bọn nó sống ở tận đường Castlemorton và Corse Lawn. Ma quỷ thuộc riêng Black Swan.

Phía dưới cửa sổ, mấy đứa con gái năm thứ hai đang chạy để tập cho Ngày thể thao. Thầy Carver lắc cây gậy chơi hockey gần chỗ đánh bóng như Man Friday. Đôi vú của Lucy Snead nảy tưng tưng như hai chàng ngốc.

Ai chuyền cho ta mấu giấy này? Tôi nghĩ trong lúc ngắm bắp chân màu cà phê sữa của Dawn Madden. Nó đã tới đó.

— Đàn gảy tai trâu! - Thầy Dunwoody hít thuốc xịt Vick - Đàn gảy tai trâu!

Lúc tôi về nhà, mẹ đang nói chuyện điện thoại nhưng vẫn vẫy tay vui vẻ với tôi. Trên tivi đang chiếu mấy trận tennis giải Wimbledon nhưng tiếng được vặn nhỏ xuống. Mùa hè ập vào căn nhà mở toang. Tôi pha một cốc lúa mạch Barley của hàng Robinson và pha cho mẹ một cốc. “Ôi” - mẹ nói khi tôi đặt cốc xuống cạnh điện thoại - “quả là một cậu con trai biết nghĩ mà em đã nuôi dạy được!”. Mẹ đã mua bánh quy giòn sô-cô-la Maryland. Bánh còn rất mới. Tôi nhặt lấy năm cái, đi lên gác, thay đồ, nằm lên giường, ăn bánh quy, cho đĩa Mr Blue Sky của ELO[74] vào máy và nghe đi nghe lại chừng năm hay sáu lần, trong đầu đoán xem Ma quỷ muốn thử gì tôi. Luôn có một cuộc kiểm tra. Bơi qua hồ trong rừng, leo lên mỏ đá ở Pig Lane, ban đêm phải bò qua vườn sau của vài nhà. Ai quan tâm chứ? Tôi sẽ làm. Nếu tôi là một tay Ma quỷ, ngày nào cũng tuyệt diệu như hôm nay.

Đĩa hát dừng. Tôi lọc hết lấy những âm thanh của buổi chiều.

Mì ống kiểu Bolognese thường là thịt băm, mì ống và một ít nước sốt. Nhưng tối nay thì mẹ thực hiện đúng công thức, chẳng phải sinh nhật của ai cả. Ba, Julia và tôi lần lượt đoán các thành phần làm món ăn. Rượu vang, cà tím (loại mềm chứ không phải cứng), nấm, cà rốt, ớt đỏ, tỏi, hành, pho-mát lát và thứ bột đỏ gọi là ớt bột. Ba nói về những thứ gia vị mà trước quý như vàng hay dầu mỏ bây giờ. Những chiếc thuyền lớn đi xuyên đại dương đã đưa chúng về Jakarta, Bắc Kinh và Nhật Bản. Ba bảo hồi đó Hà Lan mạnh như Liên Xô bây giờ. Hà Lan! (Thường tôi nghĩ con trai không trở thành đàn ông. Con trai chỉ là giấy nhồi bột dưới cái mặt nạ đàn ông. Đôi lúc ta có thể nói rằng thằng con trai vẫn ở trong đó). Julia kể về buổi chiều làm việc trong văn phòng luật sư ở Malvern. Chị ấy đang làm thêm vào dịp hè, sắp xếp hồ sơ, trả lời điện thoại và đánh máy. Chị ấy đang để dành tiền để đi nghỉ với Ewan vào tháng 8 này bằng tàu hoả xuyên châu Âu. Chỉ cần trả 175 bảng là có thể đi miễn phí trên mọi con tàu ở châu Âu trong vòng một tháng. Sáng đón bình minh ở Acropolis, chiều đón hoàng hôn ở hồ Geneva.

Một việc quá dễ dàng.

Nhưng thôi, bây giờ tới lượt mẹ - Mọi người không thể tin nổi hôm nay ai ở chỗ Penelope Melrose đâu.

— Anh quên béng phải hỏi - đợt này ba đã cố gắng hơn để ra vẻ thân thiện - Chuyện thế nào? Ai vậy?

— Penny vẫn tốt, nhưng bà ta chỉ mời Yasmin Morton-Bagot vào thôi.

— Yasmin Morton-Bagot? Đó phải là một cái tên bịa.

— Không ai bịa tên cô ta đâu, Michael. Cô ấy dự tiệc cưới của mình đấy.

— Thế hả?

— Penny, Yasmin và em không thể rời nhau ra, hồi học đại học ấy.

— Phái đẹp, Jason - ba gật đầu với tôi vẻ láu cá - thường đi săn theo nhóm.

Có vẻ an toàn khi cười đáp lại câu ấy.

— Đúng đấy, ba - Julia nhận xét - không giống phái không đẹp, ý ba thế phải không?

Mẹ thêm vào - Yasmin cho nhà ta những cốc uống rượu Italia cổ.

— Ô, mấy cái cốc đó! Những cái cốc khó tính không có chân nên em chẳng thể nào đặt chúng xuống, đúng chứ? Chúng vẫn chiếm chỗ trên gác xép hả?

— Em hơi ngạc nhiên bởi anh không nhớ nhiều hơn về cô ấy, cô ấy rất nổi. Anh chồng Bertie là tay gôn bán chuyên nghiệp.

— Thế hả? - ba có vẻ ấn tượng - Thế hả?

— Vâng, anh ta kỷ niệm sự nghiệp chơi gôn của mình bằng việc ăn ngủ với một bác sĩ vật lý trị liệu. Tài khoản chung ở ngân hàng hết nhẵn nhụi, chẳng để lại cho Yasmin xu mẻ nào.

Ba lại diễn như Clint Eastwood - Thế là loại đàn ông nào nhỉ?

— Nhưng đó lại là nguyên nhân thành công của cô ấy. Cô ấy bước vào ngành thiết kế nội thất.

Ba hít hơi qua kẽ răng - Công việc đầy rủi ro.

— Cửa hàng đầu tiên của cô ấy ở Mayfair nổi tiếng lắm, một năm sau đó cô ấy mở cửa hàng tiếp theo ở Bath. Cô ấy không phải dạng khoa trương, nhưng thực ra đã làm một số công trình cho hoàng gia. Bây giờ cô ấy sống cùng Penny để mở cửa hàng thứ ba ở Cheltenham. Đây cũng là một phòng trưng bày lớn, dùng để triển lãm. Nhưng cô ấy thất vọng với bà quản lý ban đầu cô ấy thuê để điều hành chỗ đó.

— Nhân sự luôn là công việc đòi hỏi sự tinh tế trong kinh doanh. Chỉ vừa mới đây anh đã nói với Dany Lawlor, nếu...

— Cô ấy mời em đảm nhận việc đó, anh xem.

Một thoáng im lặng đáng ngạc nhiên.

— Tuyệt vời đấy mẹ - Julia rạng rỡ - thế thì tuyệt.

— Cảm ơn, con yêu!

Môi ba nhếch lên để tạo một nụ cười - Chắc chắn đó là đề nghị hay, Helena.

— Em đã điều hành cửa hàng của Freda Henbrook ở Chelsea trong 18 tháng.

— Chỗ nho nhỏ buồn cười em đã làm sau khi ra trường hả?

— Mẹ có đôi mắt tinh tế về màu sắc, hàng dệt và các thứ loại đó - Julia nói với ba - và với con người thì mẹ thật tuyệt. Mẹ đủ sức làm cho khách hàng mua bất kỳ thứ gì.

— Không ai phủ nhận! - ba làm cử chỉ đùa ra vẻ đầu hàng - Ba chắc cô Yasmin Turton-Bigot này sẽ không...

— Morton-Bagot. Yasmin Morton-Bagot.

—...sẽ không phải từ bỏ ý tưởng của mình nếu có chút gì đó hoài nghi, nhưng...

— Yasmin là một thương gia bẩm sinh. Cô ấy tự chọn nhân sự cho mình.

— Và...em nói...cái gì với cô ấy?

— Thứ hai cô ấy sẽ gọi điện xem em quyết định thế nào.

Những người gióng chuông ở nhà thờ thánh Gabriel bắt đầu làm công việc hàng tuần của mình.

— Chỉ thế này thôi, gì thì nó cùng không phải là một kim tự tháp bán hàng chứ, Helena?

— Đó là một phòng trưng bày và đồ nội thất, Michael.

— Và em đã bàn thảo các điều khoản? Không phải chỉ có tiền phần trăm chứ?

— Yasmin trả lương, chỉ giống các siêu thị của Greenland thôi. Em nghĩ anh sẽ hài lòng với triển vọng em sẽ có nguồn thu nhập. Anh sẽ không phải đổ ra một đồng tiền nào cho những ý nghĩ bất chợt của em nữa. Em sẽ tự lo được tiền cho chúng.

— Anh hài lòng. Tất nhiên anh phải như vậy.

Bọn quạ đen tụ tập trên cánh đồng, ngay phía ngoài hàng rào nhà tôi, bên kia hòn non bộ.

— Thế em sẽ đi về Cheltenham hàng ngày, đúng không? Sáu ngày một tuần?

— Năm. Khi em đã thuê được một trợ lý thì chỉ còn bốn. Cheltenham gần hơn nhiều so với Oxford hoặc London hay bất kỳ nơi nào anh có thể đến.

— Thế nghĩa là có sự thay đổi lớn với cuộc sống của chúng ta.

— Kiểu gì nó cũng đang diễn ra mà. Julia sắp đi học đại học, Jason thì không còn là một đứa bé nữa.

Gia đình lại chọn thời điểm này để nhìn vào tôi - Con cũng hài lòng mẹ ạ.

— Cảm ơn bé yêu.

(Mười ba tuổi quá già so với kiểu gọi “Bé yêu”).

Julia giục mẹ - Mẹ sẽ nhận công việc đó chứ?

— Mẹ rất muốn - mẹ cười vẻ ngượng nghịu - dính vào việc nhà hằng ngày...

— Dính? - ba rít lên vẻ buồn cười - Tin anh đi, chẳng có kiểu nào như dính vào cửa hàng. Cả ngày nghỉ lẫn ngày thường.

— Một phòng trưng bày với một cửa hàng. Và ít ra em cũng được giao tiếp, gặp gỡ mọi người.

Ba trông có vẻ lúng túng thật - Em biết cả tá người.

Mẹ trông cũng lúng túng thật - Ai?

— Cả tá! Alice chẳng hạn.

— Chị Alice có nhà, có một gia đình, có việc làm thêm. Lại ở Richmond. Một nửa ngày chị ấy đi bằng hãng tàu hoả Anh quốc.

— Láng giềng của nhà mình tốt bụng.

— Chắc chắn rồi, nhưng bọn em chẳng có điểm chung nào.

— Nhưng...còn tất cả bạn bè em trong làng?

— Michael, bọn mình đã sống ở đây ngay sau khi sinh Jason, nhưng bọn mình vẫn là dân phố. Ôi, họ lịch sự, hầu hết là thế. Trước mặt chúng ta, nhưng...

(Tôi nhìn chiếc đồng hồ Casio. Buổi hẹn của tôi với Ma quỷ đã gần).

— Mẹ nói đúng - Julia nghịch chiếc vòng cổ có chữ thập Ai Cập mà Ewan cho - Kate bảo nếu con không sống ở làng Thiên nga đen từ Chiến tranh hoa hồng[75], con sẽ chẳng thể là dân bản xứ.

Ba trông bực dọc, như thể chúng tôi không muốn hiểu ý ba.

Mẹ hít một hơi sâu - Em thấy cô đơn! Đơn giản thế thôi!

Đám bò quất đuôi đuổi những con ruồi bám trên những cái mông bẩn thỉu.

Nghĩa địa đầy những xác người đang thối rữa nên tất nhiên đó là nơi đáng sợ, có một chút như vậy. Nhưng vài thứ cũng chỉ là một thứ nếu ta nghĩ đủ lâu về chúng. Mùa hè năm ngoái, vào những ngày có nắng, tôi đã đạp xe xa đến hết ranh giới của tấm bản đồ 150 của Cục bản đồ Anh, một lần tới cả Winchcombe. Nếu tôi tìm thấy một nhà thờ kiểu Norman (tròn) hay một nhà thờ kiểu Saxon (thấp) không có ai xung quanh, tôi sẽ giấu xe đạp đằng sau và nằm xuống bãi cỏ nghĩa địa. Những con chim vô hình, bông hoa lạ trong một lọ mứt. Không có thanh kiếm thần nào cắm vào đá nhưng tôi vẫn tìm thấy một bia mộ từ năm 1665. 1665 là năm xảy ra bệnh dịch, tôi nhớ như vậy. Hầu hết các nấm mộ đều biến mất sau vài thế kỷ, ngay cả cái chết cũng không tồn tại vĩnh viễn. Câu buồn thảm nhất tôi tìm thấy trên một tấm bia mộ đồi Bredon thế này: NHỮNG ĐỨC HẠNH LỚN LAO CỦA BÀ SẼ KÉO DÀI THÊM CUỘC SỐNG. Chôn người cũng có mốt, như quần ống loe với ống tuýp. Thủy tùng được trồng ở nghĩa địa vì ma quỷ ghét mùi thủy tùng ông Broadwas bảo tôi thế. Tôi không biết mình có tin điều đó không, nhưng bảng Weejee[76] hoàn toàn có thật rồi. Có hàng đống chuyện về việc chiếc cốc tạo các chữ như SA TĂNG LÀ CHÚA TỂ CỦA CHÚNG TA vỡ ra, rồi bọn trẻ phải gọi cha cố đến. (Một lần Grant Burch bị quỷ ám và bảo Philip Phelps rằng nó sẽ chết vào ngày 2 tháng 8 năm 1985. Bây giờ Philip Phelps không chịu đi ngủ nếu dưới gối nó không có một cuốn kinh thánh).

Người ta thường chôn cất cho mặt quay về phía Tây, nên khi tiếng kèn trumpet cuối cùng nổi lên, tất cả những người chết sẽ bò lên, đi về phía Tây, hướng về ngai vàng của chúa Giê-su để được phán quyết. Lấy làng Thiên nga đen làm chuẩn, ngai vàng của chúa Giê-su sẽ nằm ở Aberystwytch. Những người tự tử lại được chôn cho mặt quay về phía Bắc. Những người này sẽ không thể gặp được chúa Giê-su vì những người chết chỉ đi theo đường thẳng. Rốt cuộc họ sẽ dừng ở John O’Groats. Aberystwytch còn là nơi ẩn náu, ba bảo, nhưng John O’Groats chỉ là vài ngôi nhà, là nơi đất Scotland dừng lại.

Chẳng có vị thần phán xử tốt hơn người phán xét con người?

Đề phòng Ma quỷ theo dõi, tôi lăn một vòng đúng kiểu lính SAS. Nhưng nghĩa địa thánh Gabriel hoang vắng, chuông vẫn gióng. Khi đến gần hơn, những quả chuông không kêu từng hồi mà đung đưa, ngân nga. 8 giờ 15, rồi quá 8 giờ 15. Một cơn gió nổi lên rồi hai cây huyết mộc lớn vặn xương răng rắc. 8 giờ 30. Chuông ngừng hẳn. Sự yên tĩnh lại bao trùm như lúc đầu. Tôi bắt đầu lo lắng về thời gian. Ngày mai là thứ 7, nhưng nếu tôi không về nhà trong khoảng một tiếng nữa, tôi sẽ bị khốn khổ vì Con gọi chuyện này là gì? Chín hay mười người đánh chuông rời khỏi nhà thờ, vừa đi vừa nói chuyện về một ai đó tên Malcom tham gia Giáo hội thống nhất[77], lần cuối cùng người ta thấy anh ta là khi phát hoa ở Coventry. Những người đánh chuông lướt khỏi cổng quàn và tiếng của họ trôi về phía làng Thiên nga đen.

Tôi nhận thấy một đứa trẻ ngồi trên tường nghĩa địa. Nó quá nhỏ nên không thể là Pluto Noak. Gầy giơ xương nên không thể là Grant Burch, Gilbert Swinyard hay Pete Redmarley. Tôi lặng lẽ bước đến chỗ nó. Nó đội một cái mũ lính kiểu mũ bóng chày, lưỡi trai quay ra phía sau, như Nick Yew.

Tôi biết Nick Yew là một Ma quỷ

— Được rồi, Nick.

Nhưng đó là Dean Moran, nó hét “A...aaaaa” và nhảy khỏi tường.

Dean Moran từ một bụi tầm ma nhảy lên, đập mạnh vào tay, chân và cổ - Bọn ong khốn kiếp này đốt tao đau phát khốn! - Moran biết nó trông hèn yếu trước tôi nên khó mà tỏ ra láo được - Mày làm gì ở đây?

— Tao nhận được một mẩu giấy mời gia nhập... - Có thể thấy được Moran đang nghĩ - Ê. Mày chưa bao giờ là Ma quỷ, đúng không?

— Không, tao nghĩ...mày là Ma quỷ.

— Thế còn mẩu giấy này trong túi đựng bút của tao?

Nó lôi ra một mẩu giấy y hệt của tôi.

Moran hiểu ngay sự bối rối của tôi - Mày cũng nhận được một mẩu?

— Ừ - Việc này thật khó hiểu, đáng thất vọng và đáng lo. Khó hiểu bởi Moran không là Ma quỷ. Đáng thất vọng vì gia nhập Ma quỷ làm gì khi những đứa kém cỏi như Moran cũng được mời? Đáng lo bởi cái này biểu hiện của một âm mưu gì đó.

Moran cười nhe răng - Hay đấy, Jace! - tôi kéo nó lên trên tường - Ma quỷ đã chọn cả hai đứa mình cùng một lúc, hình như vậy.

— Đúng - tôi trả lời - hay đấy.

— Họ phải nghĩ rằng bọn mình là một đôi tự nhiên. Như thể Starsky và Hutch[78] vậy.

— Ừ - tôi nhìn quanh nghĩa địa xem có dấu hiệu gì của Ross Wilcox.

— Hay Torvill và Dean. Tao hiểu mày rõ như hiểu mấy cái váy có trang kim kia.

— Buồn cười thật.

Sao Kim sáng lên cạnh mặt trăng.

— Mày có nghĩ - Moran hỏi - họ sẽ đến không?

— Họ chẳng bảo bọn mình đợi ở đây là gì?

Một tiếng kèn trumpet như bị bóp nghẹt phát ra từ những căn nhà tranh trong khu đất của nhà thờ.

— Ừ...nhưng mày có nghĩ đây là trò lừa?

Bắt chúng tôi đợi có thể là bài kiểm tra bí mật. “Nếu Moran bỏ cuộc”, Maggot chỉ ra “mày sẽ là một tay Ma quỷ tốt hơn” - Về nhà đi, nếu mày nghĩ là cần làm thế.

— Không, tao không có ý đó. Tao chỉ có ý... Ê! Sao cháy kìa!

— Đâu?

— Kia kìa!

— Không phải! - nếu điều này có trong sách thì Moran không phải đứa biết - Đó là một vệ tinh. Không phải nó cháy đâu. Hiểu không? Nó chỉ bay theo một đường thẳng. Có thể đó là trạm thí nghiệm không gian và đang mất độ cao. Chẳng ai biết nó sẽ rơi xuống chỗ nào.

— Nhưng thế thì sao?

— Im!

Có một góc vắng - nơi các phiến đá vỡ chồng đống dưới bụi nhựa mồi xoắn chặt vào nhau. Có tiếng thì thầm, chắc chắn tôi nghe rõ. Bây giờ thì tôi ngửi thấy mùi thuốc lá. Moran theo sau tôi, hỏi “Cái gì thế?” (Chúa ơi, Moran có thể là một thằng ngu làm hỏng việc). Tôi khom người chui vào màn tối. Pluto Noak đang ngồi trên một trong số tấm bia cũ, Grant Burch ngồi trên một đống ngói, còn John Tookey ngồi trên tấm bia thứ ba. Ước gì chính tôi chứ không phải Moran là người phát hiện ra chúng. Ngay cả việc nói “Xin chào” với những đứa có hạng cũng bị coi là mềm yếu nên tôi nói “Được rồi!”.

Pluto Noak, chúa của Ma quỷ, gật đầu trả lời.

— Ui - Moran khom người nên húc đầu vào mông tôi, làm tôi nhao về trước suýt ngã - Xin lỗi, Jace.

Tôi bảo Moran - Đừng nói “xin lỗi”.

— Thế bọn mày biết luật chứ? - Pluto Noak nhổ bọt - Bọn mày leo qua bức tường này, rồi có 15 phút chui qua sáu khu vườn sau. Khi xong, bọn mày đi vào làng, Swinyard và Redmarley sẽ đợi dưới gốc sồi. Nếu đúng hẹn, xin mời gia nhập hội Ma quỷ. Nếu muộn hoặc không có mặt, bọn mày không phải Ma quỷ và sẽ không bao giờ được thế.

Tôi và Moran gật đầu.

— Và nếu bọn mày bị bắt - John Tookey chêm vào - bọn mày cũng không phải Ma quỷ.

— Và - Grant Burch chỉ một ngón tay ra hiệu cảnh cáo - phải coi như chưa khi nào bọn mày nghe nhắc tới Ma quỷ.

Tôi bạo dạn đương đầu với hệ thần kinh của mình và Gã treo cổ để nói - Ma quỷ là gì, Ploot?

Pluto Noak dành cho tôi một cái khịt mũi để động viên.

Bụi nhựa ruồi xao động khi chuông nhà thờ thánh Gabriel báo hiệu 9 giờ kém 15 - Vào tư thế chuẩn bị! - Grant Burch nhìn tôi - Đứa nào trước?

— Em - tôi nói mà không liếc Moran - em không phải đồ trẻ con.

Khu vườn sau của căn lều thứ nhất như một cái vũng toàn cỏ ba chẽ. Leo lên tường, tôi liếc bốn mặt nghĩa địa rồi đu người xuống, lao vào đám cỏ dài. Ngôi nhà như muốn nói: “Họ đi rồi”. Không đèn đóm, một cái ống nước chưa lắp, rèm cửa sợi lỏng lẻo. Tuy nhiên tôi vẫn bò thấp. Biết đâu có kẻ chiếm đất phi pháp nào đó đang theo dõi khi đèn tắt. Người tôi uốn cong như một cánh cung. (Đây là điểm khác giữa tôi và Moran. Nó cứ cao người mà đi như mình là chủ khu này vậy. Moran chẳng bao giờ tính tới những tay bắn tỉa). Tôi leo lên cây mận mọc cạnh tường.

Có tiếng kêu sột soạt của chiếc áo khoác ngay trên đầu tôi.

Đồ thộn. Đó chỉ là một cái cặp đính cúc đang kêu lật phật giữa các cành cây. Tiếng kèn trumpet lại nổi lên lần nữa, bây giờ thì rất gần. Tôi trượt khỏi một cành cây có mấu rồi bám vào bức tường tiếp theo một cách dễ dàng, nhưng còn dễ hơn khi cái mái che bằng phẳng của bồn chứa xăng của khu vườn tiếp theo nằm ngay dưới tôi một bàn chân, được phủ những quả hình nón màu xanh đen.

Cái bồn kêu lùng bùng dưới chân.

Khu vườn thứ hai phức tạp hơn nhiều. Các bức rèm và một nửa số cửa sổ đều mở. Hai bà béo ngồi trên ghế sô-pha xem hai nhân vật hoạt hình Asterix và Obelix trong chương trình It’s a knock-out (Đó là cú nốc-ao) châu Âu. Bình luận viên Stuart Hall đang cười như máy bay chở quân nhảy dù đang cất cánh. Khu vườn chẳng có gì che chắn, chỉ có một cái lưới cầu lông giăng ngang bãi cỏ xác xơ. Những cây gậy đánh cricket bằng nhựa, những cái bát, một mục tiêu để bắn cung, một cái hồ chèo thuyền đầy rác rưởi, tất cá đều thuộc loại rẻ tiền và trông như đồ Woolworth[79]. Tệ hơn, một chiếc xe có toa kéo đồ ngay bên bờ. Trong xe có một gã lùn và béo tròn có gương mặt như bị lật ngược đang thổi trumpet. Hai má của hắn bạnh ra như ễnh ương nhưng ánh mắt lại dán chặt vào khu vườn.

Những nốt thăng.

Những nốt trầm.

Phải đến ba phút trôi qua. Tôi không biết phải làm gì.

Cửa sau mở ra và một bà béo ì ạch leo lên xe, bà ta nói: “Vicky đang ngủ”. Tay thổi kèn kéo bà ta vào trong, quẳng cây kèn đi và họ bắt đầu hôn nhau ngấu nghiến như hai con chó đang tấn công một chậu sữa. Chiếc xe bắt đầu rung lên.

Tôi tụt xuống bồn, trượt chân khi dẫm phải một quá bóng chơi gôn. Đứng dậy, tôi băng nhanh qua bãi cỏ, ngã vào một cái vòng bóng vồ vô hình, đứng dậy rồi tính trượt mất cú nhảy lên xà hàng rào. Chân tôi kêu oạch.

“Mày là đồ con lợn”, Thằng em sinh đôi chưa hề ra đời nói.

Tôi quăng người qua hàng rào và rơi xuống đất như một khúc gỗ.

Căn nhà thứ ba là nơi ông Broadwas sống. Nếu Broadwas nhìn thấy tôi, ông ấy sẽ gọi điện cho ba, và tới nửa đêm tôi sẽ bị tống khỏi nhà. Những giàn phun nước phun xì...xì...xì. Những giọt nước bắn vào mặt tôi. Gần như cả khu vườn được một giàn đậu tây che khuất.

Nhưng tôi lại gặp một mối nguy khác. Từ khu vườn của tay thổi kèn trumpet phía sau, có tiếng đàn bà gọi: Quay lại đây, Gerry! Đó lại là lũ cáo thôi mà!

— Đó chẳng phải con cáo nào đâu! Lại một trong đám trẻ đấy!

Ngay phía trên đầu tôi, hai bàn tay nắm lấy hàng rào.

Tôi chạy hết tốc lực về phía cuối dãy đậu tây, người co rúm lại.

Ông Broadwas đang ngồi trên bậc cửa, nước từ vòi đang chảy vào một can bằng kim loại.

Nỗi lo sợ làm tim tôi đập loạn xạ như bầy ong bay trong thùng.

Giọng người đàn bà phía sau tôi lại vang lên - Cáo đấy, Gerry! Tuần trước Ted đã bắn hạ một con mà anh ấy nghĩ là quái thú Dartmoor lần đầu xuất hiện.

— Ô, mày phải không? - Hai bàn tay đã rời phía trên hàng rào. Một bàn tay đặt vào lỗ thủng mà chân đã tạo ra ở hàng rào - Một con cáo làm điều này, phải không?

Một lần nữa những ngón tay của tay kèn trumpet lại đặt ngay phía trên đầu tôi. Hàng rào rên rỉ khi gã chuẩn bị nâng người lên.

Ông Broadwas không nghe thấy gì do tiếng nước chảy, nhưng bây giờ ông đã để vòi nước xuống bậc cửa và đứng dậy.

Dính bầy, dính bẫy rồi. Ba sẽ giết tôi mất.

— Mandy? - Một giọng nói phát ra từ khu vườn phía sau tôi - Gerry?

— Ồ, Vicks - Người đàn bà đầu tiên lên tiếng - Chúng ta nghe thấy một giọng lạ.

— Anh đang tập kèn trumpet - người đàn ông nói - thì nghe thấy âm thanh buồn cười nên đi ra để ngó xem cái gì.

— Ôi thế à? Nó là cái gì thế?

Ông Broadwas đã xoay lưng về phía tôi.

Hàng rào phía trước cao quá nên không thể nhảy qua được, cũng chẳng có chỗ dựa.

— EM CÓ THỀ NGỬI THẤY MÙI CỦA NÓ TRÊN NGƯỜI ANH! EM CÓ THỂ NHÌN THẤY SON MÔI.

Ông Broadwas vặn vòi nước lại.

— ĐÓ KHÔNG PHẢI SON MÔI, EM ĐIÊN RỒl - Tay thổi kèn phía trên hàng rào hét lên - ĐÓ LÀ MỨT.

Ông già làm vườn cho nhà tôi bước về phía tôi nấp, nước trong thùng kêu lọc bọc. Ánh mắt ông ấy gặp mắt tôi nhưng ông ấy trông không có vẻ ngạc nhiên.

— Cháu vào để lấy quá bóng tennis - tôi buột miệng.

— Cách dễ nhất là đi qua phía sau nhà kho.

Ban đầu tôi chẳng hiểu gì.

— Cậu đang lãng phí thời gian quý giá - Ông Broadwas quay sang mấy luống hành.

— Cám ơn ông - Tôi nghẹn họng, ông biết tôi nói dối nhưng vẫn tha cho tôi. Tôi chạy nhanh ra lối đi và vòng qua góc nhà kho. Không khí sặc mùi creozot mới. Hồi còn trẻ chắc chắn ông Broadwas phải là một Ma quỷ.

— TA ƯỚC MẸ CÁC NGƯỜI ĐÃ DÌM CHẾT CÁC NGƯỜI Ở KÊNH WORCESTER! - Giọng người đàn bà xé rách bóng tối mát mẻ - CẢ HAI NGƯỜI! BẰNG CÁI BAO ĐỰNG ĐẦY ĐÁ.

Khu vườn thứ tư đầy đồ bằng đá, tràn ngập ánh trăng nhưng lổn nhổn toàn bê tông và sỏi. Chỗ nào cũng có đồ trang trí. Không có những ông thần lùn mà chỉ có nhân sư Ai Cập, Smurf[80], thần tiên, rái cá biển, gấu Pooh, lợn con và eeyore[81], gương mặt Jimmy Carter[82]. Một dãy núi Himalaya cao ngang tầm vai chia đôi khu vườn. Khu vườn có tượng điêu khắc này một thời là huyền thoại của địa phương, tác giả Arthur Evesham cũng vậy. Tờ Malvern Gazeeter đã in những bức ảnh kèm theo tít KHÔNG CÓ NƠI NÀO NHƯ THẾ GIỚI TÍ HON. Cô Throckmorton đã đưa chúng tôi đến xem. Một người đàn ông tươi cười mang nước Ribena với bánh quy đông thành đá cho chúng tôi, trên bánh có hình những người đàn ông to bằng đầu đinh đang chơi thể thao. Sự thật là vài ngày sau chuyến thăm của chúng tôi, Arthur Evesham chết vì bệnh tim. Đó là lần đầu tiên tôi nghe nói về bệnh tim, tôi nghĩ đó là do tim bạn đột nhiên phát điên và tấn công cơ thể như một con chồn giết một con thỏ. Đôi lúc bà Evesham xuất hiện ở cửa hàng nhà ông Rhydd, mua vài thứ đồ tạp hoá dành cho người già như dầu bóng Duraglit và kem đánh răng Germolene.

Vương quốc của Arthur Evesham đã xấu đi kể từ khi ông mất. Một bức tượng Nữ thần tự do nằm như vũ khí mà kẻ giết người ném đi. Gấu Pooh thì trông như nạn nhân bị tạt axit. Thế giới phá hủy mọi thứ nhanh hơn con người có thể làm. Mũi của Jimmy Carter đã rụng, tôi nhét cái mũi ấy vào túi. Dấu hiệu duy nhất của sự sống là một ngọn nến ở cửa sổ trên gác. Tôi bước lên Vạn lý trường thành, suýt nữa bị rách hết quần áo vì Edmund Hillary và Sherpa Tenzing[83] đang nhô trong ánh trăng buổi tối. Phía ngoài là một quảng trường tí hon hình thành từ một ô cỏ đặt trong bãi sỏi đẹp đẽ. Tôi nhảy vào ô cỏ này.

Nước lạnh ngập tới tận háng.

“Đồ ngu”, Thằng em sinh đôi chưa hề ra đời cười, “đồ ma cô đần độn thối tha”.<

>Khi tôi chật vật leo lên bể, nước tràn ra ống quần. Những lá li ti bám lấy tôi như những thứ của người nôn ra. Nếu nhìn thấy tôi thế này chắc mẹ sẽ phát điên. Nhưng tôi phải đẩy ý nghĩ đó ra khỏi đầu vì bên kia hàng rào tiếp theo là khu vườn nguy hiểm nhất.

Tin vui là trong vườn không có ông Blake, còn phía bên kia có những cây có gai và cây lưỡi kiếm. Đó là lớp che chắn quá ổn cho một tay Ma quỷ. Tin buồn là một nhà kính chạy theo toàn bộ chiều dài vườn, ngay bên dưới hàng rào cao chừng 10 foot, nó không chắc chắn rung lên dưới sức nặng của tôi. Tôi vừa phải ngồi chồm hổm vừa di chuyển dọc hàng rào cho tới khi đến ngay bên cửa sổ phòng khách nhà ông Blake. Nếu ngã, tôi sẽ lao qua ô kính và đâm bổ xuống sàn bê tông, trừ phi xuyên qua đám dây khoai tây như vị cha cố trong phim The Omen (Điềm báo) được một cột chống sét hỏng giữ lại.

Tôi chẳng có lựa chọn nào.

Những mảnh sắc cửa vào mông và bàn tay khi tôi leo dọc theo hàng rào. Chiếc quần jeans của tôi sũng nước, nặng trịch. Tôi suýt ngã. Nếu mặt ông Blake thò ra khỏi bất kỳ cửa sổ nào, chắc tôi tiêu mất. Tôi lại suýt ngã lần nữa.

Tôi lựa chỗ trống ở nhà kính rồi nhảy xuống.

Sàn kêu đánh “cạch” một cái. May cho tôi, người duy nhất trong phòng khách nhà Blake là Dustin Hoffman, trong phim Kramer versus Kramer (Kramer chống Kramer)[84]. Chúng tôi đã xem phim này hồi đi nghỉ ở Oban. Julia khóc từ đầu đến cuối và bảo đó là bộ phim tuyệt vời nhất từ trước tới nay. Với một người sống độc thân, phòng khách nhà Blake có vẻ nữ tính. Đèn chụp thêu ren, tượng những cô gái vắt sữa bằng gốm, tranh những đồng cỏ nước Mỹ mà ta có thể mua ở Littlewood nếu thực sự cần. Chắc chắn vợ ông ta mua tất cả những thứ này trước khi mắc bệnh bạch cầu. Tôi bò dưới cửa sổ bếp và lần theo vườn ở bụi cây mé bên kia cho tới khi đến một thùng đo nước. Tôi chẳng biết tại sao lúc đó tôi lại ngoái nhìn ngôi nhà.

Ông Blake đang đứng ở cửa sổ trên gác nhìn chăm chăm ra ngoài. Sáu mươi giây trước thì chẳng thể có chuyện ông ấy không thấy tôi leo trên hàng rào. (Chiến thắng cần cả vận may và lòng dũng cảm. Tôi hy vọng Moran có thật nhiều hai thứ này). Một miếng dán của ban nhạc Rolling Stones trên ô cửa sổ bám chặt không thể bóc ra. Những bóng ma trên các miếng dán khác bao quanh miếng này. Chắc đó đã từng là phòng của Martin, con trai ông ấy.

Ông Blake nheo mắt nhìn chăm chăm. Chẳng hiểu ông đang nhìn cái gì? Nhưng chắc không phải nhìn tôi, bởi tôi đã được lá che khuất.

Nhìn vào mắt của ông Blake, tôi chỉ thấy những hố sâu.

Khu vườn cuối cùng là vườn nhà Mervyn Hill. Bố Squelch chỉ là người hót rác nhưng vườn của ông ta như vườn của Hội ủy thác quốc gia. Vì đây là nhà nằm ở cuối khu đất nhà thờ nên vườn kéo dài thêm. Một lối đi lát gạch vuông gồ ghề chạy tới một chiếc ghế băng nằm dưới lưới mắt cáo có hồng leo. Qua những ô cửa sổ kiểu Pháp, tôi có thể trông thấy Squelch đang chơi trò Twister (Lốc xoáy) với hai đứa nhỏ hơn và một người đàn ông mà tôi đoán là bố của chúng. Chắc đó là khách nhà Squelch. Bố Squelch xoay cánh quạt. Gần sô-pha là chiếc tivi đang chiếu đoạn cuối Kramer versus Kramer, khi người mẹ của thằng nhóc đến đưa nó đi. Tôi dự tính đường đi, phải chắc thắng. Đống phân trộn ở phía bên kia vườn sẽ giúp tôi vượt qua bức tường. Cúi người, tôi chạy về phía bụi hồng leo trên lưới mắt cáo. Hương hoa hồng toả đầy - im nào - giọng một người đàn bà trong bóng tối ngồi trên chiếc ghế băng cách tôi chừng năm foot - ôi, cún con!

— A - người bạn trong bóng tối của người ấy nói - cún con lại đạp à, con yêu?

(Tôi không thể tin rằng họ không nghe thấy tôi).

— Ôi, ôi, ôi... - tiếng thở hổn hển - nó rất thích nghe tiếng mẹ đấy, mẹ ạ. Đây này, mẹ sờ vào chỗ phồng lên đây...

Khoảng trống giữa bụi hồng và bức tường phía sau đủ rộng cho tôi ẩn mình nhưng lại quá nhiều gai nên tôi không thể đi qua.

— Con cũng là một nghệ sĩ nhào lộn nhỏ đúng kiểu đấy, con yêu - người lớn trong bóng tối nói - bây giờ mẹ nhớ lại như thế. (Tôi nhận ra mẹ của Squelch). Mẹ nhớ hồi đó là nhào lộn với võ kung-fu. Merv thì luôn trật tự hơn, thật đấy, ngay cả trước khi nó ra đời.

— Con sẽ chẳng tiếc nếu con nhỏ này quyết định rằng đã đến lúc chào đời. Con cũng nửa chán nửa không khi là con cá voi có chân.

(Chúa ơi, một bà chứa. Một điều ai cũng biết là nếu ta khiến họ sốc, đứa bé sẽ ra đời quá sớm. Thế rồi đứa bé sẽ chậm phát triển trí não như Squelch và lỗi sẽ thuộc về tôi).

— Thế con vẫn chắc đây là con gái?

— Eleanor ở Accounts, đúng rồi, bà ấy đã kiểm tra. Lấy một sợi tóc của con, quấn nhẫn cưới rồi treo trên lòng bàn tay của con. Nếu nó lắc thì đó là con trai. Nhẫn của con thì lộn, thế nên đây là con gái.

— Thế là bà già ấy vẫn làm trò đó phải không?

— Eleanor nói bà ấy chưa bao giờ sai cả.

(Chiếc đồng hồ Casio của tôi báo thời gian sắp hết).

Màn chơi trò Lốc Xoáy đã chuyển thành một đống cơ thể chen nhau, tay vặn vẹo và chân ngó ngoáy - Nhìn đám hỗn độn kìa! - Mẹ Squelch tặc lưỡi vẻ hài lòng.

— Ben hơi tiếc khi bạn anh ấy ở nhà kho chỗ cửa hàng Catalogue của Kay từ chối, mẹ ạ. Con muốn nói về chuyện khi Merv ra trường ấy.

— Không thể giúp được nó, con yêu. Ben đã rất tốt khi cố gắng giúp.

(Thời gian, chiếc Casio của tôi rung lên, thời gian. Tôi quá cẩn thận, đó là vấn đề. Điều quan trọng với một tay Ma quỷ là ta không quan tâm liệu ta có cứng rắn quá không).

— Nhưng mẹ lo Merv sẽ thế nào. Nhất là khi con và Bill không còn ở bên cạnh, con biết đấy.

— Mẹ! Mẹ sẽ nghe bản thân mình?

— Merv không thể nghĩ về tương lai của nó, đúng không? Merv không thể nghĩ xa hơn ngày kia đâu.

— Nó luôn có con và Ben, nếu chuyện đó xảy ra.

— Con sẽ sớm có ba người đế chăm sóc, phải không? Merv khiến mẹ ngày càng bận bịu thêm chứ không phải nhàn đi. Bill nói gì không? Tuần trước thấy nó trong phòng ngủ xem lần lượt hết một trong những cuốn Penthouse. Toàn ảnh phụ nữ khỏa thân với những dạng như vậy. Đến mức đó đấy.

— Con nghĩ cái đó tự nhiên thôi mẹ ạ. Mọi đứa con trai đều làm thế.

— Mẹ biết mà Jacks, nhưng con biết ở một đứa con trai bình thường, điều đó đòi hỏi có chỗ giải tỏa. Tán tỉnh bọn con gái, đại loại thế. Mẹ yêu Merv nhưng đứa con gái nào muốn đi chơi với một thằng như nó? Nó sẽ giúp gia đình ra sao? Merv không phải dạng bất bình thường, nhưng cũng chẳng khôn ngoan, con biết đấy. Không đủ chậm chạp để nhận trợ cấp mà cũng không đủ tinh nhanh dể làm những việc như chuyển hòm ở Catalogue của Kay.

— Ben bảo thế chỉ là vì họ sẽ không thuê người làm, do suy thoái kinh tế thôi.

— Bi kịch là Merv láu cá hơn so với mức nó thể hiện ra ngoài. Merv hợp với vai trò thằng đần độn trong làng bởi tất cả những đứa trẻ khác đều trông đợi điều đó.

Một con mèo màu xám bạc đi ngang bãi cỏ. Những tiếng chuông sẽ báo hiệu tôi là kẻ về sau.

— Ben bảo nhà máy cạo lông lợn ở Upton sẽ nhận bất kỳ ai. Kể cả Giles Noak, sau khi bố nó được cho nghỉ.

(Tôi chưa bao giờ nghĩ về chuyện này. Squelch chỉ là đứa trẻ bị coi thường. Nhưng hãy nghĩ khi Squelch 20 hoặc 30 tuổi. Nghĩ về việc mẹ nó đã làm cho nó hàng ngày. Khi Squelch 50 hay 70 tuổi, điều gì đã xảy ra với nó? Chuyện đó có gì buồn cười?).

— Mẹ dám nói là việc cạo lông lợn có thể..., nhưng con yêu, cái đó không làm thay đổi...

— Jackie? - Tiếng ông bố trẻ gọi từ khung cửa sổ kiểu Pháp - Jacks!

Tôi ép người vào giữa bụi hồng và bức tường.

— Chuyện gì ở đó thế Ben? Em với mẹ ở đây! Ngồi ở ghế băng.

Gai hồng như bọn thủy quái bập răng vào ngực và mặt tôi.

— Wendy có ở đó với em không? Merv lại hào hứng quá nữa này. Bị một trong những tai nạn nho nhỏ...

— Tổng cộng có mười phút - mẹ Squelch lầm bầm - đó phải là một kỷ lục mất. Được rồi, Ben! - bà đứng dậy - Mẹ về đây!

Khi mẹ Squelch và bà chị đang mang bầu đang bước lại nhà thì tiếng chuông đầu tiên của nhà thờ thánh Gabriel nổi lên báo hiệu 9 giờ. Tôi lao đến bên tường và dẫm lên đống phân. Nhưng thay vì bật lên thì tôi lại thụt nửa người xuống lớp đặc sệt đang thối mục. Có một loại ác mộng trong đó mặt đất là kẻ thù của ta.

Tiếng chuông thứ hai nổi lên.

Tôi chật vật bước ra khỏi đám đất rồi leo qua tường, đung đưa người khi tiếng chuông thứ ba rồi nhảy xuống lối giành cho xe dẫn xuống cạnh cửa hàng nhà ông Rhydd. Vẫn mặc chiếc quần bám đầy phân ướt, tôi chạy nhanh về phía đường cắt và về sớm hơn thời gian do Ma quỷ quy định đúng hai tiếng chuông chứ không phải sớm hơn hai phút.

Khi đặt chân tới gốc sồi, tôi thở như kéo bễ và chẳng còn đủ sức để rút những gai hồng cắm vào tất nữa. Nhưng ngay lúc đó, ngay ở đó, tôi cảm thấy hạnh phúc hơn bất kỳ khi nào mình có thể nhớ được. Chưa bao giờ như vậy.

— Con trai ta - Gilbert Swinyard vỗ lưng tôi - là một trong những tay Ma quỷ.

— Chưa từng có ai làm giỏi như vậy, nhớ thế! - Grant Burch cười kiểu ma quái - vẫn cò